Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Một số vấn đề về thanh tra và tổ chức, hoạt động thanh tra trong tình hình hiện nay PGS TS nguyễn văn tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.16 KB, 62 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THANH TRA VÀ TỔ
CHỨC, HOẠT ĐỘNG THANH TRA TRONG
TÌNH HÌNH HIỆN NAY
PGS.TS NGUYỄN VĂN THÂM
Học viện Hành chính Quốc gia

1


1. Một vài định nghĩa quan trọng
Để giải quyết những vấn đề phức tạp của công tác thanh tra hiện nay, tôi
cho rằng cần phải xuất phát từ một số khái niệm cơ bản, xác định nội hàm của
một số định nghĩa quan trọng mà mới thoạt nhìn mọi người đều có thể cho là
đơn giản. Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, nhiều khi một định nghĩa đơn giản
nhưng lại có nhiều cách giải thích và vận dụng. Thậm chí, có khi một đối tượng
lại có nhiều định nghĩa khác nhau.
1.1 Khái niệm thanh tra
Trong cuốn sách “thuật ngữ pháp lý phổ thông” do Nhà xuất bản Pháp lý
in năm 1986, định nghĩa thanh tra được xem là một biện pháp (phương pháp)
của kiểm tra. Nhiệm vụ thanh tra được uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm.
Như vậy, thanh tra hẹp hơn kiểm tra. Thanh tra gắn liền với chức năng
pháp lý trong quản lý nhà nước. Nhiệm vụ của thanh tra cũng là kiểm tra nhưng
chỉ kiểm tra quyền sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể có được thực hiện đúng, có
được bảo vệ hay không, thẩm tra tính hợp pháp của các hoạt động kinh tế, tài
chính, tính chính xác của các báo cáo thống kê của việc thanh lý tài sản tập
thể…
Theo quan niệm như vậy, ngoài thanh tra chung còn có Thanh tra chuyên
ngành mà nhiệm vụ của nó là giám sát về mặt nhà nước việc thực hiện các
nhiệm vụ quản lý đã được giao cho một cơ quan chuyên môn, một tổ chức quản
lý nhất định. Ví dụ, thanh tra việc tổ chức và quản lý đất đai, bảo vệ môi trường,


bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và sự an toàn trong lao động… Đây là một chức năng
quan trọng của Thanh tra mà không một cơ quan nào của bộ máy quản lý nhà
nước có thể thay thế được một cách đầy đủ. Theo chức năng này, Thanh tra của
các cơ quan chuyên môn có quyền đòi hỏi các đơn vị chức năng trong các lĩnh
vực quản lý trình bày những điều cần thiết nhằm đảm bảo cho việc thực hiện
các nhiệm vụ chuyên môn có hiệu quả và an toàn, hợp pháp, bảo đảm được mục
tiêu của quản lý nhà nước.
Để làm được nhiệm vụ, Thanh tra có thể dựa vào bộ máy chuyên môn của
mình và dựa vào quần chúng. Cơ quan Thanh tra có trách nhiệm xem xét các
đơn thứ khiếu nại, tố cáo để tìm kiếm những biện pháp giải quyết thoả đáng.
Các biện pháp này ở nước ta đã được ghi rõ trong Pháp lệnh thanh tra do Hội
đồng Nhà nước ban hành ngày 1/4/1990. Thanh tra có mục tiêu quan trọng là
góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với bộ máy quản lý nhà nước, đề
cao phép nước để quản lý nhà nước đi vào kỷ cương hơn.
1.2 Khái niệm kiểm tra
Kiểm tra vốn là chức năng của mọi người quản lý, không phân biệt họ
làm việc ở cấp nàô trong bộ máy quản lý nói chung và trong bộ máy quản lý
nhà nước nói riêng. Dĩ nhiên là ở các cấp bậc khác nhau thì quy mô kiểm tra
cũng khác nhau và kiểm tra cũng có những yêu cầu khác nhau.
Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức nhất định và thông
thường theo một số hướng chủ yếu sau đây:
2


