Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CHƯƠNG III kế HOẠCH hóa QUÁ TRÌNH xây DỰNG kết cấu hạ TẦNG TRÊN VÙNG LÃNH THỔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.85 KB, 27 trang )

CHƯƠNG III
KẾ HOẠCH HÓA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG TRÊN
VÙNG LÃNH THỔ.
I. Vai trò của kết cấu hạ tầng trong đời sống kinh tế - xã hội và quốc phòng:
1. Kết cấu hạ tầng : là một tổ hợp các cơ sở của các ngành được tổ chức, bố
trí trên một vùng lãnh thổ để phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, phục vụ
cho đời sống của dân cư, phục vụ cho an ninh quốc phòng.
Cũng có thể kết cấu hạ tầng là tổng thể các ngành và các loại hình hoạt
động phục vụ quá trình sản xuất xã hội nhằm đảm bảo tính liên tục của các chu
chuyển kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, là cơ sở để cho sản xuất và sức lao động
hoạt động được bình thường
Nếu hiểu một cách khái quát nhất thì kết cấu hạ tầng là những điều kiện vật
chất của lãnh thổ nhằm phục vụ cho sản xuất đời sống và quốc phòng.
Ví dụ về kết cấu hạ tầng:
- Kết cấu hạ tầng ngành giao thông vận tải: hệ thống đường bộ (xây dựng
đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi,..), đường sắt (nâng cấp đường sắt Bắc –
Nam,…) , cảng biển (hệ thống các cảng biển nước sâu ở miền Trung ,…) ,…..
- Kết cấu hạ tầng ngành năng lượng: Nhà máy thủy điện Hòa Bình, tập đoàn
điện lực EVN, nhà máy điện hạt nhân( Ninh Thuận),….
- Kết cấu hạ tầng ngành bưu chính viễn thông: Mạng bưu chính, mạng vận
chuyển, Đầu tư các thiết bị như máy ATM, máy bán ấn phẩm tự động, máy bán tem
tự động, máy bán đồ uống, xây dựng mạng vô tuyến băng rộng công nghệ Wimax,
mạng Internet: triển khai thiết bị truy nhập DSLAM đến trung tâm các huyện, các xã
có kinh tế phát triển trong tỉnh, …..
- Kết cấu hạ tầng cấp nước và vệ sinh môi trường: xây dựng hệ thống cấp
thoát nước ở các tỉnh - thành phố, hệ thống xử lý chất thải ở các tỉnh, thành phố,
doanh nghiệp,….


- Kết cấu hạ tầng của an ninh quốc phòng: tập trung xây dựng cơ sở nghiên
cứu, sản xuất, sửa chữa lớn, cải tiến, hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự,


vật tư kỹ thuật được Nhà nước đầu tư phục vụ quốc phòng, an ninh.
- Kết cấu hạ tầng về văn hóa - y tế: các công trình văn hóa thể thao, trường
học, bệnh viện,...
2. Vai trò của kết cấu hạ tầng :
Ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, kết cấu hạ tầng được hình thành dựa
trên hai yếu tố :
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất
- Trình độ phân công lao động xã hội
Khi kết cấu hạ tầng được xây dựng và phát triển thì sẽ tạo ra nhiều tác động
tích cực đến nhiều mặt:
- Kết cấu hạ tầng là điều kiện bảo đảm sự tồn tại và phát triển của sản xuất, đời
sống và quốc phòng.
- Trong phân vùng quy hoạch, trong phân bố lực lượng sản xuất thì kết cấu hạ
tầng hiện có và khả năng tạo ra kết cấu hạ tầng trong tương lai sẽ trở thành căn cứ để
các chuyên gia cân nhắc, xem xét nên phân bố nhà máy nào, ngành nào vào vùng
lãnh thổ là hợp lý.
- Trên một cấp vùng lãnh thổ hành chính - kinh tế ( tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương ) thì kết cấu hạ tầng là điều kiện , là phương tiện để khai thác tài nguyên,
để phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống
- Trong thời kỳ mở cưả, kết cấu hạ tầng là yếu tố đầu tiên thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài.
- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn, đem đến
tác động cao nhất đối với giảm nghèo.
- Phát triển kết cấu hạ tầng tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và cải
thiện tình trạng sức khỏe cho người dân, góp phần giảm thiểu bất bình đẳng về mặt
xã hội cho người nghèo.


- Kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại là điều kiện để phát triển các
vùng kinh tế động lực, các vùng trọng điểm và từ đó tạo ra các tác động lan tỏa lôi

kéo các vùng liền kề phát triển.
- Phát triển kết cấu hạ tầng góp phần vào việc giữ gìn môi trường.
 Tóm lại, kết cấu hạ tầng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, tạo động lực cho sự phát triển. Hệ thống kết
cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược
lại, một hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở lực lớn đối với sự phát
triển. Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, kết cấu hạ tầng thiếu và yếu đã gây ứ
đọng trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ vốn đầu tư, gây ra những “nút cổ
chai kết cấu hạ tầng” ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế.
Thực tế trên thế giới hiện nay, những quốc gia phát triển cũng là những
nước có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại. Trong khi đó, hầu
hết các quốc gia đang phát triển đang có hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển.
Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển hạ tầng đang là ưu tiên của nhiều quốc gia đang
phát triển. Ở Việt Nam, với quan điểm “kết cấu hạ tầng đi trước một bước”, trong
những năm qua Chính phủ đã dành một mức đầu tư cao cho phát triển kết cấu hạ
tầng. Khoảng 9-10% GDP hàng năm đã được đầu tư vào ngành giao thông, năng
lượng, viễn thông, nước và vệ sinh, một tỷ lệ đầu tư kết cấu hạ tầng cao so với chuẩn
quốc tế.
Dưới đây là những thành tựu rất đáng ghi nhận của kết cấu hạ tầng ở
Việt Nam trong thời gian qua:


Trong kết cấu hạ tầng giao thông, về cơ bản đã hoàn thành việc cải tạo,

nâng cấp hệ thống quốc lộ chính, gồm Trục dọc Bắc Nam với quốc lộ I, đường Hồ
Chí Minh – giai đoạn I; hệ thống quốc lộ hướng tâm là quốc lộ 2, 3, 5, 6, 32, 13, 51,
22, Xuyên Á; hệ thống đường vành đai biên giới phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam
Bộ là các quốc lộ 279, 4A, 4B, 14, 14C – giai đoạn I, N2 – Đức Hòa – Thạch Hóa,



NI – Châu Đốc – Tịnh Biên; các tuyến quốc lộ nối đến các cửa khẩu quốc tế, các
vùng kinh tế trọng điểm và hệ thống đường cao tốc đang triển khai xây dựng.
Từng bước nâng cấp, hiện đại hóa các tuyến đường sắt hiện có; triển khai dự
án đường sắt Yên Viên – Phả Lại – Hạ Long – Cái Lân và nghiên cứu xây dựng
đường sắt cao tốc Bắc Nam; mật độ đường sắt nước ta là 0,8km/100km 2. Hoàn thành
nâng cấp hai tuyến đường thủy thành phố Hồ Chí Minh – Cà Mau và TP Hồ Chí
Minh- Kiên Lương; vận tải thủy phục vụ thủy điện Sơn La, tuyến vận tải thủy Đồng
Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên; đang triển khai luồng cho tầu biển có trọng tải
lớn vào sông Hậu, kênh Chợ Gạo. Hoàn thành nâng cấp giai đoạn I các cảng biển
tổng hợp quốc gia chủ yếu như các cảng Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Vũng Áng,
Tiên Sa, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài gòn, Cần Thơ và hoàn thành một số cảng địa
phương cần thiết đáp ứng lượng hang hóa thông qua. Đang triển khai Cảng Quốc tế
Cái Mép- Thị Vải; chuẩn bị triển khai cảng cửa ngõ quốc tế Vân Phong. Cải tạo,
nâng cấp cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Tân Sơn nhất và các cảng hàng không
nội địa như Cảng Cam Ranh, Phú Bài, Phú Cát, Côn Sơn, Vinh, Điện Biên Phủ,
Pleiku, Đồng Hới, Liên Khương, Cần Thơ giai đoạn I. Đang triển khai nhà ga hành
khách cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng với việc kéo dài đường cất hạ cánh 35R17L và nhà ga T2 cảng hàng không quốc tế Nội Bài.


