Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Dạy học đoạn trích “Ông già và biển cả” theo hướng tiếp cận cổ mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.08 KB, 100 trang )

1

MỤC LỤC
– Phương pháp điều tra bằng bài kiểm tra.....................................................77
– Phương pháp nghiên cứu sản phẩm............................................................77
PHỤ LỤC...............................................................................................................88
................................................................................................................................96

MỞ ĐẦU

1.

Lí do chọn đề tài

Trong những thập kỷ gần đây, tác phẩm văn học Mỹ được dịch ở Việt
Nam với một khối lượng đáng kể so với văn học các nước khác, vì vậy nó
đã tạo được sức hút lớn đối với một bộ phận bạn đọc có tình u đối với
nền văn học này. Và hiểu biết văn học của một xứ sở chính là một cách để
tiếp cận con người xứ sở ấy trên cả bề rộng lẫn chiều sâu. Một trong số
những tác giả nước ngoài được bạn đọc biết đến nhiều nhất là E.
Hemingway.
Tiếp cận E. Hemingway từ cuộc đời và sự nghiệp đã mở ra cho chúng
tôi một chân trời mới. Nhan đề các tác phẩm hay bản thân tác phẩm của
ông không chỉ tồntại như một văn bản nghệ thuật mà cịn như một mơ thức
văn hóa – vật chất của con người. Từ những trang viết của ông, người ta
càng hiểu hơn tài năng của một bậc thầy. Ông đã trở thành biểu tượng văn


2
hóa của nhân loại.
Mỗi tác phẩm văn học đều là đứa con tinh thần của nhà văn, nó mang


trong mình những giá trị văn hoá riêng. Nó hiện thân cho tư tưởng, tình
cảm và kết tinh tài năng nhân cách của nhà văn. Ông già và biển cả là một
tiểu thuyết rất ngắn nhưng nó được xem là kiệt tác của E. Hemingway. Tác
phẩm đã góp phần quan trọng để nhà văn được nhận Giải Nobel văn
học năm 1954.
Bên cạnh đó, mơn Ngữ văn là một trong những mơn học có vai trị
quan trọng ở nhà trường phổ thơng, ngồi chức năng cơng cụ, mơn Ngữ
văn cịn góp phần rất lớn hình thành và phát triển các năng lực chung cũng
như góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và các phẩm chất cao đẹp của
người học. Môn Ngữ văn bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn
học, văn hoá, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc;
ý thức tự lập, tự cường, lí tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân
văn; giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và
hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc
và nhân loại.
Như vậy, việc dạy và học môn Ngữ văn không chỉ đơn thuần cung
cấp, trang bị cho học sinh kiến thức về văn học mà bên cạnh đó cần bổ
sung cho các em các kiến thức liên ngành khác trong đó có kiến thức về
văn hoá để phù hợp với nhu cầu của thực tiễn. Các tri thức về văn hoá mà
học sinh thu lượm được trong văn học sẽ góp phần giúp cho các em bồi
dưỡng, giữ gìn, phát huy sáng tạo bản sắc văn hoá của dân tộc và nhân loại.
Lựa chọn đề tài Dạy học đoạn trích “Ơng già và biển cả” theo
hướng tiếp cận cổ mẫu, chúng tôi muốn mở rộng và khai thác sâu hơn sự
hiểu biết về tác giả E. Hemingway và đoạn trích Ơng già và biển cả, đem
đến cho học sinh Trung học Phổ thông (THPT) một cái nhìn mới xuất phát
từ lợi ích thực tiễn của nhà trường Việt Nam.


3
2. Lịch sử vấn đề

Tiểu thuyết Ông già và biển cả viết ở Cu Ba năm 1951 và xuất bản
năm 1952. Nó là tiểu thuyết cuối cùng được xuất bản khi ơng cịn sống.
Đây cũng là tác phẩm nổi tiếng và là một trong những đỉnh cao trong sự
nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư
cấu năm 1953, qua khảo cứu, chúng tôi thu thập được các cơng trình
nghiên cứu sau:
– Lê Huy Bắc, E. Hemingway – Núi băng và hiệp sĩ, NXB Giáo dục,
HN,1999.
– Lê Huy Bắc (Tuyển chọn), E. Hemingway – Những phương trời
nghệ thuật, NXB Giáo dục, HN, 2001.
– Lê Huy Bắc, Văn học Âu – Mỹ thế kỷ XX, NXB Đại học sư phạm,
HN, 2011.
– Lê Đình Cúc, Tiểu thuyết của Hemingway, NXB Khoa học Xã hội,
HN, 1999.
– Đặng Anh Đào, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, NXB Giáo dục, HN, 1999.
– Đặng Anh Đào, Ông già và biển cả – cốt truyện và điểm nhìn, hiện
thực và biểu tượng, Văn học Phương tây, NXB Giáo dục, HN, 1997.
– Phùng Văn Tửu, Độc thoại nội tâm trong Ông già và biển cả, NXB
Văn học, HN, 2002.
– Nguyễn Liên, Tiếp cận đương đại văn hóa Mỹ, NXB Văn hóa thơng
tin, HN, 2001.
– G. Plim–pton, Phỏng vấn Hê–ming–, trong Hê–minh– và các
phê bình của ơng, Lê Huy Bắc dịch.
– Kei–i–chi Ha–ra–đa, Ông lão và đại dương, trong Hê–minh–uê và
các phê bình của ơng, Lê Huy Bắc dịch.
– Ăng–đrê Mơ–roa, Ơ–nít Hê–minh–, trong Hê–minh– và các


4

phê bình của ơng, Lê Huy Bắc dịch.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết Ơng già và biển
cả khá phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, tiếp cận tác phẩm (cụ thể đoạn trích
trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2 – Ban cơ bản) theo hướng cổ mẫu
chưa được quan tâm đúng mực. Chúng tôi thấy rằng việc phân tích và tìm
ra phương pháp thích hợp để tiếp cận đoạn trích này là cần thiết và có ý
nghĩa thực tiễn đối với giáo viên THPT.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là đề ra phương hướng tiếp cận cổ mẫu
khi đọc hiểu đoạn trích “Ơng già và biển cả” để nâng cao chất lượng và
hiệu quả của việc giảng dạy, làm cho việc dạy và học Ngữ văn gắn liền với
thực tiễn cuộc sống hơn, học sinh có hứng thú, say mê học tập mơn Ngữ
văn, từ đó góp phần phát triển cho học sinh một số năng lực phổ thông
(như biết sử dụng các ngữ liệu văn học để giải thích các hiện tượng điển
hình hay quen thuộc của cuộc sống…)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận của đề tài
4.2. Các cơng trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của E.
Hemingway.
4.2. Tiểu thuyết “Ơng già và biển cả”
4.3. Tìm hiểu thực trạng giảng dạy và học tập đoạn trích “Ơng già và
biển cả” trong nhà trường phổ thơng.
4.4. Tìm ra biểu hiện của tri thức cổ mẫu trong tác phẩm, cụ thể ở
đoạn trích “Ơng già và biển cả”.
4.5. Tìm ra phương hướng, biện pháp cụ thể để vận dụng tri thức cổ
mẫu vào hướng dẫn học sinh đọc hiểu đoạn trích “Ông già và biển cả”.
4.6. Thiết kế giáo án thực nghiệm cho đoạn trích “Ơng già và biển cả”,
trong đó vận dụng những phương pháp, biện pháp cách thức của tri thức cổ



