Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH tế xã hội với sự NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG đi lên CNXH ở VIỆT NAM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.12 KB, 57 trang )

LÝ LUẬN HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI
VỚI SỰ NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG ĐI
LÊN CNXH Ở VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY.

1


MỤC LỤC
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ PHÂN KỲ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI LOÀI
NGƯỜI..........................................................................................................................3
1. Quan điểm của Liên Hợp Quốc.............................................................................3
2. Quan điểm phân kỳ lịch sử lấy tôn giáo là tiêu chuẩn...........................................4
3. Quan điểm Phân kỳ lịch sử theo các nền văn minh..............................................6
4. Quan điểm phân kỳ lịch sử của các nhà sử học.....................................................7
5. Quan điểm phân kỳ lịch sử của CN Mác...............................................................7
II. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI - NỀN TẢNG LÝ LUẬN
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ....................................................................8
1. Cơ sở xuất phát đề C.Mác phân tích đời sống xã hội...........................................8
2. Cấu trúc xã hội - Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội..........................................13
3. Vai trò phương pháp luận của phạm trù HTKTXH. Lý luận và thực tế. Lôgíc và
lịch sử......................................................................................................................24
III. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN TẤT
YẾU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM......................................................................27
1. Nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ..........................................27
2. Những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng CNXH ở nước ta..32
2. Những quan điểm và phương pháp luận xuất phát để xây dựng CNXH ở nước
ta..............................................................................................................................36
IV. PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM...............................................................................................36


1. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.....................36
2. Vai trò của Nhà nước và các công cụ quản lý vĩ mô đối với kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam. .............................................................................40
V. TÍNH TẤT YẾU VÀ TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI
HÓA.............................................................................................................................44
1. Khái niệm CNH - HĐH và tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa........44
2. Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.......................................................46
VII. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI VÀ
VẤN ĐỀ CNH - HĐH Ở VIỆT NAM........................................................................46
1. Đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và sự hình
thành nền kinh tế tri thức.........................................................................................46
2. Đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay..........50
3. Mục tiêu, quan điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. .50
VIII. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CNH - HĐH Ở VIỆT NAM.................................51
1. Thực hiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại để xây dựng cơ sở vật
chất cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lức lượng sản xuất. ......................................51
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động................................52
VIII. NHỮNG TIỀN ĐỀ KHÁCH QUAN ĐỂ ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA........................................................54
1. Tạo vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá........................................................54
2. Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá...............................55
3. Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá......................................................................................................................55
2


4. Điều tra cơ bản, qy hoạch và dự báo phát triển...................................................56
5. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại......................................................................56
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội do Mác - Ăngghen phát hiện ra vào những
năm 40 của thế kỷ 19, được V.I.Lênin kế thừa và phát triển hay nói đúng hơn là vận

dụng lý luận này vào CM tháng 10 Nga.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội do Mác - Ăngghen phát hiện ra nhằm mục
đích tìm hiểu quy luật chung nhất, sự vận động và phát triển của loài người. Những
nhà XHHDT cho rằng lịch sử loài người bắt đầu từ chúa trời… Các nhà triết học Mác
lại thấy rằng: lịch sử loài người không bắt nguồn từ bàn tay của chúa trời, mà nó
được bắt đầu từ kinh tế, từ SXVC. Khi SXVC phát triển tới một trình độ nhất định,
tất cả các quan hệ khác (văn hóa, tư tưởng, chính trị…) cũng phải thay đổi theo =>
XH nhất định sẽ tiến lên CNCS.

I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ PHÂN KỲ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI LOÀI
NGƯỜI.
1. Quan điểm của Liên Hợp Quốc.
Với mục đích thúc đảy sự phát triển đồng đều giữa các quốc gia, tổ chức LHQ
trong những năm 70 của thế kỷ XX đã phân chia các quốc gia thành các trình độ khác
nhau. Tổ chức này thống nhất với nhiều quan điểm cho rằng, thời kỳ đầu tiên của xã
hội loài người là thời kỳ mông muội - tức là thời kỳ mà chúng ta thường gọi là xã hội
cộng sản nguyên thủy, cuộc sống của con người chủ yếu dựa vào tự nhiên, khai thác
sản vật sẵn có của tự nhiên.
Thời kỳ thứ hai gồm những nước không những từ xưa mà còn cả những nước
hiện nay còn sinh sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Họ gọi thời kỳ này là
thời kỳ nông nghiệp.
Thời kỳ thứ ba gồm những nước đã bát đầu thoát khỏi một phần phụ thuộc vào
nông nghiệp. Thời kỳ này được gọi là thời kỳ công nghiệp. Tuy có sự tham gia của
công nghiệp nhưng những nước này vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
Thời kỳ thứ tư gồm những nước ít phụ thuộc vào nông nghiệp và họ gọi là thời
kỳ công nông nghiệp. Tức là sản phẩm công nghiệp đóng vai trò chủ yếu trong đời
sống của người dân các nước này.
3



Thời kỳ thứ năm gồm những nước công nghiệp. Thời kỳ này tuy không thiếu
sản phẩm nông nghiệp nhưng sự phát triển của công nghiệp chi phối các nước này, sự
giầu có, sức mạnh, năng lực của một quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào sự phát triển
của công nghiệp. Hiện nay các nước G7 (Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Canada, Italya, Nhật
Bản là những nước công nghiệp phát triển) được liên hợp quốc liệt hết vào nước công
nghiệp. Họ gọi thời kỳ này là thời kỳ công nghiệp.
Thời kỳ thứ sáu gồm những nước phát triển chủ yếu dựa vào công nghệ tự
động. Tức là quá trình sản xuất vắng bớt bóng con người, với 80% qua trình sản xuất
được thực hiện bằng công nghệ tự động, đời sống của đa số con người có bước phát
triển. Cho đến nay, một số ngành, một số lĩnh vực đã đạt đến trình độ công nghệt ự
động song chua có quốc gia nào đạt đến trình độ đó. Thời kỳ này thời kỳ công nghệ
(một số học giả còn gọi là hậu công nghiệp).
2. Quan điểm phân kỳ lịch sử lấy tôn giáo là tiêu chuẩn.
Vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, một số nước phương tây đã dựa vào
tôn giáo để phân chia nhân loại thành các vùng và đôi khi họ còn gọi là “nền văn
minh”. Theo các học giả này thời kỳ đầu tiên của con người là thời kỳ mông muội.
Thời kỳ này tôn giáo chưa được hình thành, dưới hình thức sơ khai của mình, với
những niềm tin chủ yếu dựa vào thần, tôn giáo còn mang tính nguyên thủy. Khi
những tôn giáo lớn trên thế giới được ra đời với không chỉ niềm tin mà còn có cả một
hệ thống giáo lý đồ sộ, một số tổ chức giáo lý chặt chẽ thì loài người cũng bắt đầu
phân chia theo sự chi phối của tôn giáo mà chủ yếu là các tôn giáo lớn.
Nền văn minh cơ đốc giáo. Niềm tin, giáo lý và tổ chức của Cơ đốc giáo cũng
nhưu các hệ phái của nó chi phối đời sống của hầu hết các nước Âu - Mỹ hay còn gọi
là phương Tây. Thế giới ngày nay là thế giói văn hóa phương tây. Họ cho rằng văn
hóa phương Tây là chuẩn của văn hóa thế giới. Phương Tây văn minh hơn phần thế
giới còn lại. Từ đây học đặt cơ sở cho việc tranh luận những lĩnh vực khác của đời
sống con người - cả văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần.
Nền văn minh Hồi giáo. Hồi giáo có một bộ phận giáo dân không nhỏ của thế
giới. Với những đặc thù của mình, tôn giáo này đang trỗi dạy và ngày càng thể hiện
vai trò chi phối đời sống của con người. Thuộc về nền văn minh này là những quốc