Ngành điện đã có bước phát triển vượt bậc, từ năm 2000 đến nay, nhiều

dự án sản xuất điện được khởi công, công suất và sản lượng điện đã tăng 4 lần; đã
đạt được và vượt kế hoạch một số chỉ tiêu trong Chiến lược phát triển ngành điện.Về
sản xuất và cung ứng điện, tổng công suất lắp đặt các nhà máy điện đến năm 2010
khoảng trên 20.000MW, tăng 3,2 lần so với năm 2000; sản lượng điện sản xuất ước
đạt khoảng trên 100 tỷ kwh, bằng 3,7 lần năm 2000 và 1,8 lần so với năm 2005. Đến
năm 2009, hệ thống lưới điện có trên 3.400 km đường dây và 11 trạm 500kv với tổng
dung lượng7.500 MVA. Lưới điện 220 kv có gần 85.000 km với dung lượng 19.000
MVA; lưới 110kv và lưới trung hạ thế bao phủ 98% các huyện, 97,9% các xã. Cả

nước có 96% hộ gia đình được cấp điện lưới quốc gia. Hầu hết các dự án quy mô
lớn, đa mục tiêu đều do các doanh nghiệp nhà nước lớn đầu tư xây dựng theo quy


hoạch phát triển điện lực quốc gia. Đã đưa vào vận hành khai thác khoảng 6.500
MW thủy điện, chiếm 34,2% tổng công suất lắp đặt toàn hệ thống (19.400 MW). Đã
có một số dự án đầu tư theo hình thức BOT như điện Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3, thủy
điện Cần Đơn…


Kết cấu hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin được khẩn trương

xây dựng và củng cố với hệ thống đường truyền dẫn hữu tuyến, vô tuyến, cột trạm
phát sóng (BTS), hệ thống bể ngầm, cống ngầm dẫn cáp…vận hành, khai thác, thực
hiện chiến lược tăng tốc, mạng thông tin mở rộng nhanh, đi vào kỹ thuật hiện đại hòa
nhập quốc tế. Các dịch vụ bưu chính viễn thông đang có nhiều cải thiện, đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển.


Sự phát triển nhanh chóng hệ thống đô thị, trong đó có các công trình hạ

tầng kỹ thuật được quan tâm đầu tư xây dựng, từng bước nâng cao chất lượng đô thị,
cải thiện đời sống nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, bước đầu tạo lập nền tảng
phát triển đô thị bền vững. Đến thàng 10/2010, cả nước có 754 đô thị, trong đó 2 đô
thị loại đặc biệt, 10 đô thị loại I, 12 đô thị loại II… với dân số khoảng 26,8 triệu
người, mức tăng bình quân 3,4%/năm, tỷ lệ đô thị hóa năm 2010 đạt khoảng 30%.


Hệ thống nước sạch đã cung cấp đến hầu hết người dân thuộc khu vực


thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một phần khu vực thị trấn, thị tứ. Hệ
thống xử lý nước thải, rác thải được đầu tư xây dựng.Về cấp thoát nước và vệ sinh
môi trường, năm 2009, cả nước có 31 dự án ODA cấp nước với tổng mức đầu tư
23.194 tỷ đồng, trong đó vốn nước ngoài 16.297 tỷ đồng, vốn trong nước 6.897 tỷ
đồng. Các dự án vận động ODA giai đoạn 2006-2010 gồm 18 dự án với tổng mức
đầu tư khoảng 20.376 tỷ đồng. Đã có 3 dự án FDI trong lĩnh vực cấp nước với số vốn
73 triệu USD tại Tiền Giang (18,2 triệu USD), tại Đình Vũ Hải phòng (19 triệu
USD) và Bình An Bình Dương (35,8 triệu USD).
Năm 2009, cả nước có 27 dự án ODA về thoát nước và xử lý rác thải với tổng
mức đầu tư 39.389 tỷ đồng, trong đó vốn nước ngoài 32.440 tỷ đồng, vốn trong nước
6.949 tỷ đồng. TP Hà Nội có 5 dự án (3 dự án thoát nước thải, 2 dự án xử lý rác thải)
với tổng mức đầu tư 7.133 tỷ đồng TP Hồ Chí Minh có 2 dự án thoát nước thải và xử


lý rác thải với tổng mức đầu tư 15.830 tỷ đồng; tỉnh Kiên Giang có 2 dự án thoát
nước thải và xử lý rác thải với tổng mức đầu tư 334 tỷ đồng; tỉnh Sơn La có 2 dự án
thoát nước thải và xử lý rác thải với tổng mức đầu tư 1.185 tỷ đồng.


Các dự án xã hội văn hóa y tế đã cải tạo, nâng cấp và xây mới bệnh

viện, đặc biệt là bệnh viện Trung ương tuyến cuối đã được hỗ trợ vốn tín dụng đầu tư
của Nhà nước như Bệnh viện Tai Mũi họng, Bênh viện Nội tiết Trung ương, Phụ sản
Trung ương, Bênh viện Trung ương Huế, Y dược TP Hồ Chí Minh nằm trong
chương trình nâng cấp 18 bệnh viện công được Chính phủ phê duyệt. Vốn tín dụng
đầu tư cho chương trình kiên cố hóa kênh mương đảm bảo tưới tiêu cho hàng ngàn
ha trồng cây lương thực, hoa màu có ý nghĩa đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp,
nông thôn, kích cầu đầu tư.; các dự án xã hội hóa giáo dục ngày càng phát huy hiệu
quả, giảm tải cho hệ thống trường học, tăng thêm năng lực đào tạo khoảng 1.500 học
sinh/năm, đào tạo nghề cho 3.500 lao động/năm, chủ yếu các nghề trong lĩnh vực xây

dựng, công nghiệp, dịch vụ…
3. Phân loại kết cấu hạ tầng :
Dựa vào chức năng của mỗi loại kết cấu hạ tầng người ta chia kết cấu
hạ tầng thành 2 loại :
- Kết cấu hạ tầng sản xuất ( kỹ thuật ) là hệ thống những ngành trực tiếp phục
vụ quá trình sản xuất như : giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cung ứng vật tư kỹ
thuật, các trạm và hệ thống truyền tải điện năng, nhiên liệu
- Kết cấu hạ tầng xã hội bao gồm các ngành đảm bảo điều kiện chung cho việc
phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, nhà ở, dịch vụ đời sống, các công trình công cộng
Sự phân chia kết cấu hạ tầng như trên chỉ là tương đối vì trong thực tế
mỗi ngành của kết cấu hạ tầng đều thực hiện chức năng phục vụ sản xuất và phục vụ
các yêu cầu khác của xã hội.
Ngoài cách phân loại trên, toàn bộ kết cấu hạ tầng có thể được phân chia thành
nhiều loại khác nhau dựa trên tiêu chí khác nhau. Cụ thể như:
- Nếu căn cứ theo lĩnh vực kinh tế - xã hội, thì kết cấu hạ tầng có thể được
phân chia thành: kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế, kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động


xã hội, và kết cấu hạ tầng phục vụ an ninh quốc phòng. Tuy nhiên trên thực tế, ít có
loại kết cấu hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động
xã hội và ngựơc lại.
- Nếu căn cứ theo sự phân ngành của nền kinh tế quốc dân, thì kết cấu hạ tầng
có thể được phân chia thành: kết cấu hạ tầng trong công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông vận tải, bưu chính viễn thông, xây dựng, hoạt động tài chính, ngân hàng, y tế,
giáo dục, văn hóa xã hội,...
- Nếu căn cứ theo khu vực dân cư, vùng lãnh thổ thì kết cấu hạ tầng có thể
được phân chia thành: kết cấu hạ tầng đô thị, kết cấu hạ tầng nông thôn, kết cấu hạ
tầng kinh tế biển (ở những nước có kinh tế biển, và nhất là khi kinh tế biển lớn như ở
nước ta), kết cấu hạ tầng đồng bằng, trung du, miền núi, vùng trọng điểm phát triển,
các thành phố lớn...