5
mẫu.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu được giới hạn trong tiểu thuyết “Ông già và biển
cả” của E. Hemingway, đặc biệt là đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ
văn 12 – tập 2 – Ban cơ bản).
6. Mẫu khảo sát
– Khối lớp 12 trường THPT Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
– Khối lớp 12 trường THPT Thăng Long, thành phố Hà Nội.
7. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
7.1. Khách thể nghiên cứu
Lí thuyết phê bình cổ mẫu và quá trình dạy học Ngữ văn ở trường
THPT Việt Nam.
7.2. Đối tượng nghiên cứu
– Các cơng trình nghiên cứu về lí thuyết phê bình cổ mẫu; cuộc đời và
sự nghiệp của E. Hemingway.
– Tiểu thuyết “Ông già và biển cả”, đoạn trích trong sách giáo khoa
Ngữ văn 12 – tập 2 – Ban cơ bản.
– Thực trạng dạy và học đoạn trích “Ơng già và biển cả” trong nhà
trường phổ thông.
8. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và sử dụng phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận
cổ mẫu trong dạy học tiểu thuyết “Ông già và biển cả” (đoạn trích trong
sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2 – Ban cơ bản) thì sẽ giúp học sinh dễ
dàng liên kết các kiến thức văn học và văn hóa.
Đồng thời, việc dạy học Ngữ văn được gắn với thực tiễn cuộc sống
hơn, học sinh có hứng thú, say mê học tập mơn Ngữ văn, từ đó góp phần
phát triển một số năng lực cho học sinh THPT, cũng như góp phần nâng
cao hiệu quả dạy học mơn Ngữ văn.



6
9. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
– Phương pháp tiếp cận văn hoá, cổ mẫu.
– Phương pháp điều tra, khảo sát, thực nghiệm.
– Phương pháp so sánh loại hình.
– Các thao tác phân tích, tổng hợp, xử lí thơng tin.
10. Dự kiến đóng góp mới của đề tài
– Tổng quan một cách có hệ thống cơ sở lý luận về phê bình cổ mẫu
và cách tiếp cận cổ mẫu trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả”.
– Thiết kế giáo án dạy học tiểu thuyết “Ông già và biển cả” qua đoạn
trích trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2 – Ban cơ bản) theo hướng
tiếp cận cổ mẫu.
– Đề xuất cách sử dụng dạy học đoạn trích “Ông già và biển cả” trong
(sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2 – Ban cơ bản) theo hướng tiếp cận cổ
mẫu trong dạy học Ngữ văn lớp 12 làm cho việc dạy học Ngữ văn gắn với
thực tiễn cuộc sống hơn, HS có hứng thú, say mê học tập, từ đó góp phần
phát triển một số năng lực cho học sinh THPT đồng thời góp phần nâng
cao hiệu quả dạy học mơn Ngữ văn.
11. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và tri thức về cổ mẫu.
Chương 2: Biểu hiện của tính cổ mẫu trong tác phẩm (đoạn trích “Ông
già và biển cả” trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2 – Ban cơ bản).
Chương 3: Thiết kế bài giảng theo hướng cổ mẫu.


7


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TRI THỨC CỔ MẪU
1.1. Vài nét về cổ mẫu
1.1.1. Khái niệm cổ mẫu
Cổ mẫu trước hết là biểu tượng nhưng cao hơn biểu tượng ở sức khái
quát của nó, bởi cổ mẫu là những mẫu của các biểu tượng, là nguyên mẫu
của các tập hợp biểu tượng hay một cách khái quát là những biểu trưng phổ
quát. “Từ điển văn học” nói: cổ mẫu là “khái niệm dùng để chỉ những mẫu
của các biểu tượng, các cấu trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của
con người, chứa đựng trong vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại; vô
thức tập thể này là một yếu tố đặc trưng cho tất cả các vô thức cá nhân”
[29,173]. Theo “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”: “Các mẫu gốc hiển
hiện ra như những cấu trúc tâm thần gần như phổ biến, bẩm sinh hay được
thừa kế, một thứ ý thức tập thể; chúng thể hiện qua các biểu tượng đặc biệt
chứa đầy một cơng suất năng lượng lớn. Chúng đóng một vai trị động lực
và thống nhất đáng kể trong sự phát triển nhân cách” [42,972].


8
Khái niệm cổ mẫu có nguồn gốc từ học thuyết của nhà tâm lý học Carl
Gustav Jung (1875 – 1961), người Thụy Sỹ. Ông nghiên cứu và đề xuất từ
những thập niên đầu của thế kỷ XX. Từ chỗ tâm đắc và phát triển học
thuyết về vô thức của thầy mình là Sigmund Freud (1856 – 1939, người
Áo), Jung đã đóng góp cho nhân loại cái nhìn mới về hệ tâm thức con
người. Trong đó vơ thức tập thể – ngôi nhà xuyên thời đại của cổ mẫu – là
khái niệm cốt lõi. Jung nói: “Nguyên sơ tượng (archétype), hay siêu mẫu,
hay ngun hình – dù đó là quỷ, người hay biến cố – được lặp lại trong suốt
chiều dài lịch sử ở bất kì đâu có trí tưởng tượng sáng tạo tự do hoạt động.
Lần lượt chúng ta có ở đây trước hết là nguyên hình huyền thoại. Nghiên
cứu tỉ mỉ các hình tượng này ta nhận thấy trong chừng mực nào đấy chúng

là bản tổng kết đã được cơng thức hóa của khối kinh nghiệm điển hình to
lớn của vơ số các thế hệ tổ tiên: đó có thể nói là vết tích tâm lý của vơ số
cảm xúc cùng một kiểu” [43,127]. Vẫn coi trọng ý thức nhưng Jung đã
khiến thế giới phải ngạc nhiên khi nhận ra tồn bộ đời sống con người ln
chịu sự tác động mạnh mẽ và nhiều lúc thật kì diệu từ vô thức tập thể thông
qua cổ mẫu, đồng thời bản chất của vơ thức tập thể là di trùn (có biến
dịch).
Chúng ta có thể hiểu về khái niệm nay qua một số cổ mẫu quen thuộc:
– Trời, Đất: đây là cỗ mẫu bắt nguồn từ sự nhìn nhận về vũ trụ quan
mang tính sơ khai của con người thời xưa xuất hiện nhiều trong văn hóa
của phương Đơng nói chung và người Việt nói riêng. Đây là hai vật thể to
lớn nhất, bao hàm cả vũ trụ. Đất: cứng cáp, đục thô, ổn định, rộng rãi, ngập
tràn cây cối, nuôi sống mn lồi, đất như người Mẹ có sức sản sinh và tái
sinh, bền bỉ trong một nhịp điệu âm thầm và bao dung. Trời: rộng lớn, bao
la, ẩn chứa nhiều điều kì thú, có tác dụng chở che cho mn lồi như người
Cha trong gia đình. Do đó, Trời và Đất tương ứng chỉ tới Cha và Mẹ,
Dương và Âm