4


gia lấy hồi giáo làm quốc giáo hoặc là tôn giáo chủ yếu. Có một số nước tuy giáo dân
không nhiều nhung chịu ảnh hưởng của niềm tin, giáo lý và cách thức tổ chức của
giáo lý này cũng được học xếp vào nền văn minh này.
Nền văn minh Khổng giáo. Ngày nay, trên thế giới, ở tổ chức UNESCO của
liên hợp quốc và các nước Nhật Bản, Triều Tiên, Hồng Kông…, người ta còn gọi nho
học là nho giáo.
Ở Trung Quốc đa số giới học thuật đều gọi học thuyết do Khổng Tử sáng lập ra
là Nho học. Những có người lại cho học thuyết đó là một tôn giáo. Giáo sư Nhậm Kế
Dũ đã có nhiều bài viết chứng minh cho luận điểm này (“Bàn về sự hình thành của
Nho giáo” - 1979; “Nho gia và Nho giáo”, Lại bình giá Nho giáo - 1982; Chu Hy và
tô giáo” - 1982…). Nói chung giới học thuật chưa tán thành quan điểm này.
Viện Tôn giáo thế giới thuộc viện hàn lâm Khoa học xã hội Trung Quốc, bên
cạnh các phòng Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo… còn có phòng Khổng giáo.
Hội nghị khoa học quốc tế nhân dịp kỷ niệm 2545 năm sinh Khổng Tử diễn ra
ở Bắc Kinh vào thàng 10/1994 với tên gọi là hội nghị “Nho học”, nhưng cũng có các
đại biểu quốc tế nghiên cứu về Nho học là một tôn giáo.
Giới học thuật nước ta thường nói đến khái niệm “Nho giáo” và “Tam giáo”.
Nhiều cuốn sách xuất bản trước kia đều gọi là “Nho giáo”. Ở đây vừa là cách gọi theo
thói quen, vừa có hàm ý Nho học là một tôn giáo.
Vậy, đạo Nho nên gọi là Nho học hay Nho giáo. Đạo đó là một học thuyết Triết
học, chính trị - xã hội hay là một tôn giáo? Nếu cho nó là tôn giáo thì căn cứ vào đâu?
Nếu cho đó không phải là tôn giáo thì có lúc nào nó biểu hiện như là tôn giáo? Sự
hiện diện của học thuyết đó trong lịch sử chủ yếu là thuộc về triết học hay tôn giáo.
Đó là vấn đề khá phức tạp. Các học giả phương Tây căn cứ ảnh hưởng của Nho giáo
đối với xã hội Phương Đông đã coi Nho giáo như là một tôn giáo. Theo họ, mặc dù
Phật giáo là một tôn giáo lớn, ra đời sớm nhất, có giáo lý khá đồ sộ nhưng cách tổ
chức của Phật giáo thì không chặt chẽ nên không có sức mạnh như khổng giáo hay

Nho giáo. Trong lịch sử tồn tại của mình gần như toàn bộ xã hội Phương Đông
đều chịu sự chi phối của Khổng giáo và đến ngày nay vẫn còn ảnh hưởng rất lớn.

5


3. Quan điểm Phân kỳ lịch sử theo các nền văn minh.
Một số học giả phương Tây lại có cách phân chia xã hội loài người theo
các nền văn minh. Quan điểm của các học giả này dựa trên sự phát triển lực
lượng sản xuất của mỗi thời đại. Đương nhiên sự phát triển của lực lượng sản
xuất là một trong những tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội nhưng không phải là tiêu
chuẩn duy nhất. Trường phái này cũng thống nhất cách gọi giai đoạn đầu của
xã hội loài người là Thời kỳ mông muội - tương ứng với cách gọi là xã hội
nguyên thủy hay cộng sản nguyên thủy.
Nền văn minh thứ hai là nền văn minh nông nghiệp. Lực lượng sản xuất
của nền văn minh này chủ yếu là công cụ thủ công, lao động thủ công với năng
suất thấp, đời sống con người còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, chưa ổn
định, nạn đói vẫn còn diễn ra, con người chưa cải tạo thiên nhiên được bao
nhiêu. Thời kỳ này kéo khá dài trong lịch sử.
Nền văn minh thứ ba là nền văn minh công nghiệp. Theo các học giả
thuộc trường phái này, lực lượng sản xuất của thời kỳ này bắt đầu bằng việc
phát minh ra máy hơi nước với sự mở đầu cho sự sản xuất cơ khí. Ngày nay
các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu cho nền văn minh này. Ở những
nước này sản phẩm của nền sản xuất chủ yếu là từ sản xuất công nghiệp. Công
nghiệp phát triển làm cho đời sống vật chất và tinh thần của xã hội vượt trội,
tiêu biểu cho nền văn minh nhân loại hiện nay.
Nền văn minh thứ tư là nền văn minh hậu công nghiệp. Nếu như trước
đây, trong các nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh công nghiệp thì giai
cấp nông dân, giai cấp công nhân là chủ yếu đóng vai trò lãnh đạo thì ở đây (có
học giả gọi là giai cấp) trí thức đóng vai trò lãnh đạo. Sản phẩm của sản xuất

có hàm lượng trí tuệ là chủ yếu, xã hội phát triển vượt bậc. Lúc đó loài người
sẽ “hội tụ” ở tri thức; giai cấp, dân tộc, nhà nước chỉ là hình thức lịch sử. Con
người sẽ sống với nhau một cách hòa bình. Họ cổ vũ cho việc thực hiện nhanh
những điều đó. Tuy vậy, hiện thực vẫn còn khác xa với ý tưởng.