- Theo dõi để cho hoạt động của tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ và sự phân công giữa các đơn vị.
- Quan sát để bảo đảm rằng nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực
hiện, phù hợp với thực tế không. Hướng dẫn và điều chỉnh kịp thời để đảm bảo
hiệu suất công việc của từng đơn vị.
- Kiểm tra kết quả cuối cùng, đánh giá hiệu quả thực tế của các hoạt động

theo kế hoạch đặt ra.
Về mặt quản lý chung, kiểm tra hướng tới việc xem xét tính hợp lý hay
không hợp lý của một chương trình công tác đã vạch ra, khả năng thực hiện
trong thực tế .
Nếu là cơ quan chuyên môn, kiểm tra sẽ hướng tới các tiêu chuẩn, các
định mức nêu ra cho các loại công việc, các phương tiện được sử dụng, nguồn
tài chính, con người…
Trong quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra có một mục tiêu quan trọng
là tìm kiếm động cơ thúc đẩy cán bộ làm tốt (hay không làm tốt) nhiệm vụ được
giao. Một sự kiểm tra như vậy có thể được thực hiện trong nội bộ của bộ máy
hành chính nhưng cũng có thể ở ngoài hệ thống đó mà người ta gọi là kiểm soát
ngoại lai, ví như kiểm soát từ phía tư pháp, kiểm soát chính trị…
Kiểm tra trong quản lý còn gắn liền với tìm ra những điển hình tiên tiến
trong thực thi nhiệm vụ. Những điển hình tiên tiến thường gắn với ý thức trách
nhiệm cao về nhiệm vụ, điều mà kiểm tra phải làm sáng tỏ để nêu lên thành bài
học về động cơ hành động trong một tổ chức sao cho tổ chức phát triển bền
vững.
Như vậy, kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, do tính chất này mà
chúng ta không thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có
những người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ của tổ chức chuyên trách tham
gia vào hoạt động kiểm tra công việc. Điều hết sức quan trọng là phải thiết lập
được hệ thống tự kiểm tra và một nê nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức
và giữa các đơn vị. Cơ sở của kiểm tra là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhân tố
chủ quan và khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng
một công việc. Nếu sự khác biệt đó mang tính bất thường thì kiểm tra sẽ mang
màu sắc thanh tra. Khi đó có thể sẽ cần đến sự tham gia của tổ chức Thanh tra
vào hoạt động kiểm tra.
Để kiểm tra, người ta cần phải xây dựng các tiêu chuẩn, cần đo lượng
công việc và cuối cùng đều phải có sự điều chỉnh các tiêu chuẩn cho phù hợp
với nhiệm vụ, kế hoạch đặt ra. Quá trình đó diễn ra mọi nơi và cho mọi đối

tượng. Do vậy, các nhà quản lý còn gọi kiểm tra là một hệ thống liên hệ ngược.
Nó được hiểu như một hệ thống phản hồi.
Trong quản lý nhà nước, khi nói đến kiểm tra chúng ta còn phair nói đến
kiểm tra nhà nước (hay kiểm tra mang tính nhà nước). Đó là việc kiểm tra chấp
hành kỷ luật nhà nước, kỷ luật lao động, pháp chế và trật tự xã hội của các viên
chức nhà nước, của những người có chức vụ, thành viên của các tổ chức xã hội
và của công dân.
3


1.3 Khái niệm kiểm sát
Trước hết cần nhấn mạnh rằng đó là một khái niệm gắn liền với việc giữ
quyền công tố trước Toà án của người đại diện cơ quan Kiểm sát (Kiểm sát
viên). Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu các chứng cứ, các kết luận trong xét
xử, trình bày quan điểm của cơ quan Kiểm sát về việc áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự và hình phạt đối với bị cáo, có quyền khởi tố hoặc truy tố các
vụ án nếu thấy cần thiết để bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và các
quyền công dân.
2. Thanh tra trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức
kinh tế - xã hội hiện nay
2.1 Những ưu điểm và nhược điểm của cơ cấu thanh tra hiện nay ở nước
ta
Chúng ta cho rằng, ưu điểm lớn nhất của hệ thống Thanh tra cảu chúng ta
hiện nay là tương đối hoàn chỉnh và hoạt động rộng khắp. Chúng ta có Thanh
tra nhà nước, Thanh tra chuyên ngành (tài chính, lao động, giáo dục, y tế...).
Cùng với Thanh tra chuyên trách, chúng ta còn Thanh tra nhân dân. Ngoài ra,
còn có những tổ chức, viên chức tuy không mang danh nghĩa là cán bộ thanh tra
nhưng cũng có hoạt động thanh tra do một số yêu cầu thực tế hoặc do một chức
năng được phân định chưa rõ ràng (ví dụ thanh tra đoàn thể).
Trước hết, đó là sự phân công trong nội bộ ngành Thanh tra hoặc là thiếu