9
.– Nước: Với đặc trưng mềm mại, trong trẻo, tinh khiết, luôn chuyển
động, biến hoá, và xuyên thấm nhưng lại có sức mạnh lớn lao, là nguồn
sống của vũ trụ nên nước tượng trưng cho sự vẻ đẹp vừa thánh thiện,
nguyên sơ lại mạnh mẽ của con người. Vì thế, nước là cổ mẫu quen thuộc
trong văn hóa nhiều nước, cả phương Đông và phương Tây. Người Châu Á
xem nước là biểu tượng của sự sống, sự sinh sôi nảy nở. Và vì nước mang
trong nó sự hiền minh, khơng chứa đựng sự tranh chấp, nước tự do và
không hề bị ràng buộc, tự để mình chảy trơi theo chiều dốc của mặt đất nên
nó được xem là “cơng cụ thanh tẩy” trong nghi lễ của nhiều tôn giáo khác
nhau trên thế giới (Đạo giáo, Đạo Hồi, Kitô giáo, Ấn Độ giáo). Cùng với

tính năng thanh tẩy, nước cịn mang trong nó sức mạnh tái sinh, sức mạnh
của sự bất tử. Sức mạnh ấy ẩn chứa dưới lớp vô thức và là sức mạnh khơng
định hình của tâm hồn. Với G. Bachelard, nước là “một kiểu định mệnh đặc
thù”. Ông cho rằng “Trong bề sâu của mình, con người đã có định mệnh
của nước đang chảy” [44,273]. Khi thịnh nộ, nước chuyển từ âm (êm đềm/
nữ tính) sang dương (dữ dội/ nam tính). Nước mang trong nó số phận, dáng
vóc, tâm hồn. C.G. Jung cho rằng: “nước là biểu tượng phổ biến nhất dành
cho vô thức”, và về phương diện tâm lý học “nước là tinh thần đã trở thành
vô thức (…). Nước là trần thế và hữu hình, nó cũng là chất lỏng của cơ thể
bản năng tính, máu và là dòng lưu chuyển của máu, là mùi của thú tính,
tính nhục dục mạnh với đam mê” [44,70]. Cũng như Jung, G. Bachelard đã
có những phút giây chiêm nghiệm sâu lắng với nước. Trong cơng trình
Nước và những giấc mơ (L’Eau et les Rêves, 1942), ông đã dệt nên những
“biến tấu” kỳ diệu về chủ đề “nước”. Ở đó có những dịng nước trong,
những dịng nước mùa xn, những dịng nước chảy, những dịng nước đa
tình, những dịng nước sâu, nước tù đọng, chết chóc, nước pha tạp, nước
dịu hiền, nước dữ dội… Ngần ấy dòng nước là ngần ấy biểu tượng lấp lánh
tựa những tia sáng phản chiếu từ tấm gương dưới nắng mặt trời.


10
– Núi non, hang vực, gò, đống, rừng, vườn, biển, sơng, ngịi, hồ, đầm,
suối, mưa, sương…: Những cổ mẫu con này là những cổ mẫu con sinh ra
từ ba cỗ mẫu lớn ở trên. Nó vừa dung chứa những nét chung của cổ mẫu
mẹ đất, mẹ nước, cha trời – đặc biệt là tính cố định, luân chuyển và tính
sinh sơi – vừa hình thành những nét riêng. Cổ mẫu Sông, Đầm, Giếng gần
như chiếm lĩnh trang viết và khái niệm non sơng gần như bình đẳng với
khái niệm đất nước và non nước về ý nghĩa. Sông để lại dấu ấn đậm trong
tâm thức người Việt đến mức có khi nó thay thế cả Biển trong điển cố “bể
dâu” (Thương hải biến vi tang điền), để nói lên cảm thức về sự biến dịch

mà lại rất gợi, vì đã bước ra ngồi thế giới cơng thức, là sự khắc phục điển
phạm, vốn đã mòn nhẵn.
– Lửa: Ngay từ xa xưa, việc gìn giữ và bảo vệ “lửa thiêng” đã trải
rộng từ La Mã cổ đại đến Ấn Độ, từ các quốc gia phương Đông đến
phương Tây. Là một dạng vật chất, lửa mang trong nó những đặc tính đối
lập: lửa vừa là sự tái sinh, vừa là sự hủy diệt, là hy vọng lẫn tuyệt vọng, là
lửa yêu thương lẫn thù hận. Lửa được coi là cội nguồn của những sinh thể
nảy mầm sự sống cách đây gần năm tỉ năm; là biểu tượng của sự linh
thiêng thần thánh, đồng thời cũng là một phần trong bản thể con người. Và
cũng như cổ mẫu nước, một lần nữa ta lại thấy lửa đi vào lời ăn tiếng nói
của người dân. Người ta nói đến “lửa hận”, “lửa dục”, “lửa tham”… như
những mặt trái của cuộc sống. Người ta cũng nói đến lửa như một sự thử
thách lịng người (lửa thử vàng, gian nan thử sức), và lửa như một thứ hấp
lực của cuộc đời (cơ thể bốc lửa, đôi môi bỏng cháy,…). Cũng như nước,
mỗi người đều cất giấu trong mình một “định mệnh của lửa”. Cùng với
“nước”, “lửa” trở thành một biểu tượng kép trong đời sống tôn giáo tín
ngưỡng nhiều dân tộc trên thế giới. Người ta nhắc đến ngọn lửa Phục sinh
của người Kitô giáo với niềm tin về sự chiến thắng và ngự đến của đấng
cứu thế. Người ta cũng nhắc đến “lửa tam muội” – ngọn lửa ánh sáng và trí


11
tuệ của Phật giáo, do nhập định mà phát ra. Đó là ngọn lửa có khả năng
thiêu trừ mọi vọng tưởng, phóng chiếu con người về cõi cực lạc. Và người
ta còn nhắc đến ngọn lửa Agni – vị thần của sự sống và tư duy trong các
tôn giáo Ariăng ở Châu Á. Lửa mang lại sự sinh sôi, nhưng lửa cũng tàn
phá và hủy diệt. Đó là ngọn lửa hỏa ngục trong ngày phán xét – nơi kẻ tội
lỗi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng”; là ngọn lửa vơ minh, lửa dục vọng cất
giấu trong mỗi người, khiến thế gian chẳng khác nào một “nhà lửa” (hỏa
trạch) và con người bị thiêu đốt trong sự mê muội của chính mình. Với

người Việt, lửa là biểu tượng của sự sung túc. Tục thờ Táo qn (ba ơng
đầu rau) có thể xem là một hình thức khác của tục thờ lửa, gửi gắm mong
ước về cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc.
– Giấc mơ: Trải nghiệm về giấc mơ là một trong những trải nghiệm
đầu tiên của người nguyên thủy. Trải nghiệm ấy gắn với ý niệm về “linh
hồn” và sự tách biệt của linh hồn trong lúc ngủ. Về vấn đề này, người
nguyên thủy thái độ đối với giấc mơ tương tự như thái độ đối với giấc ngủ
vì cả hai đều gắn với lý thuyết nguyên thủy về linh hồn và cả hai loại hiện
tượng này bổ sung, củng cố ý nghĩa cho nhau. Giấc mơ chứa đựng những
biểu tượng đầy sức ám gợi, và đến lượt mình, bản thân giấc mơ cũng là một
cổ mẫu, nối kết đời sống tâm linh từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đó là thế
giới con người lạc vào, là cái gì đó diễn ra trong ta chứ ta khơng thể chọn
lựa. Và trên thế giới, dường như sự ra đời của một lãnh tụ tơn giáo nào đó
đều gắn với giấc mơ như một dấu hiệu phát lộ những điều hùn bí. Suốt
một thời kỳ dài, con người ln nỗ lực tìm hiểu và cắt nghĩa giấc mơ. Đến
thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của Phân tâm học, các kiến giải về giấc
mơ liên tục được đưa ra. Giấc mơ là những kí hiệu của ham muốn, chúng là
“biểu hiện, thậm chí là sự thực hiện những dục vọng bị kìm nén. Bởi vậy
giải thích mộng mị là con đường vương giả để đạt đến hiểu biết lịng
người”. Có thể nói, từ giấc mơ gợi nỗi khiếp sợ mê tín về “bóng ma”, cho