6


4. Quan điểm phân kỳ lịch sử của các nhà sử học.
Đã từ lâu, trong giới sử học tồn tại một cách phân kỳ lịch sử mà cho đến ngày
nay nó được mặc nhiên thừa nhận.
Thời kỳ mông muội - Thời kỳ nguyên thủy. Thời kỳ này bắt đầu ở các quốc gia
dân tộc khác nhau, tùy vào điều kiện hình thành của họ nhưng được kết thúc khi nhà
nước chiếm hữu nô lệ ra đời.
Thời kỳ cổ đại. Thời kỳ này kéo dài đến thế kỷ thứ V. Cũng như thời kỳ thứ
nhất, mối quốc gia đều có độ dài ngắn khác nhau, sự phát triển kinh tế xã hội cũng
khác nhau. Điều giống nhau cơ bản nhà nước chiếm hữu nô lệ suy tàn. Thay vào đó là
sự xuất hiện của nhà nước phong kiến. trong lịch sử mặc dù có những nhà nước
không trải qua chế độ phong kiến nhưng tiến trình chung của lịch sử nhân loại là như
vậy.
Thời kỳ trung đại (thế kỷ V - XV). Đây là thời kỳ tương đối thống nhất trên
phạm vi thế giới. trong lịch sử, thời kỳ này được nhiều người gọi là thời kỳ trung cổ.
Thời kỳ này đã xảy ra không ít bi thương mà đến ngày nay cách đánh gia của nó còn
rất khác nhau.
Thời kỳ cận đại. Là thời kỳ cách mạng tư sản nổ ra và chủ nghĩa tư bản được
thiết lập trên phạm vi toàn thế giới. tuy nhìn chung là vậy nhưng thời kỳ cận đại
mang tính mở. càng tiến vào tương lai thì thời kỳ cận đại càng thay đổi.
Thời kỳ hiện đại (nửa sau thế kỷ XIX - thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa đế quốc).
Nhưng theo thời gian thì hiện đại là để chỉ sự tồn tại của loài người ngày nay với bao
biến đổi khôn lường.

5. Quan điểm phân kỳ lịch sử của CN Mác.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác phân chia quá trình hình thành
và phát triển của xã hội loài người dựa trên cơ sở sản xuất vật chất. Hay còn gọi là
hình thái kinh tế xã hội: HTKTXH cộng sản nguyên thủy, HTKTXH chiếm hữu nô
lệ, HTKTXH phong kiến, HTKTXH tư bản chủ nghĩa, HTKTXH cộng sản chủ nghĩa.
=> Có thể nói, các cách phân chia lịch sử loài người của mỗi trường phái đều
có tính hợp lý riêng của nó. Tuy nhiên, chỉ có cách phân chia theo CN Mác đã phần
nào phản ánh được sự vận động và phát triển toàn diện của lịch sử xã hội loài người,
7


cùng sự phát triển như vũ bão của sản xuất vật chất do cách mạng khoa học
công nghệ hiện nay.

II. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI - NỀN TẢNG LÝ LUẬN
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ.
CNDVLS là một hệ thống các quan điểm của triết học Mác-Lênin về xã
hội. Nội dung chủ yếu là nhận thức về xã hội trong tính chỉnh thể và phát hiện
những quy luật vận động, phát triển phổ biến của lịch sử. Là một trong những
cống hiến to lớn của Mác CNDVLS là bước phát triển có tính cách mạng trong
lịch sử triết học.
Học thuyết HTKTXH là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa DVLS và
cũng là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là học thuyết
vạch rõ những quy luật cơ bản của sự vận động xã hội và vạch ra phương
pháp khoa học để giải thích lịch sử.
1. Cơ sở xuất phát đề C.Mác phân tích đời sống xã hội.
Khi xây dựng quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác và Ăngghen đã xuất
phát từ các tiền đề sau:
1.1. Sự tồn tại của con người sống - con người hiện thực.
C.Mác (1818 - 1883). Sau khi tốt nghiệp ĐH vào năm 1839, C.Mác đăng

ký làm nghiên cứu triết học tại ĐH Béclin - Đức. Mặc dù còn trẻ, song Mác đã
tự xác định cho mình là phải biết kết hợp việc nghiên cứu triết học với tiến
trình phát triển của lịch sử, bám sát lịch sử mới hiểu được lôgích tất yếu của
nó. Theo hướng tiếp cận đó, C.Mác đi đến phân tích nhân tố cơ bản, đầu tiên
thúc đảy lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong “hệ tư tưởng Đức”
C.Mác nói: “Những công việc nghiên cứu của tôi đã dẫn tôi đến kết quả là:
không thể láy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái
nhà nước, hay cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người để giải
thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại phải thấy rằng những quan hệ
đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất…”; hay “Tiền đề đầu tiên
của toàn bộ lịch sử nhân loại thì lẽ dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con
người sống”.
8


Xã hội dù tồn tại dưới hình thức nào cũng là sự liên hệ và tác động qua lại giữa
người với người.
Các nhà tư tưởng trước Mác đã từng tiếp cận vấn đề con người dưới nhiều góc độ, đã
có nhiều đóng góp quý báu và từ đó họ đã đưa ra những lý giải về mặt xã hội. Song
do hạn chế lịch sử, họ chưa có cái nhìn đầy đủ về sự tồn tại của con người cũng nư
của lịch sử xã hội loài người. Điều đáng chân trọng nhất là tất cả các nhà tư tưởng đó
đã làm thành dòng chủ lưu của lịch sử văn hóa nhân loại, đó là chủ nghĩa nhân đạo.
Tiếp nối truyền thống đó, triết học Mác đã có những phát hiện mới và đóng góp mới:
xuất phát từ con người hiện thực, Mác chỉ ra phương thức tồn tại của con người đó
chính là hoạt động của họ. Cái quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực
thúc đảy hoạt động của con người là nhu cầu và lợi ích.
- Nhu cầu của con người được hình thành một cách khách quan, có nhiều thang
bậc, mà trước hết là nhu cầu sống (Mác nói: “Muốn sống được thì trước hết phải có
thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa”), nhu cầu giao tiếp, sinh
hoạt cộng đồng, nhu cầu phát triển tâm hồn, trí tuệ. Hơn nữa đây còn là một hành vi

lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử à ngày nay cũng như hàng nghìn năm
về trước), người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống
của con người.
- Kết quả hoạt động là nhằm thỏa mãn nhu cầu, đồng thời làm nảy sinh nhu cầu
mới và điều kiện thực hiện những nhu cầu mới.
- Con người cá nhân - hiện thực (tồn tại đơn nhất) bao giờ cũng tồn tại trong
thành phần những hệ thống xã hội như gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc (tồn tại đặc
thù) và rộng hơn nữa là xã hội loài người (tồn tại phổ biến). Mác cho rằng: “cá nhân
là một thực thể xã hội. Cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó là biểu hiện và sự
khẳng định của sinh hoạt xã hội.
1.2. Sản xuất vật chất - cơ sở của đời sống xã hội.
“Đời sống xã hội, về thực chất là có tính thực tiễn”. Để tồn tại và phát triển, xã
hội không ngừng hoạt động để tham gia vào:

Sản xuất vật chất
Sản xuất tinh thần
Sản xuất ra bản thân con người

9


Ba quá trình đó tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất
là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong đó:
● Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải tiến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải
vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
● Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại xã hội.
Con người muốn tồn tại và phát triển phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở...
và những các vật dụng cần thiết khác nhằm duy trì đời sống tự nhiên của con

người. Những thứ đó ko có sẵn trong tự nhiên mà phải qua quá trình sản xuất
vật chất. SXVC không chỉ tạo ra những tư liệu sinh hoạt đáp ứng nhu cầu sống
của con người mà còn tạo ra những tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản
xuất mà những tư liệu sản xuất còn là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại khác
nhau. C.Mác đã chỉ rõ: “các thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng
sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng ản xuất bằng cách nào, với những tư liệu
lao động nào”.
- Sản xuất vật chất sáng tạo ra con người và xã hội loài người
Trong quá trình lao động sản xuất vật chất, con người biến đổi cả về
hình thể lẫn trí tuệ. Đồng thời trong quá trình này, con người sáng tạo ra mọi
mặt của đời sống xã hội. Tất cả các hoạt động và các quan hệ xã hội về nhà
nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo… đều hình thành và biến đổi
trên cơ sở SXVC.
- Sản xuất vật chất là động lực thúc đảy sự phát triển xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội và
bản thân con người. Quá trình sản xuất cũng không ngừng phát triển. Điều này
quyết định sự phát triển của các mặt đời sống xã hội, quyết định sự phát triển
xã hội từ thấp đến cao.
=> Nền sản xuất xã hội bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó
nổi lên hai loại liên hệ cơ bản:

10


+ Thứ nhất, quan hệ kinh tế - kỹ thuật: biểu hiện ở cách thức năng lực, trình độ
của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên để tạo ra sản phẩm cho xã hội.
Quan hệ này được phản ánh trong khái niệm LLSX.
+ Thứ hai, quan hệ kinh tế - xã hội: thể hiện ở cách giải quyết vấn đề lợi ích
kinh tế, là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, trao đổi và
tiêu dùng. Quan hệ này được phản ánh trong khái niệm QHSX.

Về mặt nhận thức luận: LLSX và QHSX là hai loại quan hệ (không phải hai bộ
phận) trong một thực thể thống nhất cấu thành PTSX của xã hội. Nghĩa là, từ hai góc
tiếp cận để xem xét một thực thể PTSX.
Nếu phân tích PTSX theo quan hệ giữa con người với tự nhiên thì đó là LLSX.
Nếu phân tích PTSX theo quan hệ giữa con người với con người thì đó là
QHSX.
LLSX và QHSX nằm trong thể thống nhất của hai mặt đối lập trong PTSX xã
hội nhất định. Chúng quy định chế ước lẫn nhau, tác động qua lại và thúc đảy nhau
cùng phát triển theo quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX. Nghĩa là trong sự thống nhất bao hàm sự mâu thuẫn đó thì LLSX giữ
vai trò quyết định sự vận động phát triển của QHSX, còn QHSX phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Sự thống nhất và mâu thuẫn không ngừng
nảy sinh, tự giải quyết, là động lực vận động nội tại của PTSX, là cơ sở của lịch sử xã
hội loài người.
1.3. Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử.
Không có tự nhiên không có lịch sử xã hội thì không thể có con người. Con
người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Lịch sử không phải do một nhân cách nào đó sử dụng con người làm phương
tiện để đạt đến mục đích của mình, mà lịch sử xã hội loài người là lịch sử hoạt động
của chính bản thân con người. Hoạt động của con người bao gồm sự thống nhất giữa
mặt khách quan và mặt chủ quan của quá trình lịch sử.
+ Sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan của quá trình lịch sử là một
vấn đề hết sức phức tạp. Do tính phức tạp đó mà các nhà triết học trước Mác nhận
thức và giải quyết vẫn còn nhiều hạn chế, sai lầm:
11


- Một là, nhấn mạnh vai trò của nhân tố chủ quan trong hoạt động của con
người đến mức cho rằng đạo đức, ý thức hoặc lý tính có thể quyết định lịch sử
(Platon, Béccơli, Hêghen).

- Hai là, thừa nhận tính bị quy định của hoạt động con người nhưng lại không
lý giải được tính khách quan nên đã sa vào quan niệm định mệnh về lịch sử.
+ Các nhà sáng lập ra CNDVLS đã làm sáng tỏ vấn đề mối quan hệ giữa mặt
khách quan và mặt chủ qun của tiến trình lịch sử thông qua những lát cắt nhận
thức luận khác nhau, những quan hệ gắn bó và bổ sung cho nhau. Đó là việc
thông qua và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa quy luật
lịch sử và hoạt động có ý thức của con người, giữa tự do và tất yếu, giữa tự
phát và tự giác trong sự phát triển của lịch sử. Trong việc giải quyết vấn đề đó,
Mác đã xác lập nguyên tắc có tính phương pháp luận là tồn tại xã hội thì quyết
định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội và tác động
đến sự phát triển của tồn tại xã hội. Mác nhấn mạnh: “không phải ý thức con
người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại chính sự tồn tại của họ quyết định ý
thức của họ”.
- Trên có sở nguyên tắc phương pháp luận đó, triết học Mác cho rằng xã
hội là một bộ phận đặc thù của thế giới vật chất, vận động và phát triển tuân
theo quy luật khách quan. Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, tất
yếu, lặp đi lặp lại của các quá trình, các hiện tượng của đời sống xã hội, đặc
trung cho khuynh hướng co bản phát trienr xã hội từ thấp đến cao. Giống như
quy luật tự nhiên, quy luật xã hội có tính tất yếu khách quan, nhưng điều đó
không có nghĩa là con người bó tay trước quy luật. Khi chưa nhận thức được
quy luật thì con người hành động một cách tự phát, là nô lệ của tính tất yếu.
Khi đã nhận thức được các quy luật và các điều kiện của chúng thì con người
có thể điều khiển hoạt động của mình phù hợp với yêu cầu của quy luật một
cách tự giác, khi đó con người có tự do trong hoạt động của mình. Vơi ý nghĩa
đó có thể thấy tự do chính là nhận thức và hành động theo cái tất yếu.
- Quan niệm duy vật về lịch sử khoogn phủ nhận tác động của mục đích
con người đối với tiến trình lịch sử, nhưng đòi hỏi phải nhận thức nó một cách
12