II. Kế hoạch hóa quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật trên mỗi vùng
lãnh thổ :
Kế hoạch hóa phát triển kết cấu hạ tầng theo phương châm “Hạ tầng đi
trước một bước, đảm bảo phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội”. Hệ thống
kết cấu hạ tầng đã thể hiện được vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Giải
quyết vận chuyển hành khách và hàng hoá tốt hơn; phục vụ bưu chính và thông
tin thuận tiện và nhanh chóng hơn; cung cấp điện, nước đủ hơn cho nhu cầu sản
xuất và sinh hoạt; ngành bưu chính viễn thông đặc biệt phát triển nhanh để đáp
ứng yêu cầu hội nhập...
1. Những đặc điểm chủ yếu của kết cấu hạ tầng kỹ thuật với quá trình xây
dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật :
- Vì kết cấu hạ tầng có chức năng chủ yếu là phục vụ sản xuất và đời sống,
phục vụ an ninh quốc phòng nên phải được nghiên cứu và xây dựng sớm, đi trước về
thời gian và tốc độ phát triển so với sản xuất và đời sống
- Tự bản thân các ngành này không tạo ra giá trị sử dụng mới vì thế hiệu quả
của kết cấu hạ tầng kỹ thuật được đánh giá qua hoạt động của các ngành khác.


- Các loại công trình trong kết cấu hạ tầng nói chung là tồn tại lâu dài. Vì thế
khi xây dựng các loại công trình cần chú ý đến việc :
Thăm dò, điều tra điều kiện của lãnh thổ để tránh những thiệt hại, hư
hỏng công trình trong tương lai
Khi xây dựng mỗi công trình kết cấu hạ tầng đều phải cơ dự báo đáp ứng nhu
cầu tương lai
Chú ý hạn chế bớt hao mòn vô hình của công trình, bảo đảm tính thẩm
mỹ lâu dài, nhất là những công trình kiến trúc công cộng
- Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thường cần vốn lớn, thời gian xây
dựng lâu, thu hồi vốn chậm. Từ đó đặt ra vấn đề cần coi trọng việc lựa chọn những
công trình trọng điểm để đầu tư, xây dựng. Cần đa dạng hóa nguồn vốn để xây dựng
kết cấu hạ tầng.

2. Kế hoạch hóa xây dựng một số mạng lưới kết cấu hạ tầng kỹ thuật chủ
yếu
Trong những năm tới mức vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng đòi hỏi phải tăng lên 1112% GDP thay vì ở mức 9-10% như hiện nay.
a. Kế hoạch hóa xây dựng mạng lưới cung cấp năng lượng trên vùng lãnh
thổ
- Vai trò của năng lượng trong sản xuất đời sống và quốc phòng. Năng lượng
là một nhu cầu không thể thiếu, nhiều khi mang tính quyết định đối với quá trình
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống và trong quốc phòng.
Nhu cầu năng lượng trên thế giới ngày càng tăng. Trong thời kỳ 1876-1950
nhu cầu năng lượng tăng bình quân hàng năm là 1,4%. Thời kỳ 1950-1972 là 5,3%.
Thời kỳ 1972-1992 là 10%. Báo cáo Triển vọng Năng lượng Thế giới 2005, Cơ quan
Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết nhu cầu dầu mỏ trên toàn cầu sẽ tăng 50% vào
năm 2030, cao hơn 5,5 tỷ tấn so với mức tiêu thụ hiện nay.
Theo chiến lược năng lượng của chính phủ cho giai đoạn 2006-2015, mỗi
năm Việt Nam phải tăng công suất điện từ 17-20%. Nhu cầu năng lượng điện ở
Việt Nam dự báo đến năm 2020 cần 175-208 tỷ kwh, cần tổng công suất tương ứng


là 30 ngàn đến 36 ngàn Mw. Trong khi đó khả năng các dạng năng lượng ở Việt
Nam đến năm 2020 là : Than 15 triệu tấn/năm, dầu mỏ : 30-35 triệu tấn/năm, thủy
điện : 50-60 tỷ kwh, nhiệt điện : 200Mw và phải tính đến phương án xây dựng nhà
máy điện nguyên tử. Về hệ thống cấp điện hiện nay đã được thống nhất chung
trong cả nước, đặc biệt là hệ thống đường dây 500 KV từ Bắc vào Nam là một
bước tiến mới của mạng phân phối điện hiệu quả ở các vùng.
Hiện nay, 100% số huyện đã có điện lưới quốc gia. Điện năng có thời điểm
chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất trong các trung tâm công nghiệp. Chi phí cho
điện năng và viễn thông còn cao... Ở các nước công nghiệp phát triển thì mức tiêu
dùng năng lượng bình quân đầu người rất cao. Một người Mỹ tiêu dùng năng lượng
nhiều hơn người dân Nam Á 17 lần.. Nước Pháp một năm tiêu dùng khoảng 200
triệu tấn xăng dầu. Nhiều cuộc chiến tranh đều bắt nguồn từ tham vọng giải quyết

nhu cầu năng lượng.
- Năng lượng là một điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa của
một quốc gia, trong một vùng lãnh thổ. Chẳng hạn như ở Việt Nam do thiếu năng
lượng nên một số vùng nông thôn rất khó thực hiện quá trình công nghiệp hóa nông
nghiệp.
Những đặc điểm chủ yếu của năng lượng :
- Tồn tại dưới nhiều dạng vật lý khác nhau : lỏng, rắn, hơi. Từ đó đò hỏi phải
có các phương tiện chuyển tải, công nghệ sử dụng phù hợp.
- Một số dạng năng lượng không dự trữ được hoặc khó dự trữ. Quá trình sản
xuất và tiêu dùng xảy ra cùng một lúc. Vì thế trong điều hành sản xuất cung cấp và
sử dụng cần bảo đảm cân đối giữa khả năng sản xuất cung cấp và tiêu dùng để tránh
bị lãng phí
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng trên mỗi vùng lãnh thổ :
- Nhịp độ phát triển sản xuất, nhất là phát triển công nghiệp, xây dựng, vận
tải....
- Cơ cấu sản xuất của lãnh thổ, vì khi sản xuất sản phẩm mỗi ngành đều có
nhu cầu năng lượng khác nhau


- Cơ cấu nghề nghiệp của dân cư, vì mỗi tầng lớp, mỗi nghề nghiệp có nhu cầu
tiêu dùng năng lượng khác nhau.
- Mức sống và cách tổ chức cuộc sống văn minh hay lạc hậu
- Công nghệ cũng là một yếu tố tác động đến nhu cầu năng lượng
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng năng lượng trên mỗi vùng lãnh thổ
- Điều kiện tự nhiên tài nguyên của mỗi vùng lãnh thổ
- Trình độ khoa học công nghệ. Chẳng hạn như Việt Nam có điều kiện phát
triển thủy điện, dầu khí nhưng nếu thiếu khoa học kỹ thuật, nếu không hợp tác với
nước ngoài thì không thể khai thác được. Việc sử dụng năng lượng mặt trời, năng
lượng gió phổ biến ở nhiều nước, nhưng ở Việt Nam vẫn còn hạn chế vì thiếu công
nghệ để sử dụng.