12
đến giấc mơ gắn với ý niệm rằng “bóng ma” ấy là sản phẩm hoạt động của
bộ não ở người đang ngủ là cả một quá trình, và từng là đối tượng của sự
suy tư triết học. Người Ai Cập cổ đại tin rằng, giấc mơ là nơi chuyển tải
thông điệp từ Thượng Đế (thần thánh), là nơi con người giao tiếp với thần
linh.
Cần chú ý phân biệt giữa cổ mẫu và biểu tượng. Có thể có hàng loạt
những biểu tượng nhưng không phải biểu tượng nào cũng là cổ mẫu. Giữa

chúng có cái chung đều là những năng lực tạo hình của những năng lượng
tinh thần con người và năng lượng đó đã diễn ra trong quá khứ, nay xuất
hiện với chúng ta qua ngưỡng vọng hoặc như một cứu cánh của niềm tin,
mang tính chất cứu chuộc. Tuy nhiên, sự khác biệt đó thể hiện ở chỗ biểu
tượng là một dấu hiệu, một cơ sở quy ước của niềm tin. Ở đó, cảm xúc ln
ln nổi trội, biểu hiện thành những nỗi lo sợ hay mừng vui khôn xiết tả,
những cảm xúc không lời. Biểu tượng không những làm cho rõ ràng, mà
còn làm cho trở nên chân thật những thực tại kinh nghiệm, là sự thức nhận
và trội sinh của cảm xúc hiện hữu. Như vậy, nếu biểu tượng là hình tượng
mang giá trị bền vững, phổ quát thì cổ mẫu là cấu trúc tinh thần bẩm sinh,
cấu trúc tâm thần gần như phổ biến hoặc thừa kế; và nếu biểu tượng bắt
nguồn từ văn hóa, tơn giáo, lịch sử – những lĩnh vực thuộc về ý thức – của
các cộng đồng thì cổ mẫu hình thành từ nguồn cội xa xưa, quan trọng sinh
tạo trong vô thức tập thể (khơng phải vơ thức cá nhân). Nói cách khác, cổ
mẫu là “hình tượng có giá trị bền vững, phổ quát, thoát thai từ vô thức tập
thể”.
1.1.2. Đặc trưng cổ mẫu
Đầu tiên cỗ mẫu tạo ra cho con người những kiểu loại thái độ, những
khung kinh nghiệm tri giác và cảm xúc nào đó, một thứ tâm thế xử kỷ tiếp
vật trong những loại hành vi nhất định, đưa tâm thức cá nhân lên những
tầm cao tâm lý và tâm linh siêu cá nhân, như mục đích cuối cùng của hành


13
trình sự sống con người: Năng lượng, Sự sống, Tinh thần. Nó mang tính
định hướng rõ rệt. Jung đã nêu ra mang tính kiểu mẫu trong sự khai triển
lương tâm của nhân loại là việc người cha khi câu không được cá, trong lúc
bực mình đã bóp cổ giết chết người con của mình. Sự hối hận sau đó đã tạo
ra một định hướng của tình phụ tử.
Thứ hai, mỗi một cổ mẫu tự bản thân nó mang tính chất của những

biểu tượng vĩnh cửu. Cái được biểu trưng trong biểu tượng là tiềm ẩn là
một biểu tượng văn hóa chất chứa chiều sâu tâm lý của cả một cộng đồng
đã được nghiệm sinh qua nhiều thời đại khác nhau. Nó chỉ ra cả ý thức và
vơ thức, cơ đúc các sản phẩm tôn giáo và đạo đức, sáng tạo và thẩm mỹ,
nhuốm màu xúc cảm và tưởng tượng của con người. Vì, cổ mẫu ln giữ
phần lớn tính chất huyền nhiệm, quyến rũ nguyên thủy làm người ta say
mê. Thực tại hiện hữu có vơ số điều mà con người không thể xác định
được, cũng không thể hiểu được trọn vẹn. Nó có sự liên hệ đến kinh
nghiệm của tập thể. Đơi khi nó dùng để diễn tả chân lý vĩnh cửu. Qua sử
tính, với nhiều lần thay đổi, nó trở thành những hình ảnh tập thể được các
xã hội văn minh chấp nhận.
Thứ ba, là sự tham dự một cách tập trung và đậm đặc yếu tố cảm xúc,
định kiến. C. Jung cho rằng có bao nhiêu tình cảm điển hình, bao nhiêu sức
nặng định kiến thì có bấy nhiêu loại cổ mẫu. Theo Jung, khi một cổ mẫu
được đồng hóa với một kinh nghiệm nào đó thì ngay lập tức, một kiểu phản
ứng nào đó được khơi dậy như nó đã hình thành và trao trùn trong các
thời đại trước đó. Ví dụ như sự phóng ngoại những thuộc tính tình mẫu tử
đặc loại của người con vào người mẹ cá thể của mình [41,35].
Thứ tư, theo những cấp độ của tuổi tác đời người, theo bước tiến triển
của phức cảm tự ngã, có sự chuyển vị và thay thế. Thời niên thiếu, những
cổ mẫu cơ bản như: anh hùng, liệt nữ (lý tưởng người hùng), nam nhân,
thục nữ (linh âm và linh dương). Nhưng khi bước vào thời Thanh niên –


14
Trung niên, mộng tưởng được thay thế cho những thực tế và lý tưởng
người hùng được chuyển vị vào cổ mẫu cha mẹ thơng qua sự hướng tới
chăm sóc con cái mình. Đến tuổi già, cổ mẫu hiền nhân, hồng lão đã
choán chiếm. Như vậy, cổ mẫu có sự lan tỏa cảm xúc tạo cho cổ mẫu tính
chất chuyển hóa.

Thứ năm, vì mọi diễn trình đi đến văn minh của nhân loại, từ các yếu
tố vật chất lẫn tinh thần đều là kết quả của những cuộc tiến hóa qua các thời
kỳ tiền sử nên cổ mẫu mang tính chất siêu thời gian và không gian. Xuất
phát từ quá khứ xa thẳm, thế giới tinh thần con người khơng có sự ngăn
cách về thời gian và không gian để đi đến những tương đồng giữa những
hình ảnh tâm trạng của con người cổ sơ và những ý niệm mang tính cách
tập thể với con người hiện tại.
1.1.3. Chức năng của cổ mẫu
Chức năng đầu tiên của cổ mẫu là góp phần nối liền và góp phần xóa
mờ ranh giới giữa văn học với nhân học, tâm lý, văn hóa. Nó có khả năng
chi phối đến sự hình thành nhân cách, di trùn văn hóa và sáng tạo nghệ
thuật. Về khía cạnh văn học, cổ mẫu như là đôi hài bảy dặm bay ra từ
huyền thoại, truyền thuyết dân gian, làm phong phú thêm kho tàng văn học
dân tộc. Về khía cạnh nhân học, tâm lí học, cổ mẫu như là “cái nhìn lắng
đọng của tâm thức con người qua mn ngàn thế hệ, cổ mẫu như là đôi mắt
bên trong, những cửa sổ tâm hồn của văn hóa” [39].
Chức năng thứ hai của cổ mẫu là tạo nên bản sắc văn hóa riêng của
một dân tộc, đất nước. Sở dĩ có nhận định này là vì theo Jung: nếu hệ tâm
thức (gồm ý thức và vô thức) là tam gi ác cấp năm tầng thì càng lúc nở
rộng đáy đã thuộc về vô thức. Vô thức tập thể là những nội dung tâm thức
được kết tinh từ nhiều truyền thống tâm lý, tâm linh, văn hóa và tơn giáo
của nhiều thế hệ loài người trong lịch sử. Những nội dung này được diễn tả
thơng qua các hình ảnh trong chiêm mộng, tưởng tượng dưới hình thức