khoa học. Nghĩa là quan niệm DV về lịch sử xem xét nhu cầu khách quan của
sự xuất hiên các mục đích và những điều kiện để thực hiện mục đích đó. Điểm
xuất phát để định ra mục đích là những điều kiện khách quan. Chính đời sống
con người làm này sinh ở họ nhu cầu và lợi ích, đặt ra cho họ mục đích hoạt
động. Ở đó sự quy định khách quan đã chuyển hóa thành sự quy định chủ
quan; mặt khác để đạt được mục đích lại cần phải có những điều kiện khách
quan thích hợp. Hoạt động của con người là quá trình chuyển tính chủ quan
thành tính khách quan.
Như vậy, quá trình lịch sử là quá trình hoạt động của con người tuân theo
những quy luật khách quan. Quá trình lịch sử luôn là sự thống nhất giữa những quy
luật vận động khách quan của xã hội và hoạt động có ý thwucs của con người. XÃ
hội ngày càng tiến bộ, càng phát triển thì vai trò của nhân tố chủ quan ngày càng tăng
lên, đó là xu hướng có tính quy luật của lịch sử.
2. Cấu trúc xã hội - Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
2.1. Cấu trúc xã hội.
Thế giới vật chất là một thể thống nhất bao gồm nhiều cấp độ tổ chhuwcs khác
nhau. Ở mỗi cấp độ nhất định đều có những yếu tố ổn định và những mối liên hệ, sự
tác dộng lẫn nhau giữa chúng tạo thành cấu trúc của nó, mang lại cho nó tính chỉnh
thể.
Xã hội là một hệ thống cực kỳ phức tạp, vì vậy khi phân tích xã hội phải xem
xét, tính toán sự tác động của nhiều nhân tố, phải vạch ra được những bộ phận chủ
yếu và mối liên hệ giữa chúng. Điều đó là rất quan trọng về mặt phương pháp luận vì
nó cho ta cái nhìn tổng quát về mặt xã hội. Chính các nhà triết học và các nhà xã hội
học trước Mác đã không nhìn thấy điều đó, nên khi nghiên cứu về xã hội họ chỉ tiếp
cận bộ phận, chỉ nhấn mạnh một yếu tố nào đó và gắn cho nó tính quy định. Cho nên
các nhà triết học và xã hội học trước Mác không thể đưa ra một mô hình phản ánh xa
xhooi trong tính chỉnh thể, trọn vẹn của nó.
Khắc phục nhước điểm đó, CNDVLS xem xã hội như là một hệ thống bao gồm
trong nó các lĩnh vực cơ bản:


13


+ Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội, trong đó các quan hệ sản xuất, quan hệ
kinh tế giữ vai trò là những quan hệ ban đầu, cơ bản và quyết định tất cả các
quan hệ xã hội khác.
+ Lĩnh vực xã hội: Quan hệ gia đình, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc, trong
đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối.
+ Lĩnh vực chính trị: Các tổ chức, các thiết chế quyền lực, hệ thống pháp luật
và tư tưởng chính trị.
+ Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội: bao gồm tất cả cac hiện tượng tinh
thần của xã hội từ tâm lý, truyền thống, đến hệ tư tưởng và các hình thái ý thức
xã hội.
2.2. Những vấn đề cơ bản trong học thuyết HTKTXH.
Đóng góp to lớn của chủ nghĩa DVLS là đã xác định đúng đắn vị trí, vai
trò của các yếu tố, chỉ ra các chiều tác động qua lại giữa chúng, những liên hệ
bản chất tất yếu giữa chúng, những liên hệ bản chất tất yếu giữa chúng làm cho
cả hệ thống xã hội vận động và phát triển. Điều này được C.Mác trình bày cô
đọng như sau: “Trong sư sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có
những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển của
các LLSX của họ. toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành một cơ cấu
kinh tế của một xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng nên một kiến
trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có
những hình thái ý thức xã hội nhất định. PTSX đời sống vật chất quyết định
các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”. Quan điểm
tổng quát đó được triển khai, phân tích bằng một hệ thống các phạm trù, quy
luật như:
a. Lĩnh vực kinh tế.

Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội được khái quát trong các phạm trù:
PTSX, LLSX, QHSX và quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và
trình độ của LLSX. Trong đó:

14


● Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. PTSX là sự thống
nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với một QHSX tương ứng.
Quan hệ sản xuất

Phương thức sản
xuất

Lực lượng sản xuất

Note: Mỗi phương thức sản xuất có hai mặt là lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, biều hiện mối quan hệ song trùng giữa con người với tự nhiên và giữa con
người với nhau trong quá trình sản xuất vật chất.
- Phương thức sản xuất có vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử xã
hội quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao
● LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất. Nó là thước đo năng lực thực tiễn của của con người trong quá trình sản xuất
ra của cải vật chất. LLSX gồm người lao động với sức khoẻ, trình độ, kỹ năng lao
động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Lực lượng sản xuất

Người lao động (có trí

tuệ, kinh nghiệm sản
xuất, kỹ năng lao
động….)

Tư liệu sản xuất

Tư liệu
lao động

Trí
lực

Thể
lực

Đối tượng
lao động

Các tư
liệu lđ
khác

Công cụ
lao động

15


sẵn
tự

nhiên

Đã
qua
chế
biến


+ Trong lực lượng sản xuất, yếu tố cơ bản nhất là con người - người lao động
với thể lực, học vấn, kinh nghiệm kỹ năng, trình độ lao động... Người lao động là chủ
thể đóng vai trò quyết định trong quá trình sản xuất, họ tạo ra của cải vật chất cho xã
hội (bao gồm: chất lượng lao động và số lượng lao động). V.I.Lênin đã nhấn mạnh:
“LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là người công nhân, là người lao động”.
+ Tư liệu sản xuất là những vật phẩm, yếu tố, điều kiện để con người tác động
vào đối tượng nhằm tạo ra sản phẩm. Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động giữ vai
trò quyết định công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với
quá trình tích luỹ kinh nghiệm, những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao
động không ngừng được cải tiến, hoàn thiện và sự phát triển của công cụ đã làm biến
đổi toàn bộ tư liệu sản xuất, quá trình sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa của mọi
biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế. trong sự
phát triển của LLSX, những tri thức khoa học đóng vai trò to lớn. Sự phát triển của tri
thức khoa học gắn liền với sản xuất và là một động lực mạnh mẽ thức đảy LLSX phát
triển.
Hỏi: Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ có vai trò gì đối với LLSX? Cần
hiểu luận điểm “ngày nay tri thức khoa học phổ biến ngày càng trở thành LLSX trực
tiếp của xã hội” ntn?
Đáp: Ngày nay tri thức khoa học phổ biến ngày càng trở thành LLSX trực tiếp của xã
hội. Thể hiện ở chỗ, tri thức khoa học đã thẩm thấu vào tất cả các quá trình sản xuất
vật chất (sản xuất và tái sản xuất) thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản

xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm làm ra.
● QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội.