rõ ràng hoặc không được tuân thủ. Có những vụ việc thì nhiều đơn vị của ngành
Thanh tra cùng đến xem xét, nhưng cũng có những vụ lại bị bỏ trống. Ví dụ:
nếu có một vụ việc như vi phạm việc sử dụng đất trong một cơ quan thì Thanh
tra thuộc hệ thống nào có nhiệm vụ xem xét? Thanh tra chuyên ngành hay
Thanh tra của các cơ quan chủ quản? Nếu có vụ vi phạm về chi tiêu tài chính
trong ngành Giáo dục thì trách nhiệm của Thanh tra tài chính đến đâu, của
Thanh tra Giáo dục đến đâu? Nếu chương trình đã thông qua không được đảm
bảo khi thực thi (ví dụ chương trình giảng dạy trong giáo dục) thì Thanh tra
Giáo dục có thẩm quyền đến đâu đối với thầy giáo? Được biết, Thanh tra Giáo
dục hiện nay cũng chỉ mới quan tâm đến một số việc về tài chính, xây dựng của
ngành Giáo dục.
Còn Thanh tra Văn hoá, Thanh tra Lao động? Đã có trường hợp Thanh tra
Lao động yêu cầu quản lý các thiết bị liên quan đến an toàn lao động nhưng hầu
hết các cơ quan có loại thiết bị này đều phản đối vì cho rằng đó không phải là
nhiệm vụ của Thanh tra Lao động, mà là nhiệm vụ của cơ quan quản lý chuyên
môn, nghiệp vụ. Ở đây có vấn đề phân chia đối tượng thanh tra và sự hợp tác
giữa các tổ chức Thanh tra như thế nào để không có tình trạng “khoanh
vùng”máy móc, nhưng cũng không “lấn sân” tuỳ tiện hoặc bỏ rơi các vùng khó
khăn.
Tồn tại thứ hai rất đáng quan tâm hiện nay là quan hệ giữa Thanh tra và
các hoạt động quản lý nhà nước khác, quan hệ giữa Thanh tra và các cơ quan
bảo vệ pháp luật của chúng ta, đặc biệt là với cơ quan Kiểm sát cũng còn chưa
có sự phân định rõ ràng. Sự hợp tác giữa các cơ quan này là tất yếu, nhưng hợp
4


tác và phân công trách nhiệm là hai vấn đề khác nhau. Không thể không có một
sự quy định về mặt chức năng đối với một sự việc, một vấn đề cần xem xét dưới
góc độ pháp lý. Cũng nên nói rằng, về mặt văn bản, thì dường như đã có sự rõ
ràng giữa chức năgn kiểm sát và thanh tra. Nhưng đó chỉ là những quy định

trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh thanh tra. Vấn đề là ở chỗ
cụ thể hoá các quy định đó trong thực tế. Ví dụ, cần hiểu như thế nào sự khác
nhau giữa kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) với nhiệm vụ
thanh tra việc thi hành các chế độ, chính sách pháp luật của Nhà nước? Trên
thực tế đã cso sự trùng lặp. Rất rễ phát hiện ra sự trùng lặp này khi khảo sát khối
hồ sơ lưu trữ công việc cảu hai ngành Kiểm sát và Thanh tra mà chúng tôi đã
có dịp thực hiện. Về mối quan hệ này cần lưu ý rằng có quan hệ về mặt pháp lý
và cũng có quan hệ mang tính thực tế; có quan hệ vật chất và cũng có quan hệ
phi vật chất mà cả hai bên đều cùng phải quan tâm. Ngoài ra, còn nhiều mối
quan hệ khác mà chúng ta rõ ràng chưa quan tâm đầy đủ. Khi càng có nhiều
đơn vị, nhiều tổ chức tham gia vào xem xét một đối tượng thì quan hệ càng
phức tạp và khi đó việc phân định rõ chức năng của mỗi loại quan hệ là vô cùng
cần thiết. Khó khăn là ở chỗ quan hệ đó cần quy định như thế nào để không
cứng nhắc, để có sự uyển chuyển khi đưa ra một biện pháp giải quyết thực tế.
Tồn tại thứ ba là cơ sở nghiệp vụ chuyên ngành, cơ sở thông tin và
phương pháp xử lý thông tin. Đã có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này dưới
nhiều cách nhìn khác nhau. Tựu chung, đây là một tồn tại có tính lịch sử. Cán
bộ thanh tra của chúng ta là những người có kinh nghiệm, thường được lựa chọn
từ các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, phải công nhận rằng trình độ nghiệp vụ
thanh tra của họ rất khác nhau. Nhiều người làm việc theo kinh nghiệm nghề
nghiệp cũ hơn là theo nghiệp vụ thanh tra được huấn luyện. Còn các nguồn
thông tin cần có để xem xét các vấn đề đơn giản. Có nhiều lý do khác nhau, vì
các hệ thống văn bản quản lý nhiều nơi chưa được hoàn thiện; vì trình độ nhận
thức pháp lý của không ít người còn hạn chế nên việc khai thác thông tin khó
chuẩn mực... Chính vì vậy, nhiều cuộc thanh tra đã không có được kết luận thoả
đáng. Cũng có khi thông tin không thiếu, nhưng kỹ thuật xử lý thông tin sai vì
các lý do khác nhau của một cuộc thanh tra cũng gây nên khó khăn. Trong thời
gian qua, khó khăn thuộc loại này là rất lớn, do cơ chế xử lý thông tin thiếu
khách quan của chúng ta.
2.2 Hoạt động thanh tra nhà nước như một yêu cầu tất yếu khách quan