- Quan hệ quốc tế : tức là sử dụng hoạt động ngoại thương để tăng khả năng
năng lượng. Chẳng hạn như Nhật Bản nhập khẩu 100% than đá, dầu thô. Ở Pháp
60% nhu cầu năng lượng dựa vào nhập khẩu
Vấn đề xây dựng bảng cân đối năng lượng trên mỗi vùng lãnh thổ : Để
cân đối nguồn năng lượng trên mỗi vùng lãnh thổ cần tiến hành qua các bước sau :
- Bước 1 : Tiến hành điều tra cơ bản để nám : trữ lượng, chủng loại, chất
lượng mỗi dạng năng lượng
- Bước 2 : Xác định khả năng sản xuất năng lượng tại mỗi vùng và phần yêu
cầu trung ương cung cấp
- Bước 3 : Hình thành nội dung bảng cân đối năng lượng trên mỗi vùng lãnh
thổ :
Cần xác định sẽ sử dụng loại năng lượng nào là thích hợp
Bố trí địa điểm các cơ sở sản xuất các dạng năng lượng
Cân đối nguồn và phương tiên chuyển tải
Xác định khả năng tham gia vào mạng lưới năng lượng quốc gia.
Với những chủ trương, chính sách ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng,
trong những năm qua Việt Nam đã dành lượng vốn hàng năm chiếm khoảng 910% GDP đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng.


Bảng các cơ chế cấp vốn đầu tư kết cấu hạ tầng (% GDP)

Nguồn vốn

Giao thông

Người sử dụng

Điện

Viễn thông


Nước

Tổng

0,9

0,3

0,1

1,3

0,3

0,3

3,5

0,1

1,0

ODA

1,7

1,2

Ngân sách


0,8

0,1

Trái phiếu CP

1,2

NHTMNN

0,1

Tư nhân

0,2

1,2
1,2

0,2

0,3

0,6

2,0

Cộng đồng
Tổng


4,0

3,4

1,4

0,1

0,1

0,6

9,4

Nguồn: Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (2006).
b. Kế hoạch hóa quá trình xây dựng hệ thống cung cấp nước và thoát nước
trên mỗi vùng lãnh thổ
Vai trò của nước trong đời sống kinh tế - xã hội :
- Nước đối với sản xuất : trong sản xuất công nghiệp luôn luôn cần đến nước,
trong sản xuất nông nghiệp nước là yếu tố quyết định ( nhất nước, nhì phân, tam cần,
tứ giống ). Muốn tăng hệ số sử dụng đất thì phải có đủ nước.
Vì vậy cần cung cấp đủ nước cho mọi hoạt động sản xuất. Ở Việt Nam đầu tư
vào thủy lợi thường chiếm 80-90% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp
- Nước đối với đời sống : Nước là một yếu tố của sự sống. Không có nước thì
không thể tồn tại sự sống. Hàng năm thế giới phải chi 300 tỷ USD để góp phần giải
quyết nhu cầu nước ngọt cho dân cư.
Nội dung kế hoạch xây dựng hệ thống cung cấp nước và thoát nước trên
mỗi vùng lãnh thổ :
- Tiến hành điều tra thăm dò nguồn nước trên lãnh thổ. Nắm số lượng nước,

chất lượng nước trên bề mặt : sông, ao, hồ....Điều tra thăm dò khả năng nước ngầm


của vùng. Nắm quy luật, tình trạng phân bố nước theo thời gian và không gian. Hệ
thống cung cấp nước sạch được chú ý, tỷ lệ dân nông thôn được dùng nước sạch
tăng lên.
Dựa trên cơ sở những thông tin đó mới có cơ sở để bố trí các công trình
cung cấp nước và thoát nước đạt hiệu quả cao.
- Xác định nhu cầu nước cho sản xuất và đời sống. Để xác định nhu cầu nước
cho sản xuất cần nắm quy mô, tốc độ phát triển của mỗi ngành, định mức tiêu dùng
nước để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm của mỗi ngành trong công nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp cần nắm diện tích các loại cây trồng và thời vụ để
xác định nhu cầu nước cho sản xuất nông nhiệp, lâm nghiệp. Để xác định nhu cầu
nước cho tiêu dùng phải nắm quy mô dân cư, nghề nghiệp và định mức tiêu dùng
nước bình quân trên đầu người
- Nắm thực trạng về cơ sở vật chất hiện có của hệ thống cung cấp nước và
thoát nước trên mỗi vùng lãnh thổ
Sau đó cân đối giữa thực trạng và nhu cầu để xác định cần xây dựng
thêm những công trình cấp thoát nước, trung ương hay địa phương xây dựng, nguồn
vốn xây dựng ....
Hiện nay chính phủ Việt Nam đã tính toán, dự báo nhu cầu vốn đầu tư
để tăng cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc cung cấp nước sạch từ năm 2000-2020 là
29.065 tỷ đồng và 1052 triệu USD .
- Rà soát lại, hoàn chỉnh quy hoạch hệ thống cung cấp nước và thoát nước trên
mỗi vùng lãnh thổ. Quy hoạch này phải được xây dựng theo từng khu vực sản xuất,
từng điểm dân cư.
- Xây dựng bảng cân đối nước và thoát nước cho toàn vùng, cho mỗi ngành và
từng điểm dân cư bao gồm :
Cân đối nước cho sản xuất công nghiệp: cân đối theo từng cụm xí
nghiệp, từng ngành

Cân đối nước cho sản xuất nông nghiệp: cân đối theo thời vụ, theo từng
loại cây trồng


Cân đối nước cho đời sống: theo từng điểm dân cư
- Để xây dựng có hiệu quả mạng lưới cung cấp nước và thoát nước cần nắm
được đặc điểm của nước :
Nước trong thiên nhiên vận động theo chu kỳ : mưa theo mùa, thủy triều
lên xuống theo chu kỳ. Ở Việt Nam theo tính toán thì trữ lượng nước đạt 850 tỷ
m3/năm, có thể bảo đảm đủ nước cho sản xuất và đời sống. Song mùa mưa chiếm
đến 80% lượng nước, mùa khô chỉ có 20%. Trong mùa mưa thường gây lũ lụt ảnh
hưởng đến sản xuất và đời sống. Một số vùng núi thì lại khan hiếm nước đặc biệt là
miền núi phía Bắc.
Nước luôn luôn liên hệ mật thiết với vùng lãnh thổ, với hệ thống sông, ao, hồ,
biển, không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Chẳng hạn như đồng bằng Sông
Hồng, Đồng bằng Sông Cửu Long có lượng nước phong phú hơn miền Trung và Tây
Nguyên
Từ hai đặc điểm trên đòi hỏi phải biết khai thác nước theo điều kiện tự
nhiên, phải coi trọng việc dự trữ nước cho mùa khô và phải có sự hợp tác giữa các
vùng, giữa các quốc gia trong sử dụng nguồn nước.
Đến nay nước vẫn là loại tài nguyên không thể thay thế được, loài người
mới có khả năng biến nước mặn thành nước ngọt với mức độ hạn chế và giá thành
cao. Từ đó việc sử dụng tiết kiệm nước là một yêu cầu bức thiết.
Tùy theo mục đích sử dụng nước mà nước có chức năng khác nhau : lúc
thì đóng vai trò là tư liệu tiêu dùng, lúc thì đóng vai trò tư liệu sản xuất, đối tượng
lao động.
c. Kế hoạch hóa xây dựng hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc
trên mỗi vùng lãnh thổ :
* Kế hoạch hóa xây dựng hệ thống giao thông vận tải địa phương.
- Đặc điểm của giao thông vận tải địa phương :