QHSX

Quan hệ sở
hữu đối với
TLSX

Quan hệ trong
tổ chức và
quản lý sản
xuất16

Quan hệ trong
phân phối sản
phẩm lao động


* Vai trò, vị trí của từng mặt trong QHSX?
Ba mặt trong QSXH luôn gắn bó với nhau trong đó quan hệ sở hữu có ý nghĩa
quyết định đối với các quan hệ khác.
- Quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trưng
cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội và nó giữ vai trò quyết định với tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối sản phẩm.
- Quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất, có thể thúc đảy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Trong đó:
1. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có vai trò quyết định về mặt tổ chức,
quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể, do đó nó có khả

năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các
quá
Phương
thứctrình
sản xuấtkhách quan của sản xuất => biến dạng
quan hệ sở hữu.
Lực lượng sản xuất

Quan hệ sản xuất

Quyết định
2. Quan hệ phân phối có khả
năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con

người nên nó tác động đến tháI đọ của người lao động trong quá trình sản xuất. Do đó
Người lao động có

Các

Các

Các

hệ sở
hữu
đối
với tư
liệu
sản
xuất


hệ
trong
tổ
chức

quản
lý sản
xuất

trong
phân
phối sản
phẩm
lao
động

quan của xã
quan
hệ
trí tuệ,đẩy
kinh nghiệm
nó có thể thúc
hoặc kìm hãm sản xuất, cản trở quan
sự phát triển
hội.
sản xuất, kỹ năng
lao động

Tư liệu sản xuất


=> Tóm lại: Quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối có thể làm biến dạng
quan hệ sở hữu, cản trở sự phát triển của xã hội.
Tư liệu

Đối

động

lao
động

lao của PTSX
tượngcó tính chất ổn định tương đối so với sự phát
- QHSX là hình thức xã hội

triển không ngừng của LLSX.

- Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở
Công cụ lao

Các tư liệu lao động

hữu tư nhân thì quanđộng
hệ giữa người khác
với người là quan hệ bóc lột và bị bóc lột, còn sở
hữu công cộng thì quan hệ là bình đẳng vì TLSX thuộc về thành viên trong cộng
đồng.

Tác động trở lại


● Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất vàKìmquan
hệ sản xuất
hãm (Khi QHSX không phù
Thúc đẩy (Khi QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX)

“Xiềng xích”

hợp mâu thuẫn với trình độ phát
triển của LLSX)

Cách mạng xã hội

Phương thức sản xuất mới

17

Lực lượng sản
xuất mới

Quan hệ sản xuất
mới


Thứ nhất, về trình độ của LLSX.
- Trình độ của LLSX biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động; trình độ kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người; trình độ tổ chức và phân công lao động
xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất… ứng với trình độ của lực lượng
sản xuất là tính chất của nó.

- Tính chất của LLSX là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động.
Ví dụ: Khi trình độ của lực lượng sản xuất là thủ công thì tính chất của nó là
tính cá nhân được biểu hiện khi người lao động sản xuất = những công cụ thủ công
và trong quá trình lao động riêng lẻ để tạo ra sản phẩm của cá nhân.
Khi trình độ của lực lượng sản xuất là cơ khí, hiện đại thì tính chất của nó là tính xã
hội hóa biểu hiện khi người lao động sản xuất = máy móc đòi hỏi nhiều người cùng
tham gia trong quá trình lao động để tạo ra 1 sản phẩm
Ví dụ: công cụ l.động hiện đại → trình độ l.động của con người thấp → con
người ko sử dụng được công cụ l.động
Thứ hai, về vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX.
Trong PTSX, LLSX là nội dung, QHSX là hình thức của nền sản xuất xã hội.
♦ LLSX có vai trò quyết định đối với QHSX (quyết định sự phân công lao động xã
hội, do đó quyết định quan hệ sở hữu giữa các tập đoàn người khác nhau, từ đó quyết
định quan hệ tổ chức lao động và phân phối sản phẩm). Biểu hiện:
- LLSX ở trình độ nào phải có một QHSX ở trình độ tương ứng.
- Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định sự thay đổi của QHSX cho
phù hợp với nó.
♦ LLSX quyết định cả những quan hệ xã hội khác (quan hệ giai cấp, dân tộc; các
quan hệ chính trị, pháp quyền, tư tưởng, đạo đức, tôn giáo, gia đình…)
♦ LLSX và QHSX là hai mặt đối lập, trong đó LLSX là yếu tố cách mạng, luôn luôn
biến động (công cụ lao động luôn được cải tiến, trình độ của người lao động không
ngừng được nâng cao); QHSX lại là yếu tố tương đối ổn dịnh. Điều này sẽ dẫn tới
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đòi hỏi phải thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất. Sự thay đổi này có thể diễn ra theo hai
cách:
1. Cải tạo QHSX (như ở VN hiện nay)
18


2. Thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới (khi chuyển từ PTSX này sang PTSX

khác). Trong xã hội có đối kháng giai cấp sự thay thế này phải được tiến hành bằng
cuộc đấu tranh giai cấp
Ví dụ 1: Thời kỳ TBCN: - TB tự do cạnh tranh: sh tư nhân về TLSX, qh tổ
chức quản lý thấp, phân phối ko phù hợp => ko phù hợp với trình độ phát triển của
llsx =>
TB độc quyền
Ví dụ 2: XH N.Thuỷ: LLSX ở trình độ thấp công cụ lao động = đá đẽo gọt
thô sơ, năng suất lao động thấp, cuộc sống bày đàn. Tương ứng với nó là quan hệ sản
xuất công hữu, chế độ phân phối bình quân
Khi công cụ lao động = kim loại ra đời năng suất lao động tăng, cuộc sống bày
đàn với chế độ công hữu ko còn phù hợp. Gia đình và chế độ tư hữu x.hiện thay thế
cho QHSX cũ
Thứ ba, về sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất nên nó có tính
độc lập tương đối, có thể tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất theo hai chiều
hướng:
♦ QHSX phù hợp, thích ứng với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy
LLSX phát triển. Thể hiện tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ
cho LLSx phát triển, tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao
động với tư liệu sản xuất => LLSX có thể phát triển hết khả năng của nó.
Ví dụ: + nhà tư bản trả lương cao cho người l.động => người lao động tích
cực, chủ động, sáng tạo hơn trong quá trình lao động
+ nhà tư bản đưa ra hình thức phân công l.động tốt và ứng dụng các
thành tựu KHKT => năng suất l.động cao
♦ QHSX không phù hợp, không thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất sẽ trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự không phù hợp này có thể diễn ra theo hai chiều hướng:
1. QHSX lỗi thời, lạc hậu hơn so với LLSX (thường vào cuối giai đoạn của
một phương thức sản xuất)
19