trong quản lý nhà nước, là điều hoàn toàn có thể khẳng định. Sự khẳng định đó
không phải là võ đoán mà có đầy đủ căn cứ khoa học.
Trước hết, như chúng ta đều biết, hoạt động quản lý và quản lý nhà nước
luôn luôn gắn liền một cách khách quan với công tác kiểm tra. Khi xem thanh
tra như một loại hình kiểm tra tức là chúng ta đã xác định tính tất yếu của nó.
Đó là nhiệm vụ chấn chỉnh quá trình quản lý để đảm bảo rằng các mục tiêu của
quản lý sẽ được hoàn thành tốt, có hiệu quả đảm bảo giữ gìn được kỷ cương
phép n ước. Điều chỉnh các sai lệch chính là chức năng mà qua đó thanh tra
được thấy rõ như là một đầu mối mà qua đó các chức năng khác của quản lý nhà
5


nước có thể được nối lại với nhau. Chẳng hạn, nếu thanh tra phát hiện được rằng
do cán bộ của cơ quan quản lý nhà nước thiếu trách nhiệm mà một quyết đinhjj
không được thực hiện thì việc xem xét hình thức xử lý đối với các cán bộ đó là
điều hoàn toàn hợp lý. Nhưng nếu vì các điều kiện để đảm bảo cho quyết định
không đầy đủ mà dẫn đến hậu quả không tốt thì việc khiển trách hay bất cứ một
hình thức xử lý kỷ luật nào đối với cán bộ sau thanh tra cũng là không hợp lý.
Như thế, thanh tra chính là điều kiện để hoạt động quản lý có thể thực hiện chức
năng tự điều chỉnh cần thiết.
Thứ hai, tính tất yếu của thanh tra đối với quản lý còn thể hiện ở chỗ nó
làm cho hoạt động quản lý luôn luôn có khả năng thích hợp với những biến đổi
của đối tượng và môi trường quản lý. Sự biến đổi của môi trường và của đối
tượng quản lý luôn luôn làm cho hoạt động quản lý có xu thế bị quan liêu hoá
và rất rễ có sự lệch hướng. Muốn khắc phục xu thế đó, cần có sự kiểm tra, thanh
tra. Hồ Chủ tịch, khi nhắc nhở cán bộ quản lý, đã có lần nói: “Muốn chống bệnh
quan liêu, bệnh giấy tờ; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không,
muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”.
Trong điều kiện hiện nay, khi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với nền kinh tế có
nhiều thanh phần ngày càng trở nên phức tạp thì việc thanh tra, kiểm tra càng