Khả năng phát triển giao thông vận tải địa phương rất đa dạng và rất
khác nhau : Vùng có sông có biển mới phát triển được giao thông vận tải đường sông
đường biển. Có vùng thuận lợi cho phát triển đường sắt đường bộ, trái lại có vùng rất


khó khăn. Từ đó mỗi vùng lãnh thổ phải tận dụng thế mạnh của mình để khai thác,
phát triển giao thông vận tải cho phù hợp. Ở đồng bằng sông Cửu Long dự báo cơ
cấu vận chuyển theo đường thủy, đường bộ như sau :
Năm
1. Hàng hóa (triệu tấn)

2000
45,8

2005
77,2

2010
118,7

- Đường thủy

26,6

46,3

73,6

- Đường bộ


19,2

30,9

45,1

2. Hành khách (triệu lượt khách)

562

825

1.104

- Đường thủy

169

241

321

- Đường bộ

393

584

773


Thành phố cần chú trọng tăng khả năng phục vụ cho giao thông công cộng. Vào năm
2010 ở Việt Nam giao thông công cộng phải đảm nhận 50% nhu cầu đi lại của nhân
dân thành phố.
- Thực trạng về hệ thống giao thông vận tải địa phương :
Hệ thống đường bộ do địa phương quản lý : Tỉnh quản lý khoảng 15.000km
trong đó đường loại vừa và tốt chỉ chiếm 25%. Đường bộ huyện quản lý khoảng
47.000km mà chủ yếu là đường đất.
- Đường bộ: xét trên bình diện cả nước và cụ thể trên các vùng, đã hình
thành hệ thống đường bộ toàn quốc với các trục Bắc- Nam, Đông- Tây nối liền các
vùng kinh tế với các nước láng giềng. Về mật độ giao thông, theo đánh giá của
OECF OECF thì mật độ đường của Việt Nam cao hơn một số nước ASEAN, đạt
2
2
0,64 km/km , trong khi đó Thái Lan đạt 0,2 km/km , Philippin đạt 0,45
2
2
km/km , Malaysia đạt 0,25 km/km .
- Đường biển: đến nay, cả nước có hơn 100 cảng biển với năng lực thông
qua hơn 50 triệu tấn/năm, được phân bố thành 8 nhóm cảng. Đó là: (1) Nhóm cảng
phía Bắc (bao gồm các cảng từ bờ biển Quảng Ninh đến Ninh Bình); (2) Nhóm
cảng Bắc Trung Bộ (bao gồm các cảng từ bờ biển Thanh Hoá đến Hà Tĩnh); (3)


Nhóm cảng Trung Trung Bộ (bao gồm các cảng từ bờ biển Quảng Bình đến Quãng
Ngãi); (4) Nhóm cảng Nam Trung Bộ (bao gồm các cảng từ bờ biển Bình Định đến
Bình Thuận); (5) Nhóm cảng Thành phố Hồ Chí Minh- Vũng Tàu- Thị Vải; (6)
Nhóm cảng Đồng bằng Sông Cửu Long; (7) Nhóm cảng các đảo Tây Nam; và (8)
Nhóm cảng Côn Đảo. Các hệ thống cảng biển này được gắn kết với mạng lưới
giao thông đường sắt, đường bộ tạo mối liên kết bền vững trên lãnh thổ cả nước.
Thị phần vận tải biển đạt 12% hàng xuất khẩu và 16,5% hàng nhập khẩu. Đã hiện

đại hoá khâu bốc dỡ container, tăng cường kho tàng, bến bãi nhằm từng bước hoàn
thiện kết cấu hạ tầng cảng. Đường thuỷ nội địa với công suất các cảng sông hiện
nay là hơn 5 triệu tấn/năm. Năng lực vận tải thuỷ là gần 40 triệu tấn hàng, bằng
gần 30% hàng vận chuyển nội địa.
- Hàng không: hiện nay đang khai thác 16 sân bay, không kể một số sân bay
có các tuyến bay không thường lệ như Cam Ly, Côn Sơn… Có ba cảng hàng
không quốc tế (Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng).
- Đường sắt: mạng đường sắt chủ yếu là đường trục nối thủ đô Hà Nội đến
các vùng trong cả nước. Mạng đường sắt quan trọng là: Lạng Sơn- Hà Nội- Thành
phố Hồ Chí Minh; Hà Nội- Lào Cai; Hà Nội- Quảng Ninh (Bãi Cháy); Hà Nội- Hải
Phòng. Mật độ đường sắt đạt 0,04 km/1.000 dân.
Kinh phí đầu tư cho giao thông vận tải cả nước nói chung, và cho giao
thông vận tải địa phương nói riêng đều bị hạn chế. Nên so với các nước tiên tiến
khác trong khu vực, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông Việt Nam ở dưới mức
trung bình.
Hàng năm kinh phí để trùng tu, bảo dưỡng đường do địa phương quản
lý mới đáp ứng được 30% nhu cầu. Trong khi đó nếu không đảm bảo nhu cầu đầu tư
cho bảo dưỡng đường sẽ có hại cho lâu dài.
Chẳng hạn như để bảo dưỡng hệ thống đường bộ hiện có, ngành giao thông
vận tải Việt Nam cần chi 360 triệu USD /năm, nếu để đến mức đường hư hỏng nặng
thì phải chi 2 tỷ USD mới khôi phục lại được loại đường bộ hư hỏng đó.
+ Các trục giao thông liên vùng đã cơ bản được nâng cấp, xây dựng mới


nhiều trục giao thông quan trọng, nhờ đó làm cho thời gian đi lại giảm nhiều so với
trước đây. Thí dụ, thời gian đi từ Hà Nội đến Hải Phòng giảm khoảng 50%, đến
Thanh Hoá, Nghệ An giảm 30%; từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu giảm
40%; từ Đà Nẵng đi Dung Quất giảm 30%...
- Yêu cầu của kế hoạch phát triển giao thông vận tải địa phương :
Kế hoạch cải tạo, xây dựng hệ thống giao thông vận tải địa phương phải

phù hợp với cơ cấu kinh tế và đặc điểm của từng địa phương. Chẳng hạn như các
tỉnh duyên hải miền Trung đòi hỏi phải phát triển hệ thống giao thông vận tải khá
toàn diện : phải có hệ thống giao thông vận tải để khai thác vùng ven biển, phải phát
triển giao thông vận tải đô thị, phải có hệ thống giao thông vận tải để khai thác vùng
núi phía Tây
Bảo đảm phát triển cân đối các loại phương tiện vận tải trên mỗi vùng
lãnh thổ ( cân đối giữa các loại phương tiện giao thông vận tải, giữa vận tải cơ giới
và vận tải thô sơ ), tổ chức tốt các đầu mối giao thông, tổ chức các liên hiệp vận tải
giữa các phương tiện vận tải nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng
Trong phát triển giao thông vận tải địa phương thì việc xây dựng, phát triển
giao thông vận tải nông thôn có vị trí hết sức quan trọng vì vùng nông thôn Việt Nam
chiếm 76,5% dân số và 68% lao động xã hội (1999)
- Nội dung của kế hoạch xây dựng giao thông vận tải trên mỗi vùng lãnh
thổ :
Kế hoạch phát triển giao thông địa phương :
Mỗi địa phương phải lập kế hoạch phát triển giao thông của địa phương
cho thời kỳ từ 10 đến 20 năm. Chẳng hạn như thành phố Hồ Chí Minh đã có quy
hoạch phát triển giao thông thành phố : phát triển mạnh giao thông công cộng để đến
năm 2010 có thể bảo đảm 50% nhu cầu đi lại của nhân dân trong thành phố, sẽ xây
dựng 1 tuyến tàu điện ngầm, xây dựng hệ thống xe điện nổi bánh lốp. Đến năm 2010
giao thông thành phố Hồ Chí Minh có thể đáp ứng yêu cầu đi lại cho 2,1 tỷ lượt
người đi lại ở khu vực đô thị mới của thành phố.