Ví dụ: XH N.Thuỷ: quan hệ sản xuất công hữu, chế độ phân phối bình quân là
phù hợp với LLSX ở trình độ thấp. Nó có tác dụng bảo vệ LLSX, giúp cho xã hội loài
người có thể tồn tại và phát triển. Nhưng khi LLSX phát triển, xã hội đã có sản phẩm
thặng dư tối thiểu thì QHSX đó ko còn phù hợp nữa => QHSX tư hữu ra đời.
2. QHSX “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của LLSX
(như ở VN trước đây).
Ví dụ: thời kỳ bao cấp ở nước ta => người làm nhiều, ít được hưởng như nhau
=> người l.động xa lánh TLSX, thờ ơ với kế hoạch sx tập thể (QHSX chưa phù hợp
với trình đọ thấp của LLSX). Khi chuyển sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế => góp phần phát triển LLSX, tăng trưởng kinh tế.
Note: • Nhưng sự kìm hãm chỉ là tạm thời trong một giới hạn nhất định theo
qui luật chung khi QHSX kìm hãm LLSX thì tất yếu nó sẽ phải thay thế bằng một
QHSX mới phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, việc giải
quyết mâu thuẫn đó không giản đơn mà phải thông qua nhận thức và hoạt động thực
tiễn cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, để giải quyết
mâu thuẫn đó phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
• Một trong những tiêu chí quan trọng của sự phù hợp (không phù hợp) là
NSLĐ bởi suy cho cùng nó là cái quyết định trật tự XH.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến,
tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế và phát triển các chế
độ xã hội là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật trên là
quy luật có bản nhất.
b. Mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị. Được khái quát từ phạm
trù cơ sở hạ tầng (CSHT), kiến trúc thượng tầng (KTTT) và quy luật CSHT quyết
định KTTT.
Thứ nhất, về cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định.
- Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm:

+ QHSX thống trị.
+ QHSX tàn dư.
+ QHSX mầm mống.
20


Trong đó QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan
hệ sản xuất khác, nó qui định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội, nói lên
đặc trưng của CSHT đó. Tuy nhiên ở giai đoạn mới hình thành or giai đoạn cuối của
mỗi hình thái kinh tế - xã hội, QHSX tàn dư và QHSX mầm mống lại giữ một vai trò
đáng kể
Thứ hai, về kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với những thiết chế xã hội
tương ứng như Nhà nước, Đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình
thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm, qui luật phát triển riêng,
nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều được xây dựng trên một cơ sở hạ
tầng tương ứng. Chúng có thể tác động trực tiếp (chính trị, pháp luật) hoặc gián tiếp
(nghệ thuật, khoa học) đến cơ sở hạ tầng.
- Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Trong đó,
Nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị, bộ phận có quyền lực nhất, có vai trò đặc
biệt quan trọng và sức mạnh lớn nhất.
Thứ ba, về quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
Một là: CSHT quyết định KTTT.
- Mỗi CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó. Tính chất của
KTTT là do tính chất của CSHT quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
thống trị về mặt kinh tế thì cũng thống trị về mặt chính trị và tinh thần của xã hội.
Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư
tưởng.
Ví dụ: Trong XHPK, CSHT là của giai cấp phong kiến. Vì vậy nhà nước, pháp

luật, đạo đức là của giai cấp này. Những cuộc đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ nguyên
nhân sâu xa là mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế.
- Khi CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng thay đổi theo. Điều này có
thể diễn ra trong một HTKT-XH và đặc biệt rõ rệt trong việc chuyển từ HTKT-XH
này sang HTKT-XH khác

21


Ví dụ 1: Khi V.Nam chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì một
số vấn đề về đường lối, chính sách, pháp luật, quan điểm về đạo đức, văn học nghệ
thuật cũng phải thay đổi
Ví dụ 2: Khi CSHT của giai cấp địa chủ phong kiến chuyển sang CSHT của
giai cấp tư sản nhà nước, pháp luật cũng là của giai cấp tư sản
- Sự thay đổi CSHT dẫn đến làm thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp; có yếu tố
thay đổi nhanh chóng như chính trị, pháp luật, có yếu tố thay đổi chậm chạp như đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật. Cũng có những yếu tố tích cực được kế thừa để xây dựng
xã hội mới (ex: Một số quan niệm tích cực trong đạo đức Nho gia).
Note: Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng có nguyên nhân gián tiếp từ sự
thay đổi của LLSX.
Hai là: Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT.
- KTTT có chức năng xã hội cơ bản là xây dựng, bảo vệ và phát triển CSHT đã
sinh ra nó, đấu tranh chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế
đó. Sự tác động này diễn ra theo hai chiều hướng:
+ Nếu KTTT tác động phù hợp với qui luật kinh tế khách quan thì nó là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Nếu KTTT tác động không phù hợp với qui luật kinh tế khách quan thì nó sẽ
kìm hãm sự phát triển của kinh tế, phát triển xã hội.
Ví dụ: Khi XHPK đang trong giai đoạn hưng thịnh thì tác động của nhà nước,
luật pháp PK tới CSHT góp phần quan trọng trong việc củng cố kinh tế xã hội.

Nhưng khi XHPK suy tàn thì việc níu kéo, bảo vệ chế độ phát canh thu tô của nhà
nước PK lại cản trở phát triển kinh tế xã hội
- Các yếu tố cấu thành KTTT tác động đến CSHT với cách thức và vai trò khác
nhau. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với
CSHT vì nhà nước nắm trong tay quyền lực về kinh tế, là bộ máy bạo lực tập trung
của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của KTTT muốn tác động đến
CSHT đều phải chịu sự chi phối của nhà nước.
Note: Sự độc lập của KTTT chỉ mang tính tương đối, xét đến cùng nó vẫn chịu
sự chi phối của nhân tố kinh tế.
c. Lĩnh vực xã hội.
22