15
biểu tượng, cổ mẫu. Cổ mẫu là kết tinh của vô thức tập thể, là những chất
liệu đặc biệt, chất chứa năng lực hùn dụ và địi hỏi nhiều cơng phu giải
mã. Nó là trung tâm của đặc trưng văn hóa nhân loại, dân tộc và mãi trương
cửu bất chấp những thay đổi của lịch sử, xã hội. Chính cổ mẫu đã nối liền

vơ thức và ý thức, góp phần tạo nên những hình tượng vừa đậm dấu ấn cá
nhân vừa mang tiếng nói chung của lồi giống.Nó thể hiện nét văn hóa vơ
thức trong con người, từ đó tất cả chuyển hóa, phối tạo nên cái tơi cá nhân
hay bản ngã con người.
Chức năng thứ ba là góp phần nối kết quá khứ và hiện tại. Cổ mẫu cho
ta biết về khn mẫu hình tượng mà ơng cha ta từ bao đời nay đã lưu giữ,
tơn thờ. Nó mang chức năng lịch sử rõ rệt. Từ đó, ta có chiều hướng kế
thừa điều đó trong cuộc sống hiện tại, lí giải được ngun nhân biểu hiện
đặc trưng văn hóa tư tưởng của chúng ta trong cuộc sống hiện tại, nâng cái
sự sống nhỏ bé của mình hịa nhập với sự linh thiêng muôn đời trong nếp
suy nghĩ của dân tộc. Người đọc cổ mẫu sẽ khơng chỉ tìm về những trang
viết của quá khứ mà cịn phải đắm mình trên dịng sơng chữ nghĩa hơm nay
để khơi dậy lại giọng nói của cha ơng.
1.2. Mối quan hệ giữa cổ mẫu với văn học
1.2.1. Nhìn chung về mối quan hệ giữa cổ mẫu với văn học
Từ xa xưa trong văn học dân gian, cổ mẫu đã xuất hiện qua truyền
thuyết, cổ tích, thần thoại. Cịn trong nền văn học viết, cổ mẫu vẫn lấp lánh
ẩn hiện trong sáng tác của các nhà văn lớn như Goethe, Poe, của
Baudelaire, Kafka, Joyce, Marquez, Mạc Ngôn, Cao Hành Kiện… Ở Việt
Nam, là Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng
Chương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Bình
Phương...
Như vậy, sự tham dự của cổ mẫu vào văn chương nghệ thuật diễn ra
từ rất lâu, cổ mẫu có mối quan hệ chặt chẽ với văn học. Những nghiên cứu


16
của các nhà khoa học cùng công lao sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn đã
hữu hình hóa nhịp cầu văn học – cổ mẫu trên con đường tri thức chung
nhân loại. Nó thể hiện tương hỗ hai chiều của cổ mẫu và văn học.

Cổ mẫu là cảm hứng, chất liệu không bao giờ tàn úa của văn học đồng
thời nó cịn là cơ sở để lí giải tác phẩm. Ở chiều ngược lại, văn học lại làm
cổ mẫu đậm chất nhân văn và bất tử. Cổ mẫu chính là cảm hứng, là chất
liệu cho các sáng tạo nghệ thuật đích thực. Các cổ mẫu trong hùn thoại
khơng bao giờ biến mất, chúng ln tái sinh, và biến hình bởi nó xuất phát
từ những hồn cảnh sống có thật của tổ tiên, cha ơng, lồi giống bao gồm
“những lo âu và sợ hãi, vui mừng và phấn chấn, tranh đấu và thành công,
những tương giao giữa nam và nữ, giữa con cái và cha mẹ, những linh ảnh
về người cha người mẹ, những thái độ đối với hận thù và yêu thương, đối
với sinh tử và ly biệt, những quyền lực của các nguyên lý trời đất, tối sáng,
âm dương…” [39].
Tác phẩm văn chương đầu tiên của nhân loại mà cổ mẫu ngả bóng vào
là truyền thuyết, thần thoại. Các tác phẩm này thành nơi lưu dấu các huyền
tích, huyền sử lại chính là nơi biểu hiện chủ yếu của ký ức cộng đồng ấy.
Nó khơng bao giờ đơng cứng theo cách hiểu nó đã sinh ra và mãi mãi tro
bụi từ thuở bình minh của lịch sử nhân loại, mà nó có năng lực tái sinh nhờ
sự bừng phát trong tầng sâu tâm thức con người mọi thời đại. Những trải
nghiệm này làm nên vô số huyền thoại, biểu tượng và cấu trúc tâm lý điển
hình, để rồi đi vào văn hóa nghệ thuật, đời sống tinh thần con người qua
bao thế hệ một cách vơ hình, sâu lắng đến khơng ngờ. Chính vì những lý do
đó mà ở thế kỷ XX và XXI, nhân loại mới vẫn luôn sống trong những
mảng cổ mẫu tái sinh trong ký ức, trong các sáng tạo văn học. Các nhà văn
trong nỗ lực tìm tịi, thử nghiệm và sáng tạo đã tìm đến cổ mẫu như một
chất liệu nghệ thuật mới để thể hiện những vấn đề xã hội hiện tại trong một
hình thức cổ xưa. Sử dụng cổ mẫu trong tác phẩm là tác giả đang dùng tới


17
các thủ pháp ước lệ, tính tượng trưng hay các điển tích... để làm tác phẩm
nghệ thuật ẩn ý tới các bài học sâu sắc, thâm trầm của hiện tại. Mỗi một

sáng tạo dường như xuất hiện trong nhiều mưu toan cất giấu chặt chẽ.
Quả thật, cổ mẫu không đơn thuần là chất liệu văn học mà còn ngầm
chứa trong nó sức mạnh tự nhiên lớn lao được thổi bùng từ phía vơ thức.
Nó làm văn học “mọc cánh bay”, chạm tới tư tưởng mang tính phổ quát của
cả dân tộc hay nhân loại. Tác phẩm không hẳn do người nghệ sĩ viết ra mà
dường như nó cầm lấy tay tác giả để viết ra “những điều khiến lý trí phải
kinh ngạc”. Khơng gì đúng đắn và sâu sắc hơn là những cổ mẫu mang tính
vĩnh hằng và đúng đắn mà thuở hồng hoang, ông cha ta đã khẳng định. Nó
vẫn ln nhắn nhủ con người những giá trị hằng hữu, nó lặn xuống các
tầng sâu vơ thức – q hương của con người và của vạn vật gây ám ảnh.
Hơn nữa, bản thân cổ mẫu còn là một tiêu chí thẩm mĩ từ bao đời truyền lại
và được các nhà văn ghi lại trong tác phẩm của mình. Để tại đỉnh điểm đó,
con người thấy mình thăng hoa, hạnh phúc, thấy mình đồng điệu nhịp bước
giữa mn người trong tâm thức chung đồng loại.
Như thế, văn học chính là cái đẹp cứu rỗi thế giới, khiến hàng triệu
trái tim trên hành tinh này xích lại gần nhau, nối liền khoảng cách khơng
gian, thời gian, xóa mờ những ranh giới… Hẳn nhiên, hướng tiếp cận này
khơng phải khơng có những hạn chế của nó nhưng rõ ràng cánh cửa đã mở
sẵn từ lâu đối với chúng ta, văn học như con thùn tự do vươn ra biển lớn,
hịa mình vào dịng chảy văn hóa bất tận.
Cổ mẫu khi chuyển tải vào trong tác phẩm văn học, nó nâng cao thêm
giá trị nhân học. Lúc đó, nhận thức khơng phải là mục đích duy nhất và chủ
yếu của cổ mẫu. Mục đích chủ yếu của cổ mẫu là duy trì sự hòa hợp giữa
cá nhân, xã hội và tự nhiên, duy trì trật tự xã hội và vũ trụ. Hình tượng ấy
được gắn với những bộn bề, băn khoăn, trăn trở của thế giới con người. Từ
đó, cổ mẫu càng thể hiện rõ là một phần tâm thức đã và đang tồn tại trong