Có dự án xây dựng đường, cầu, cống thoát nước : nhu cầu này sẽ rất lớn vì
Việt Nam sẽ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa trong thời gian đến. Xây dựng
kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa nâng cấp đường. Nhiệm vụ này rất nặng đối với địa
phương nhất là khu vực miền Trung, vì đây là nơi thường xảy ra lũ lụt.
Kế hoạch phát triển vận tải địa phương
Xác định nhu cầu vận chuyển hàng hóa : có thể xác định theo tốc độ

tăng của các ngành sản xuất và tỷ suất hàng hóa của mỗi ngành, có thể xác định theo
tốc độ tăng của ngành vận tải địa phương hoặc xác định theo nhu cầu vận chuyển của
địa phương và trung ương
Xác định nhu cầu đi lại của dân cư : có thể dựa vào số liệu năm báo cáo,
dựa vào quy mô dân số, dựa vào nhu cầu của khách vãng lai, hoặc có thể dựa vào tốc
độ tăng của ngành vận tải hành khách
Cân đối giữa năng lực vật chất và nhu cầu vật chất : nếu thừa năng lực thì phải
tiếp thị, phải hợp đồng vận chuyển cho địa phương khác, cho trung ương. Nếu thiếu
năng lực vận chuyển thì có kế hoạch yêu cầu các địa phương khác hổ trợ
Kế hoạch xây dựng mạng lưới giao thông nông thôn : Giao thông
nông thôn thường phát huy tác dụng trên địa bàn huyện, xã và thôn xóm
Hệ thống giao thông nông thôn gồm : Hệ thống đường làng, thôn xóm.
Hệ thống đường xã, liên xã. Hệ thống đường chuyên dùng (đường phục vụ cho sản
xuất ở nông thôn). Cả ba hệ thống đó kết hợp với hệ thống đường phục vụ cơ giới
hóa nông nghiệp tạo thành mạng lưới giao thông nông thôn.
Các nguyên tắc cần quán triệt khi xây dựng hệ thống giao thông nông thôn :
- Phải xuất phát từ yêu cầu của sản xuất mà xây dựng giao thông nông thôn,
đồng thời phải kết hợp với quá trình xây dựng hệ thống thủy lợi, cơ giới hóa nông
nghiệp nhằm tiết kiệm đất.
- Bảo đảm tính liên tục và linh hoạt của hệ thống giao thông nông thôn.
Để phát triển nhanh giao thông nông thôn, cần bảo đảm nguyên tắc nhà
nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa nguồn vốn trong xây dựng giao thông nông
thôn.


* Kế hoạch hóa xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc trên mỗi vùng lãnh
thổ
Ý nghĩa :
Bưu chính, viễn thông là bộ phận quan trọng trong mối liên kết với tin học,
truyền thông tạo thành kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia, góp phần rất quan trọng

phát triển kinh tế- xã hội từng vùng và cả nước, vì vậy, phát triển mạnh mạng bưu
chính viễn thông là góp phần lớn vào thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nhanh ở các vùng và cả nước. Phát triển đi đôi với quản lý và khai thác có hiệu
quả, nhằm tạo điều kiện ứng dụng và thúc đẩy phát triển công nghệ thông tin trong
mọi lĩnh vực của toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế- xã hội trong từng vùng
và nâng cao dân trí.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin có vai trò vô cùng quan trọng.
Muốn có thông tin thì phải thu thập xử lý, bảo quản và truyền thông tin.
Trong đó hệ thông thông tin liên lạc đóng vai trò quan trọng về chuyển tải thông tin.
Từ đó thông tin liên lạc góp phần trực tiếp và gián tiếp phát triển sản xuất.
Hệ thống thông tin liên lạc góp phần giảm chi phí giao dịch, đi lại, chi
phí quản lý kinh tế, quản lý nhà nước
Hệ thống thông tin liên lạc hiện đại tạo điều kiện cho các vùng lãnh thổ tiếp
cận với bên ngoài, thúc đẩy chính sách mở cửa
Hệ thống thông tin liên lạc là điều kiện quan trọng trong hoạt động của
an ninh, quốc phòng. Trong những năm gần đây hệ thống thông tin liên lạc Việt Nam
phát triển nhanh. Song so với yêu cầu phục vụ sản xuất và đời sống vẫn còn hạn chế.
Cụ thể là tốc độ truyền thông tin còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, giá cước thông tin liên lạc còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Mức
độ phối hợp giữa các loại thông tin liên lạc như vô tuyến, phát thanh, truyền hình,
giữa hiện đại và thô sơ chưa tốt.
Nội dung kế hoạch xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc trên mỗi vùng
lãnh thổ


Mỗi vùng lãnh thổ cần xác định lại thực trạng về mạng lưới thông tin
liên lạc về số lượng, chất lượng, mức độ đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới thông tin liên lạc thời kỳ
2001-2010 phải nhằm đảm bảo tính đồng bộ giữa các loại phương tiện thông tin liên
lạc và chú ý đến những yêu cầu cơ bản về thông tin liên lạc. Chẳng hạn như phải
đảm bảo 100% số xã phải liên lạc được với huyện, với các xã bạn

Kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư xây dựng mới, vừa coi trọng cải tạo nâng
cấp hệ thống thông tin liên lạc hiện có nhất là ở các thành phố lớn, các sân bay quốc
tế, các bến cảng lớn phải đạt trình độ quốc tế
Coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý về kỹ thuật, về kinh tế cho các
ngành thông tin liên lạc trên mỗi vùng lãnh thổ. Đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng
và đảm bảo tính đồng bộ của đội ngũ. Trên cơ sở có đội ngũ cán bộ lành nghề đó mà
xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả cao.
Ví dụ về kết cấu hạ tầng của kết cấu hạ tầng vùng Tây Nguyên
Đến nay vùng Tây Nguyên đã có khoảng trên 2.000 km đường quốc lộ,
trên 3.000 km đường tỉnh lộ, trên 4.000 km đường huyện lộ và trên 5.000 km
đường giao thông nông thôn. Bưu chính viễn thông phát triển khá. Hệ thống
thuỷ lợi được xây dựng khá nhanh, với hơn 900 công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, bảo
đảm tưới cho khoảng 40 nghìn ha lúa đông xuân, 70 nghìn ha lúa mùa và 150
nghìn ha cà phê. Mạng lưới điện đã được chú ý đầu tư phát triển. Từ năm 1996
đến nay, đã hoàn thành nhiều đường dây và trạm trực tiếp phục vụ cho Tây
Nguyên, chủ yếu là các đường dây và trạm 110 KV tuyến Krông Búk- Buôn Ma
Thuột (40 km); đoạn Pleiku- Chư Sê- AjunPa (102 km), đường 220 KV PleikuKrông Búk- Nha Trang (300 km), đường 500 KV Yaly- Pleiku (27km), đường
Pleiku- Phú Lâm (538 km) và phát triển lưới điện hạ thế về các huyện, xã. Hệ
thống kết cấu hạ tầng các đô thị được nâng cấp: hệ thống đường nội thị, thoát
nước, công viên, cây xanh, vỉa hè, cấp điện… được cải thiện rõ rệt.
Những yếu kém của kết cấu hạ tầng ở 1 số vùng trên cả nước:


Sự yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng ở từng vùng thể hiện qua một số mặt
sau đây:
- Đối với vùng trung du, miền núi phía Bắc, hệ thống đường giao thông còn
quá thiếu và xấu. Hiện nay, vẫn còn nhiều xã chưa có đường giao thông tới trung tâm
xã. Chất lượng mạng lưới điện thấp, tỷ lệ thất thoát lớn. Các công trình thuỷ lợi đang
xuống cấp, không được duy tu, bảo dưỡng. Nước sinh hoạt vẫn là vấn đề gay gắt ở
nhiều vùng cao, đặc biệt là ở các khu vực núi đá vôi như vùng Lục Khu (Cao Bằng),

Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang).
- Đối với vùng Tây Nguyên, hệ thống giao thông còn kém phát triển, đặc biệt
là hệ thống các trục cắt ngang các quốc lộ nối với hệ thống cảng ở miền Trung và
giao lưu với Lào và Campuchia. Hệ thống thuỷ lợi chưa thể cung cấp đủ nước cho
sản xuất nông, lâm nghiệp, nhất là vào mùa khô.
- Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, tồn tại cơ bản là hệ thống đường bộ
kém phát triển, mùa mưa lũ thường bị tắc nghẽn, ngập lụt, đi lại rất khó khăn. Khả
năng cung cấp nước sạch còn rất thấp so với nhu cầu của nhân dân.
- Đối với các vùng kinh tế đã tương đối phát triển so với cả nước (đồng bằng
sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, duyên hải miền Trung và vùng kinh
tế trọng điểm miền Trung, và Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam),
hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị chắp vá, không đáp ứng nhu cầu đô thị hoá. Còn thiếu
nhiều đường cao tốc quan trọng nối các trung tâm, các đô thị lớn, các khu công
nghiệp ra cảng. Giao thông nông thôn vẫn còn thiếu và chất lượng chưa tốt.
III. Kế hoạch hóa quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội :
1. Vai trò kết cấu hạ tầng xã hội :
- Phục vụ trực tiếp cho quá trình tái sản xuất dân số. Từ đó nâng cao chất
lượng dân số và nâng cao chất lượng lao động xã hội.
- Kết cấu hạ tầng xã hội là một điều kiện đủ để ổn định, nâng cao mức sống,
nâng cao tính chất văn minh trong tổ chức đời sống xã hội
- Từ đó kết cấu hạ tầng xã hội tác động gián tiếp đến quá trình sản xuất


Kết cấu hạ tầng xã hội: xếp vào loại này gồm nhà ở, các cơ sở khoa học,
trường học, các công trình văn hóa, thể thao... và các trang thiết bị đồng bộ với
chúng. Đây là điều kiện thiết yếu để phục vu, nâng cao mức sống của cộng đồng dân
cư. Bồi dưỡng, phát triển tạo ra nguồn nhân lực mới phát triển hài hòa cả về thể lực
cũng như trí lực, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển kết cấu hạ tầng xã hội tác động rất tích cực đến giảm nghèo, trực
tiếp tác động đến các vùng nghèo, hộ nghèo thông qua việc cải thiện hạ tầng mà nâng

cao đời sống của họ, thực sự có ích với người nghèo và góp phần giữ gìn môi trường.
Phát triển kết cấu hạ tầng tạo điều kiện nâng cao trình độ kiến thức và cải thiện tình
hình sức khỏe cho người dân, góp phần cải thiện bất bình đẳng cho người nghèo
cũng như thu nhập bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội.
Kết cấu hạ tầng nâng xã hội cải thiện góp phần nâng cao chất lượng sản xuất,
tạo ra môi trường xã hội công bằng, ven minh, từ đó thúc đẩy thu hút đầu tư sản xuất
phát triển.
2. Nghiên cứu một số loại kết cấu hạ tầng xã hội :
a. Mạng lưới thương nghiệp bán lẻ trên mỗi vùng lãnh thổ :
Hoạt động thương nghiệp có hai hình thức bán buôn và bán lẻ.
Hoạt động thương nghiệp bán lẻ là khâu cuối cùng của tái sản xuất mở
rộng, trực tiếp đưa sản phẩm hàng hóa đến người tiêu dùng.
Trong điều kiện hiện nay, thương nghiệp bán lẻ ngày càng được phân cấp về
cho huyện, thị xã, mang tính chất địa phương, trực tiếp phục vụ yêu cầu tiêu dùng
của nhân dân địa phương.
Nhiệm vụ chủ yếu của thương nghiệp bán lẻ trên mỗi vùng lãnh thổ :
- Tiếp cận với người sản xuất, nhất là ở nông thôn để khai thác nguồn hàng
phân tán, đa dạng ở địa phương. Sd nguồn hàng đó để phục vụ trở lại cho tiêu dùng
tại địa phương. Qua hoạt động đó góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển .
Ví dụ: mỗi vùng miền có 1 thế mạnh riêng nên dựa vào đó để phát triển các
sản phẩm của mình.
+ Người nông dân trồng bông vải


+ Doanh nghiệp thu mua bông vải
+ Người công nhân dệt ra vải
+ Người công nhân may ra quần áo
- Nghiên cứu để xác định nhu cầu về số lượng, về cơ cấu mặt hàng phù hợp
với thị hiếu, với nghề nghiệp, với tính chất dân tộc của dân cư trên mỗi vùng lãnh
thổ.

- Xây dựng và mở rộng mạng lưới thương nghiệp bán lẻ, nâng cao chất lượng
phục vụ.
Hệ thống bán lẻ của các siêu thị đã bao phủ khắp cả nước. Đặc biệt là hệ thống
bán lẻ của siêu thị coopmart metro bigc…
- Hệ thống thương nghiệp bán lẻ ở Việt Nam hiện nay có : thương nghiệp quốc
doanh, thương nghiệp hợp tác xã, thương nghiệp tư nhân, hệ thống chợ ở thành thị và
nông thôn.

Thị trường bán lẻ liên tục phát triển với tốc độ cao từ 20% đến 25% qui
mô, tổng mức bán lẻ hàng hoá dịch vụ đạt từ 750.000-800.000 tỷ đồng
những năm 2006-2008, lên trên 1 triệu ngàn tỷ đồng năm 2010. Năm 2011
mặc dù kinh tế khó khăn, giá cả tiêu dùng cao, sức mua giảm nhưng vẫn
có thể đạt 1,3 triệu ngàn tỷ đồng. Theo số liệu thống kê, lĩnh vực bán lẻ
hàng hoá-dịch vụ đã đóng góp khoảng 15% GDP, doanh số bán lẻ bằng
60-70% GDP, góp phần tăng trưởng kinh tế trong những năm qua.
Thương nghiệp quốc doanh chỉ còn chiếm 25-30% thị trường bán lẻ, và có xu
hướng tiếp tục giảm. Ở mỗi địa phương thương nghiệp quốc doanh bán lẻ chủ yếu
kinh doanh những mặt hàng thiết yếu, nhất là bảo đảm nguồn hàng cho các hợp tác
xã mua bán, dự trữ những mặt hàng thiết yếu để góp phần ổn định giá cả thị trường.
ở đây thương nghiệp quốc doanh là kinh tế do nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
nên nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài nguyên, đặc quyền kinh doanh,...) đã
được phân bổ quá ưu đãi cho khu vực này, khiến ràng buộc ngân sách của chúng