không thể tách rời nhiệm vụ quản lý nhà nước. Tổ chức tốt công tác thanh tra
còn là điều kiện để người lãnh đạo có thể ngăn ngừa được những sai lầm trong
chỉ đạo công việc. Không làm tốt công tác thanh tra thì ý thức thường trực để
tránh các sai lầm dần dần có thể mất. Các sai lầm trong quản lý sẽ ngày càng
nhiều lên và trầm trọng thêm. Điều đó đã được thực tế chững minh không chỉ
một lần.
Thứ ba, tanh tra còn là phương pháp mà qua đó bộ máy quản lý nhà nước
có thể toạ điều kiện cho mọi người, kể cả những người lao động ở các cơ sở, các
cán bộ thừa hành thực sự có thể tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Nếu
chúng ta đang cố gắng tìm kiếm những phương thức hữu hiệu để đảm bảo nhân
dân tham gia có hiệu quả vào quản lý nhà nước, thì một trong những phương
thức là sử dụng tốt hệ thống Thanh tra nhân dân nói riêng và hệ thống Thanh tra
nói chung. Thực tế vừa qua cho thấy, ở nơi nào, ngành nào mà công tác thanh
tra được làm tốt thì ở đó cán bộ, nhân dân đều phấn khởi và sãn sàng đóng góp
ý kiến để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý. Trái lại, ở những
nơi không quan tâm đúng mức đến hoạt động thanh tra hoặc cán bộ thanh tra
không làm tốt nhiệm vụ của mình thì sự cách biệt giữa cán bộ quản lý và cơ sở,
bệnh quan liêu ngày càng phát triển. Vấn đề này đã có nhiều bài viết của cán bộ
trong và ngoài ngành Thanh tra đề cập đến.
Cuối cùng, thanh tra là một động cơ để một mặt vừa đòi hỏi trách nhiệm
của cán bộ quản lý, nhưng mặt khác sẽ giúp hoạt động năng động sáng tạo hơn,
tin tưởng hơn ở chính minhhf. Xét cho cùng, đây là một hoạt động có tính tương
hỗ hai mặt.
Tóm lại, có thể nói, tính tất yếu của hoạt thanh tra trong quản lý nhà nước
được thể hiện ở chỗ nó là bộ phận, một khâu của quá trình quản lý. Nếu xét về
6


nội dung của hoạt động thanh tra thì đó là một chức năng quan trọng của bộ
máy quản lý có vai trò điều chỉnh, kiểm tra, mở rộng và thúc đẩy hoạt động của

bộ máy quản lý trong bất cứ giai đoạn nào. Xem nhẹ thanh tra trong trường hợp
nào cũng đều là biểu hiện của xem nhẹ quản lý, buông lỏng quản lý. Còn hậu
của buông quản lý thì mọi người đều đã rõ, đó là căn bệnh mà chúng ta đang
phải kiên quyết chống lại, loại trừ. Thanh tra không đứng ngoài mà đứng trong
quản lý, cùng phát triển với quản lý. Quản lý càng phát triển thì thanh tra cũng
phát triển theo. Cần nói thêm rằng, trong nền hành chính phát triển, dưới nhiều
cách gọi khác nhau, các nhà hành chính học trên thế giới đều quan niệm thanh
tra, kiểm tra là bộ phận tất yếu phát triển tương ứng. Rất khó có thể hình dung
một nền hành chính phát triển mà không có một cơ chế hoạt động thanh tra để
bảo đảm được tính bền vững của nó.
3. Về một số yêu cầu của công tác thanh tra trong điều kiện mới
Về điều này, có lẽ chúng ta còn phải bàn nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ xin
nêu một số suy nghĩ ban đầu qua nghiên cứu hoạt động của bộ máy quản lý nhà
nước trong giai đoạn mới.
3.1 Mục tiêu của nền hành chính mới được đặt ra trước hết là nhằm điều
hành vĩ mô nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đi theo đó, yêu cầu quan trọng của thanh tra trong quản lý nhà
nước sẽ không phải là đánh giá các nhà quản lý theo tư cách cá nhân, mà là
nhằm xem xét hoạt động của cơ chế mới, của quá trình vận dụng nó vào đời
sống thực tiễn. Trên cơ sở đó mà xem xét trách nhiệm điều hành nhằm xác định
rõ yêu cầu của các bộ phận khi thực hiện các nhiệm vụ được giao. Dĩ nhiên,
trong trách nhiệm này, có cả trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân các nhà
quản lý. Nó khác với yêu cầu của thanh tra tác nghiệp trong sản xuất. Yêu cầu
quan trọng của thanh tra quản lý nhà nước là yêu cầu về sự hoàn thiện cơ chế
mới trên cơ sở pháp luật hiện hành. Nếu nắm vững yêu cầu này thì có lẽ đã
tránh được việc tranh cãi về quyền thanh tra, tổ chức việc thanh tra như thế nào
đối với việc an toàn trong sử dụng các thiết bị sản xuất do Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đề xuất đã nhắc đến ở phần trên.
3.2 Yêu cầu đối với hệ thống tổ chức thanh tra trong thời kỳ mới là việc
thiết kế nó cần đảm bảo sao cho các quan hệ trong quá trình thanh tra không