18
chính chúng ta, có khả năng tác động lớn đến hình thành nhân cách và bản

vị. Vì thế mà càng về gần đây, trong trào lưu nhân văn hóa văn học, cổ mẫu
càng được sử dụng nhiều. Nó thể hiện sự thắng thế của cổ mẫu với các loại
hình chất liệu khác nhằm thể hiện tính nhân văn, nhân bản của con người.
Qua trào lưu ấy, cỗ mẫu góp phần thể hiện cả những bản cáo trạng về
những bất ổn trong thời kì hiện tại, cả những tâm trạng thất vọng của con
người trước hiện thực cuộc sống, những nỗi ưu tư cho chính số phận con
người. Đặc biệt, văn học trong thế kỷ XX đã sử dụng phần lớn cổ mẫu với
tư cách là sự thể hiện bằng biểu tượng vĩnh cửu cơ sở tồn tại của con
người, tâm lý con người, đối lập với hoàn cảnh lịch sử và những tính cách
cụ thể. Các huyền thoại cổ đại trên thực tế xuất hiện trước khi cá nhân được
tách ra khỏi xã hội, đã được nhà văn hôm nay dùng để miêu tả trình trạng
con người cơ đơn, bị lưu đày, bị người đời ghẻ lạnh trong xã hội thế kỷ
XX, như trong thơ: Eliot, Yets, Paund... ; trong kịch: Anui, Klodel, Kokto,
Ơnit Narquez... ; trong truyện và tiểu thuyết: Kafka, Th. Mann, Joyce,
Marquez, Bahman... Ở Việt Nam, các trang viết của Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh... thấm đẫm các chủ đề cổ mẫu.
Thực tế, những huyền thoại đó vừa là huyền thoại vừa là sự phản – huyền
thoại. Sự quay về với sáng tạo cổ mẫu như là trở về với phương tiện cần
thiết để cách tân nền văn hóa và con người, thể hiện tư tưởng nhân văn của
thời hiện đại.
Cổ mẫu còn là cơ sở để lí giải tác phẩm. Cách hiểu này đã mang lại
cho chúng ta cái nhìn mới về tác giả, tác phẩm và quá trình sáng tạo văn
học. Từ đó, nó nối liền văn học với văn hóa dân tộc, nhân loại. Nó là một
hiện tượng trung tâm trong lịch sử văn hóa, đồng thời là một phương tiện
cổ xưa để nhận thức thực tại xung quanh và bản chất của con người trong
tác phẩm. Sẽ là rất khó khăn cho việc diễn giải một tác phẩm văn chương
giàu tính biểu tượng khi thiếu đi sự hiểu biết về chính biểu tượng ấy. Sự


19

thấu hiểu cổ mẫu giúp ta xác định được ẩn ý trong các tác phẩm, nhất là các
tác phẩm mang tính biểu tượng cao. Nếu xem xét đơn vị cấu trúc của văn
học là biểu tượng và những cổ mẫu là đơn vị của giao tiếp nghệ thuật,
những ẩn dụ là những nguyên tắc cắt nghĩa hiện thực thì việc phân tích tác
phẩm văn học phải bám sát lấy tri thức từ cổ mẫu.
1.2.2. Mối quan hệ giữa cổ mẫu với văn học qua một số cổ mẫu
thường gặp
1.2.2.1. Cổ mẫu đất
Cổ mẫu đất được coi là cảm hứng và chất liệu văn học cho nhiều tác
phẩm văn học. Nó bắt nguồn từ những ghi nhận mang tính trực quan về đặc
điểm vật chất của đất, cổ mẫu đất xuất hiện nhiều trong văn học từ xưa tới
nay, cả văn học thế giới và Việt Nam. Đất có đặc trưng về sự phát triển
vững bền, sinh sôi nảy nở.
Khi đọc các tác phẩm văn chương thế giới và Việt Nam, ta dễ dàng
nhận thấy những nét lớn, gần như trùng khít nhau về đặc điểm của cổ mẫu
này.
Như trong các tác phẩm nước thần thoại Hi Lạp, đất được coi là mẹ
sản sinh ra các vị thần. Thần tên là Gaia, là một trong các vị thần ban sơ,
được người Hy Lạp tôn thờ là “đất mẹ”, tượng trưng cho mặt đất. Gaia là vị
thần thuở ban sơ và được coi như một vị thần âm phủ trong thần thoại Hy
Lạp. Bà được tơn kính như nữ thần vĩ đại hay như nữ thần mẹ. Đó là coi
đất khi người mẹ sản sinh ra tạo vật. Hay trong văn học dân gian Việt Nam,
đất cũng mang tính biểu tượng cao cho sự sống. Sử thi Mường có tên “Đẻ
đất đẻ nước” đã xây dựng cổ mẫu đất như nguồn gốc sự sống của loài
người.
Trong văn học hiện đại Việt Nam, đất gắn liền với hình ảnh quê
hương, vùng miền làm toát lên tình yêu bản quán sâu sắc. Trong cuộc chiến
tranh của dân tộc, đất nước gắn với cả tinh thần bảo vệ quê hương. Tiêu



20
biểu là tiểu thuyết “Hòn Đất” của nhà văn Anh Đức. Chuyện xảy ra vào
đầu năm 1961 tại Hòn Đất. Mảnh đất kiên cường ấy được tái hiện trong
tinh thần kiên quyết chống giặc. Đội du kích xã ở nơi đây đã rút lui vào
hang Hòn trong một trận chống càn quyết liệt. Đội có tất cả 17 người với
vũ khí thơ sơ. Mặc dù đối phương đơng gắp nhiều lần, được trang bị đầy
đủ, vũ khí hiện đại và dùng nhiều giải pháp, như: bỏ thuốc độc vào nước
suối, chặn mọi đường tiếp tế, dùng thuốc nổ phá hang, hun khói vào hang...
nhưng đội du kích kiên trì chống trả nhiều lần và kiên cường sống chết ở
nơi đó. Có lẽ tác giả đã cất giấu ẩn ý của mình trong những câu từ miêu tả
thiên nhiên, đất đai ở mảnh đất này, để từ đó soi rọi vẻ đẹp của con người.
Trong cuộc chiến đấu gay go, chênh lệch này, trong đội du kích nổi bật có
Hai Thép – người chỉ huy – sáng suốt, giàu nghị lực. Ngạn, một chiến sĩ
dũng cảm, thông minh. Ba Rèn, người nơng dân chất phác, trung kiên.
Qun, cơ du kích trẻ đẹp người, đẹp nết. Vượt trội hơn cả là chị Sứ, một
nữ du kích có nhiều đức tính cao q, như: đằm thắm, bất khuất, ngoan
cường... Hình ảnh mảnh đất ấy còn tái hiện lên sự hi sinh anh dũng của con
người. Cuối cùng, chi Sứ hy sinh vì sự sống của đồng đội và vì lý tưởng mà
chị nguyện suốt đời đeo đuổi. Hòn Đất đã trở thành biểu tượng bất hủ của
miền Tây Tổ quốc kiên cường ngày đêm sóng vỗ.
Hay trong bài thơ “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm, hình
tượng đất gắn với quê hương Việt giản dị, xúc động. Những câu thật tự
nhiên, sâu lắng, nói với ta bao điều giản dị mà cũng vơ cùng thiêng liêng,
thấm thía. Đất nước, khơng phải là một hình người xa lạ, hay một khái
niệm trừu tượng nữa mà qua thơ của Nguyễn Khoa Điềm, nó đã trở thành
những gì dễ hiểu, giản dị nhất trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con
người. Đất nước hiện hình từ câu chuyện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà,
đến cái kèo cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những điều
đó đều làm nên khn mặt dân tộc: một dân tộc tình nghĩa, đằm thắm ân