mềm, không buộc chúng phải cạnh tranh khốc liệt, thiếu những khuyến khích đúng
nên hiệu quả hoạt động kém.
Hợp tác xã mua bán : Nhà nước đang có chủ trương khôi phục, phát
triển loại hình kinh doanh này, nhất là ở nông thôn. Vì ở nông thôn, hộ nông dân là
đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó sẽ diễn ra quá trình phân công lại lao động giữa các hộ :
một số hộ làm nông nghiệp giỏi tiếp tục phát triển sản xuất nông nghiệp, một bộ

phận nông dân chuyển sang làm dịch vụ, ngành nghề. Hợp tác xã ở nông thôn nhận
ủy thác mua và bán hàng hóa, góp phần cải thiện đời sống và thúc đẩy sản xuất phát
triển .
Khuyến khích phát triển các HTX đa chức năng hoặc hợp tác xã dịch vụ tổng
hợp, chú trọng mô hình HTX nông nghiệp - thương mại - dịch vụ
Ở khu vực thị trấn, vùng ven đô, gần các khu công nghiệp, các trục đường lớn,
khu vực cảng sông có thể thành lập các HTX kinh doanh tổng hợp với quy mô vừa
và nhỏ, chủ yếu là làm đại lý cho các DN thuộc các thành phần kinh tế, bán lẻ vật tư
phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, xăng dầu, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn
nuôi,…
Các hợp tác xã thương mại có thể trở thành một trong những đầu mối cung
ứng hàng nông sản - thực phẩm tươi sống đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm cho hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng bán lẻ, trung tâm phân phối...
Khu vực nông thôn trung du, miền núi, phát triển các hợp tác xã kinh doanh tổng hợp
với các hình thức bán lẻ linh hoạt ở trung tâm các cụm xã, trong các chợ ở khu vực
biên giới, khu kinh tế cửa khẩu, khu du lịch,… nhằm cung ứng vật tư nông nghiệp,
công cụ sản xuất thông thường, hàng tiêu dùng thiết yếu, kết hợp với thu mua hàng
nông, lâm sản của kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại.
Hệ thống chợ ở thành thị và nông thôn : Việt Nam có khoảng 3.500
chợ lớn nhỏ, hoạt động có địa điểm cố định, có giờ hoặc theo phiên chợ, có quầy
hàng và có loại tồn tại theo mùa vụ, dã chiến.
Hệ thống chợ ở nước ta có vai trò hết sức quan trọng. Chợ là một kênh quan
trọng để giao lưu hàng hóa, đặc biệt là sản phẩm tiêu dùng. Chợ còn là một sinh hoạt


có tính chất truyền thống, tính chất văn hóa của nhân dân. Chợ còn là nơi giao lưu
tình cảm giữa các tầng lớp dân cư. Các chợ ở miền núi không chỉ là nơi diễn ra các
hoạt động mua bán, mà còn phản ánh nét văn hoá mang đậm bản sắc người bản địa.
Nnhờ việc xây dựng chợ được đầu tư đồng bộ với xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là
các tuyến giao thông đã tạo điều kiện thuận lợi trong vận chuyển, giao thương, do

thu nhập của người dân nông thôn còn thấp nên nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm chất
lượng cao còn hạn chế, chưa thể thay thế bởi các cửa hàng bán hàng theo phương
thức hiện đại.
Ở Việt Nam hệ thống chợ ở đô thị mang tính chất thương mại cao.
Hệ thống chợ ở nông thôn có những đặc trưng sau :
- Người mua và người bán trao đổi trực tiếp với nhau
- Khối lượng ít, cơ cấu hàng hóa không ổn định
- Chịu ảnh hưởng của quan hệ cung cầu
Theo quy hoạch phát triển chợ ở nước ta thì : Cứ 10.000 đến 20.000 dân
có 1 chợ. Mỗi xã cần xây dựng 1 chợ. Cứ 4 đến 6 xã xây dựng một chợ thị tứ. Mỗi
huyện xây dựng một chợ kiên cố và lớn.
Từ 1996-2010 phải cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới 5.000 chợ nông
thôn ( bình quân chi cho xây dựng mới và cải tạo 1 chợ khoảng 0,2 triệu USD )
Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, chợ nông thôn đóng vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế đất nước. Cả nước hiện có khoảng trên 9.000 chợ, trong đó
chợ ở nông thôn chiếm 76%; có khoảng 2 triệu hộ kinh doanh thường xuyên tại chợ
chiếm 40% số người hoạt động thương mại dịch vụ trong cả nước, trong đó người
buôn bán cố định tại chợ chiếm khoảng 51%; doanh số bán lẻ của chợ ước đạt
khoảng 40% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội; số người thường
xuyên trao đổi tại chợ chiếm 80% người tiêu dùng. Tuy nhiên chỉ có 11% chợ kiên
cố (chủ yếu tập trung ở đô thị, thị trấn), 31% chợ bán kiên cố, hơn 33% chợ lều lán,
gần 255 chợ họp ngoài trời.
Thương nghiệp tư nhân : có xu hướng phát triển rất nhanh trong những năm
gần đây. Thương nghiệp tư nhân có mặt tốt là phục vụ kịp thời mọi nhu cầu tiêu


dùng của dân cư. Song phải tăng cường quản lý vĩ mô để ngăn chặn tính chất tự phát,
gây rối loạn thị trường, chống buôn lậu, làm hàng giả, buôn bán hàng quốc cấm. Nhu
cầu của nông dân để tiêu thụ hàng hóa rất lớn nhưng do khả năng tài chính, khả năng
thanh toán không đồng đều, nhất là miền núi, vùng sâu vùng xa còn khó khăn nên

các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng gắn với sản xuất chưa thực sự đến được với
người dân.
Trong xây dựng hệ thống thương nghiệp bán lẻ trên các vùng lãnh thổ
có mấy vấn đề sau đây được đặt ra :
- Bảo đảm việc mua và bán hàng hóa thực sự thuận lợi cho dân cư. Muốn vậy
phải nghiên cứu quy mô, cơ cấu hàng tiêu dùng, địa điểm, giờ mua và bán hàng phù
hợp với tính chất, yêu cầu sinh hoạt của dân.
- Nghiên cứu đầy đủ các yếu tố tác động đến thương nghiệp bán lẻ:
Mức độ phát triển sản xuất và phân bố lực lượng sản xuất trên lãnh thổ
Tốc độ tăng dân số tự nhiên và cơ học, cơ cấu dân cư
Tình hình thu nhập và mức sống
- Tính toán và lựa chọn các hình thức thương nghiệp bán lẻ, hình thức kinh
doanh, phục vụ thích hợp : sản phẩm, lĩnh vực nào nhà nước lo, lĩnh vực sản phẩm
nào hợp tác xã đảm nhận, sản phẩm nào tư thương kinh doanh ..
- Nghiên cứu để xác định nhu cầu về trang bị kỹ thuật và hệ thống kho tàng
như thiết bị đo lường, thiết bị bảo quản, bao bì đóng gói, hệ thống kho tàng
- Vấn đề huy động vốn để phát triển thương nghiệp bán lẻ trên mỗi vùng lãnh
thổ được giải quyết theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm.
b. Kế hoạch phát triển mạng lưới ăn uống công cộng, dịch vụ đời sông trên
mỗi vùng lãnh thổ
Mục đích : - Phục vụ cho khách vãng lai
- Phục vụ trực tiếp cho người lao động về ăn uống và dịch vụ
- Đặc biệt là giảm thời gian nội trợ gia đình cho phụ nữ
- Nâng cao chất lượng cuộc sống qua dịch vụ đời sống


×