Lĩnh vực xã hội có các phạm trù giai cấp, đấu tranh giai cấp, kết cấu giai cấp.
Sự phận chia giai cấp là do vị trí các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội
quy định, và đến lượt nó giai cấp thống trị trong kinh tế lại quy định lĩnh vực chính trị
xã hội. Đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp đối kháng là một trong những động
lực của sự phát triển xã hội. (Sẽ nghiên cứu kỹ trong chuyên đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp)
d. Lĩnh vực tinh thần.
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được nghiên cứu trong mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, các cấp
độ của ý thức xã hội và vai trò ngày càng lớn ngày càng lớn trong quá trình pahts
triển xã hội. (Nghiên cứu kỹ trong chuyên đề ý thức xã hội)
Từ việc phân tích làm rõ cấu trúc xã hội, ta có thể thấy HTKT-XH là một phạm
trù chỉ một kiểu hệ thống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, có tính
xác định về chất, là sự thống nhất giữa tất cả các yếu tố, một cơ cấu hoàn chỉnh, luôn
luôn vận động và phát triển thông qua sự tác động biện chứng giũa LLSX và QHSX,
giữa CSHT và KTTT.
2.3. Kết luận:

Phạm trù HTKT-XH đạt có sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học để
nghiên cứu tất cả cá mặt của xã hội. Phạm trù đó chẳng những chỉ ra bản chất của
một xã hội cụ thể, phận biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy
tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất và sinh hoạt xã hội ở những xã hội khác nhau. Như thế, phạm trù hình thái KTXH cho phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hình và mặt lịch sử.
- Về mặt loại hình: Nó xem xét đời sống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch
sử nhất định, coi xã hội như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định, đang vận
động trong chính hình thái ấy.
- Về mặt lịch sử: Nó xem xét sự hình thành của một HTKT-XH nhất định,
nghiên cứu hình thái ấy trong sự vận động, bước quá độ, sự chuyển tiếp, sự thay thế
bởi một HTKT-XH cao hơn.

23


3. Vai trò phương pháp luận của phạm trù HTKTXH. Lý luận và thực tế. Lôgíc và
lịch sử.
* Phạm trù HTKT-XH là mô hình lý luận về xã hội, đồng thời phản ánh cái
lôgíc của lịch sử nhân loại.
+ Giữa lý luận và thực tế không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Thực tế là tất cả
những gì đang diễn ra trong hiện thực với những chi tiết, đặc điểm, trạng thái mang
tính phong phú, nhiều vẻ của nó. Lý luận là nhận thức trừu tượng, khái quát về bản
chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thực tế. Lý luận chỉ tập trung phản
ánh cái bản chất, cái mang tính quy luật của thực tế, vì vậy lý luận bao giờ cũng sâu
sắc hơn, chính xác hươn và có hệ thống hơn.
Gần giống như vậy, phạm trù lịch sử và lôgíc cũng không đồng nhất với nhau
- Phạm trù lịch sử chỉ toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của
một sự vật. Đặc điểm của lịch sử loài người là nó diễn ra theo một trật tự thời gian,
với những biểu hiện cụ thể, nhiều hình nhiều vẻ, trong đó không chỉ có cái bản chất,
cái tất nhiên mà còn có cả cái không bản chất, cái ngẫu nhiên, cả những bước quanh

co của sự phát triển.
- Phạm trù lôgíc là sự tái tạo tạo dưới dạng hình ảnh tinh thần về lịch sử. Nó
không sao chép nguyên xi lịch sử mà nắm bắt cái bản chất của lịch sử, vạch ra quy
luật phát triển của lịch sử, tước bỏ những cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất
của lịch sử và tái hiện lại lôgíc khách quan của lịch sử.
+ Phạm trù HTKT-XH, với tư cách là cái lôgíc, là mô hình lý luận về lịch sử,
không sao chép máy móc giản đơn lịch sử mà là sự phản ánh rút gọn và sáng tạo đối
với lịch sử. Vì vậy mà phạm trù HTKT-XH - mô hình lý thuyết (sơ đồ lý thuyết) về
xã hội và hiện tực xã hội là không đồng nhất với nhau.
Trong thực tế các sự kiện lịch sử diễn ra mang tính không lặp lại, hết sức
phong phú, các yếu tố vật chất và tinh thần, kinh tế và chính trị thường xuyên tác
động qua lại lẫn nhau. Phạm trù HTKT-XH chỉ phản ánh cái bản chất, những mối
liên hệ bên trong, tất yếu lặp đi lặp lại của các hiện tượng ấy; từ tính đa dạng của lịch
sử, nó bỏ qua các chi tiết cá biệt, ngẫu nhiên, dựng lại cấu trúc ổn định và lôgíc phát
triển của quá trình lịch sử.

24


* Phạm trù HTKT-XH đã đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất
phát để nghiên cứu về xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, không đi vào
các chi tiết, vượt ra khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra
cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cái lôgíc bên trong của
tính nhiều vẻ của lịch sử. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu về xã hội cần
phải nắm chắc mô hình lý luận chung, từ đó phải chú ý ró hơn tới các khía cạnh:
+ “Đời sống xã hội, về thực chất, có tính chất thực tiễn” và hình thức chủ yếu
trong cấu trúc của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất của con người. Nhân tố
quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sản xuất vật chất. Xuất phát từ sự phat triển
của LLSX và QHSX, thông qua quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát
triển của LLSX mà nền sản xuất không ngừng phát triển, và sự phát triển của SXVC

mà thúc đảy mọi mặt đời sống xã hội phát triển lên trình độ cao hơn. Đó là lôgíc của
sự phát triển của lịch sử. Ph.Ăngghen đã viết: “Théo quan điểm DV về lịch sử, nhân
tố quyết định trong lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện
thực. Cả Mác và tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn. Nếu như có ai xuyên tạc câu đó
khiến cho nó có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là duy nhất quyết định, thì họ đã biến
câu đó thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”.
Các nhân tố khác của xã hội cũng đều có quá trình ảnh hưởng tới quá trình lịch
sử. Tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể mà có thể xuất hiện sự phát triển vượt trội của
một nhân tố nào đó, thúc đảy các yếu tố khác, trước hết là SXVC phát triển theo, phá
vỡ tính cân bằng của hệ thống cũ và thiết lập trạng thái cân bằng mới cao hơn. Tiến
trình lịch sử thì luôn xuất hiện các nhân tố mới đóng vai trò là động lực thúc đảy lịch
sử phát triển mạnh mẽ như cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay.
+ Trong quá trình phát triển của các hình thái KT-XH, hình thái mới ra dời
không xóa bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống
cũ lại có sự bảo tồn, kế thừa, đổi mới những yếu tố của nó. Điều đó vừa đảm bảo sự
liên tục , sự phát triển lại vừa tạo ra tình trạng đan xen giữa những yếu tố của nhiều
hình thái xã hội khác nhau, nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau trong một giai đoạn cụ
thể.
+ Sự phát triển của các HTKT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên. Quy luật
chung của lịch sủ là các quốc gia, dân tộc luôn luôn phát triển từ hình thái thấp đến
25


×