21
tình. Khơng những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với
kỉ niệm riêng của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”.
Trong truyện ngắn của Bình–Nguyên Lộc, ta thấy hình ảnh đất đai
toát lên đặc trưng vùng miền Nam Bộ. Thổ ngơi, mùi vị,… của vùng đồng
bằng sông Đồng Nai, sông Cửu Long... là đề tài, là nguồn cảm hứng dường
như không bao giờ cạn cho những trang viết của Bình–nguyên Lộc. Bình–
nguyên Lộc hay viết về người nơng dân nghèo gắn bó mật thiết với mảnh
đất, căn nhà lâu đời của mình. Nếu họ có lìa xa q hương ra thành phố,
sống đời anh “cơng chức” hay sống bằng những nghề khác, thì trong “căn
bổn” họ cũng là người dân quê và sẵn sàng về quê như anh Thuần trong
truyện Đất không chết. Bà vợ ông giáo Quyền khi chuyển ra sống ở thành
phố cũng nhớ đất đến mang bệnh và cuối cùng cả nhà phải dời ra ngoại ơ
để bà có đất trồng trọt, để đỡ nhớ mùi đất quê hương. Người trông coi
nghĩa trang thành phố cũng vậy. Anh ta chỉ ở lại, khơng bỏ về q nữa vì
tại đây anh ta có đất để trồng bông vạn thọ, để trồng rau, để bận rộn với
cơng việc quen thuộc của mình (truyện Thèm mùi đất). Còn cha anh Sáu
Nhánh (truyện Phân nửa con người) dù đã tuổi cao bóng xế vẫn kiên quyết
bỏ con cháu, bỏ cuộc sống trên chiếc ghe thương hồ để lên bờ sống trên đất
liền. Ơng thậm chí cịn cho rằng tình nghĩa với đất cịn sâu nặng hơn cả tình
nghĩa vợ. Trong mối liên hệ với tự nhiên bao gồm đất đai, sông nước,
ruộng vườn, cây cỏ, thời tiết nắng mưa...
Bình–ngun Lộc ln cho rằng đất là tình yêu sâu nặng nhất của con
người. Tập quán, nếp sinh hoạt ở một nước nông nghiệp lâu đời dường như
đã ăn sâu trong tiềm thức của người dân. Tư tưởng sở hữu đất cùng với
những nét tâm lý rất đặc trưng của người nông dân Nam Bộ được nhà văn
phát hiện trong những chi tiết khá thú vị như cảm giác thèm mùi đất, nỗi



22
khát khao được che chở, bảo vệ đất... Đất có mùi thật sự, nhất là đất mới
xới, một mùi rất đặc biệt mà mũi họ quen ngửi cho đến ghiền, thiếu thì họ
nghe thèm. Họ thấy rằng họ hạnh phúc vì họ được thỏa mãn tình cảm. Tình
nhớ xứ, nhớ nhà gồm nhiều yếu tố, mà nỗi thèm mùi đất là một yếu tố quan
trọng. Nỗi thèm này có khi mãnh liệt như nỗi thèm mùi thuốc phiện của
những con thằn lằn, những con chuột lắt sống trong buồng của những kẻ
hút thuốc phiện, họ thèm và nhớ mùi đất y như đào hát thèm và nhớ sân
khấu, vũ nữ thèm và nhớ đèn màu, và y như cá thèm và nhớ nước. Tình yêu
với đất được cắt nghĩa như một sức hấp dẫn tự nhiên với con người như
vậy, nên đơi khi vì đất đai, cây cỏ, con người có những hành động “kỳ
cục”. Ba Mín (trong truyện Mẹ tôi tái giá) cùng với những người dân làng
Chánh Hưng sống dựa vào rừng già. Khi lão Tây Xi–lăng–ba định phá rừng
trồng cây cao su, đêm nào Ba Mín cũng lén bưng bếp rề–sô cồn vào bãi
trồng đun nước sôi tưới lên gốc cây cao su, làm cây chết dần chết mịn. Ba
Mín quyết tâm giết chết những cây cao su con để bảo về rừng già cho tới
ngày lão Tây cho xe ủi và máy cày đến cày xới trên sáu mươi mẫu rừng với
hàng trăm phu thợ, anh mới buồn bã khăn gói trở về làng cũ. Ở làng cũ như
làng Tân Nhuận của ông Cựu Xã An, thanh niên lần lượt bỏ ra đi, chỉ còn
người cũ già nua và cái xa nước cũ kỹ không đủ sức quay để tưới cho cánh
đồng khơ hạn. Hình ảnh ông Cựu Xã An đứng nhìn cái xa nước quay yếu
ớt mà “hồi hộp, nín thở” giống như đang chứng kiến giờ phút hấp hối của
người thân. Hình ảnh vùng đất mà nhà văn nhắc đến ấy thể hiện tình cảm
yêu quê hương dạt dào, giúp lưu giữ hình ảnh con người và những giá trị
văn hoá vùng đồng bằng Nam Bộ trong dòng chảy mải miết của thời gian.
1.2.2.2. Cổ mẫu nước
Bên cạnh đất, nước cũng xuất hiện nhiều trong văn học. Trong các tác
phẩm thần thoại Hi Lạp, ta thấy sự xuất hiện của các vị thần dưới nước

thường trực và có ảnh hưởng lớn tới vạn vật, con người. Thần biển cả Pô–


23
đê–i–ơng tay cầm chiếc đinh ba có thể hơ mưa gọi gió làm biến động cả
biển cả. Nhờ thần mà những đồn thùn của qn đội Hi Lạp mới có thể
ra khơi nhưng cũng do thần mà người anh hùng Uy–lít–xơ phải trơi dạt trên
biển biết bao tháng năm, khơng mong trở về gia đình.
Hay trong các tác phẩm Việt Nam, nước trội lên, gây ám ảnh trong
một loạt truyền thuyết, thần thoại: Con Rồng cháu Tiên, Chử Đồng Tử,
Trương Chi, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Mỵ Châu Trọng Thuỷ,… Sử thi Mường
có tên “Đẻ đất đẻ nước” đã xây dựng cổ mẫu nước để giải thích về nguồn
gốc sự sống của lồi người. Hay trong hùn tích Mường, ta cũng thấy cổ
mẫu nước qua hình ảnh sơng. Nó là ngun khởi của mảnh đất, tạo dựng
nên lãnh thổ dân cư. Đó là biểu tượng về một lằn ranh chia cách, làm thành
hai thế giới, là một trở ngại mà con người phải vượt qua: Trời và Đất,
dương gian và địa phủ. Bước sang bờ kia là một cuộc đời khác. Gắn liền
với sơng suối là bến bờ, là con đị, là chiếc cầu. Lại có biểu tượng Bến Mê,
cầu Nại Hà... Lại có những khái niệm Hồng tùn, Suối vàng, sang
ngang... Như vậy, nước được coi là nguồn gốc sự sống, là cách phân chia
lãnh thổ.
Trong “Con Rồng cháu Tiên”, hình tượng Lạc Long Quân – một vị
thần ở dưới nước được coi là thủy tổ của dân tộc Việt. Thần cùng Âu Cơ đã
hoài thai ra dân tộc Việt Nam rồi chính thần lại dẫn 50 con xuống biển để
xây dựng giang sơn. Truyền thuyết vừa góp phần thể hiện niềm tự hào dân
tộc, rằng chúng ta có huyết thống của thần Rồng vừa phản ánh quan niệm
sâu sa của dân gian: cái gì tinh túy, mạnh mẽ thường từ nước mà sinh ra.
Cổ mẫu nước ấy về sau còn được lặp lại “Mị Châu Trọng Thủy” khi tác giả
dân gian miêu tả vua An Dương Vương lúc tới bờ biển được Rùa Vàng rẽ
sóng, mời đi xuống nước. Nước trở thành nơi che chở cho con người. Hay

hình tượng Rùa Vàng cũng mang ẩn ý về nước. Đây khơng phải chỉ là lồi
vật dưới nước mà là biểu trưng cho sứ giả trợ giúp người hiền tài. Hình


24
tượng ấy còn lặp đi lặp lại trong nhiều truyền thuyết như truyền thuyết về
hồ Gươm,…Nhu vậy, nước lại trở thành cổ mẫu thể hiện sự hài hòa, ăn
nhập với sự phát triển của dân tộc.
Như vậy, ý nghĩa tượng trưng của nước thường xoay quanh ba chủ đề
chính: nước – nguồn sống, nước – phương tiện thanh tẩy, và nước – trung
tâm tái sinh. Đây là ba chủ đề thường xuyên được đề cập đến trong các
truyền thuyết, huyền thoại cổ, từ đó hình thành những lớp kết cấu ý nghĩa
bền vững. Tuy nhiên, hiện nay cổ mẫu nước được khoác lên mình nhiều
lớp ý nghĩa hơn. Với nhiều đặc tính như đã nói ở trên, nước đại diện cho
nhiều hình tượng với các thơng điệp cũng vơ cùng đa dạng. Nó trở thành
một cổ mẫu “mềm mại” nhất trong văn chương.
Nước cịn biểu trưng cho tình u, cho hạnh phúc lứa đôi của con
người. Trong “Chử Đồng Tử”, nhờ nước Chử Đồng Tử và Tiên Dung nên
đôi trong mối dun kì lạ. Nước thành ơng Tơ bà Nguyệt, run rủi cho
chàng trai nghèo mồ côi Chử Đồng Tử gặp được người con gái lá ngọc
cành vàng Tiên Dung. Nó là điểm hạnh ngộ trong tình huống vừa oái oăm
vừa kỳ ảo của đơi bạn trẻ. Sau đó, đơi uyên ương với những câu chuyện kì
lạ này đã tìm đến vùng đồng lầy hẻo lánh để giúp dân làm ăn rồi sau đó hóa
thánh. Như vậy, nước cịn là nguồn gốc của sự cường thịnh, cho Chử Đồng
Tử và Tiên Dung làm nên việc lớn, trong một đêm, nơi đầm lầy ẩm ướt
hoang vu trở thành làng mạc đông vui, sung túc.
Tuy nhiên, có lúc cỗ mẫu nước cịn nhằm nói tới những sức mạnh
kinh khủng của thiên tai, bão táp mà con người phải thay phiên nhau tìm
cách chế ngự bao đời nay. Thần thoại “Sơn Tinh Thủy Tinh” miêu tả lại
cuộc đối đầu giữa thần núi và thần nước chính là nói về cơng cuộc chống

lại lũ lụt thời xưa. Không năm nào Thuỷ Tinh không làm mưa, làm bão
dâng nước lên đánh Sơn Tinh, gây nên lụt lội khắp vùng đồng bằng và
trung du nước ta. Và ước mong chế ngự ấy lại sáng lên qua việc tác giả dân


25
gian để Sơn Tinh chiến thắng đầy oai hùng trong cuộc chiến ấy. Sự hung
bạo của Thủy tinh quanh năm suốt tháng chính là sự đe dọa từ lũ lụt tới ông
cha ta ngày xưa. Câu truyện huyền thoại về lụt đã biến nước trở thành biểu
tượng của kẻ đến sau, thất bại và không nguôi cay đắng. Trong nỗi đau của
mình qua nhân vật Thuỷ Tinh, nước khơng cịn trong mình cái tinh thần
của mẹ Nước trước đây: là mạch sống của Đất mà đã ly khai, và trở thành
biểu tượng của kẻ phá hoại không mệt mỏi mảnh đất loài người. Nhưng dù
là kẻ phá hoại, nước vẫn có mặt thường xuyên với đất và người dân Việt.
Có lúc nước lại là nơi ghi dấu và thứ tha cho những oan khuất, thương
đau. Trong truyện “Mị Châu – Trọng Thủy”, nước như là một kỷ niệm đớn
đau và nhục nhã mà người Việt cần phải quên đi. Nnước là biểu tượng về
bước đường cùng của người anh hùng, vừa là chứng nhân tàn nhẫn của ba
bi kịch lồng ghép vào nhau: bi kịch của một người lãnh đạo cộng đồng hiếu
hoà và tự mãn (An Dương Vương), bi kịch của một người phụ nữ thuận
thảo với cha, hết lòng với chồng (Mỵ Châu), bi kịch của một người đàn ơng
vừa phải trịn phận trung hiếu, vừa phải giữ nghĩa phu thê (Trọng Thuỷ).
Dù ánh sáng của trái tim đã mách bảo cho người xưa một liệu pháp hoá giải
bi kịch, vào cuối truyện: ngọc – hồn Mỵ Châu ở biển Đông rửa giếng
Trọng Thủy lại trở nên đẹp đẽ bội phần nhưng tác phẩm khơng bớt đi bi
kịch.
Cịn trong chuyên “Trương Chi”, nước là biểu tượng của sự lệch pha
trong tình u, bi kịch của ngộ nhận. Sơng ở đây vừa là chốn mưu sinh, vừa
là nơi tiếng hát Trương Chi thăng hoa, vừa là nơi kết thúc cuộc đời của
chàng dân chài bất hạnh, và là nơi lưu giữ hồn chàng, để cuối cùng giúp

cho khối tình u uẩn của chàng được hoá giải. Sông với Mỵ Nương là biểu
tượng của ảo ảnh, đánh thức tâm hồn lãng mạn, phơi lộ khát vọng về cái
tuyệt đối, và hé mở trái tim trắc ẩn của nàng. Mỵ Nương là hình ảnh nhân
vật nữ tương tư đầu tiên của Việt Nam, chỉ vì yêu mà lâm bệnh. Hẳn rằng


×