chồng chéo, đồng thời có thể kết hợp thuận lợi khi xem xét một vấn đề, một
hoạt động nhất định. Cho đến nay, đây vẫn là điều khó khăn của chúng ta. Càng
chuyển sang cơ chế mới càng có nhiều khó khăn hơn vì nền kinh tế nhiều thành
phần và cách quản lý mới có những yêu cầu khác nhau. Chúng ta sẽ tổ chức hệ
thống thanh tra như thế nào để cem xét các quan hệ đó theo đúng pháp luật
nhưng phù hợp với các loại thành phần kinh tế khác nhau đó? Thoạt nhìn điều
này có vẻ đơn giản, nhưng thực tế cho thấy rất phức tạp nếu cơ sở được thanh
tra là một đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu không có một sự kết hợp khéo
léo, chúng ta sẽ rất khó đạt được mục đích của công tác thanh tra. Đây là những
quan hệ có tính biện chứng và phải được chú ý xử lý tốt.

7


3.3 Công tác thanh tra trong giai đoạn mới nhất định phải dựa trên một hệ
thống văn bản pháp lý được hoàn thiện theo yêu cầu cụ thể và thống nhất. Bởi
lẽ, song song với việc hoàn thiện hệ thống tổ chức Thanh tra thì yêu cầu hoàn
thiện hệ thống văn bản pháp lý cho các tổ chức Thanh tra hoạt động là rất cần
thiết trong giai đoạn hiện nay. Trong giai đoạn này có thể kết hợp để phân định
danh giới giữa chức năng thanh tra với các chức năng có liên quan như kiểm tra,
giám sát mà ở phần đầu chúng tôi đã đề cập. Phân biệt những nội dung khác
nhau đó trên văn bản có thể giúp cho Thanh tra đảm bảo được tính chất đặc thù
của mình như một lĩnh vực của kiểm tra và bảo vệ pháp luật trong quản lý nhà
nước. Hệ thống văn bản pháp lý của hoạt động thanh tra cũng là phương tiện để
góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thanh tra trong thời gian tới. Nó sẽ góp phần làm
cho công tác thanh tra dần dần đạt được chuẩn mực và thống nhất trên các
phương tiện cụ thể như: đối tượng, phạm vi, mục đích của thanh tra… Chất
lượng của công tác thanh tra sẽ lệ thuộc một phần rất lớn vào các công cụ mà nó
sử dụng, trong đó có các hệ thống văn bản.
Tất nhiên hoàn thiện hệ thống văn bản phục vụ công tác thanh tra là một

việc không đơn giản. Có thể làm từng bước một mà trước hết là cụ thể hoá các
văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến công tác thanh tra. Tiếp theo, cần hoàn
thiện hệ thống văn bản hướng dẫn nghiệp vụ; các quy định cần có trong tình
hình mới; tiêu chuẩn hoá các văn bản công vụ có thể tiêu chuẩn hoá được…
Cuối cùng, cần có một hệ thống đảm bảo thông tin cho thanh tra trên cơ
sở các văn bản đã có.
4. Vài lời kết luận
Giai đoạn hiện nay đang đặt ra cho hoạt động thanh tra nhiều vấn đề mới
phải giải quyết. Để đảm bảo cho công tác này hoạt động có hiệu quả thì điều
quan trọng nhất vẫn là nhận thức rõ cai trò của Thanh tra trong bộ máy nhà
nước. Thanh tra là “tai mắt” của Nhà nước, nhưng cũng là “tai mắt” của nhân
dân. Củng cố thanh tra là củng cố một biện pháppp của quản lý nhà nước, của
nhân dân. Trong quá trình đó, vấn đề có ý nghĩa hàng đầu là phân biệt rõ thẩm
quỳên và các mối quan hệ giữa thanh tra với các hoạt động có liên quan như
kiểm tra, giám sát. Từ đó, cần thiết xây dựng một hệ thống tổ chức thanh tra với
chức năng phù hợp và có đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ của mình.

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA THANH TRA NHÀ NƯỚC
PTS.TRẦN NGỌC ĐƯỜNG
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

8


1. Muốn xác định nội dung đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của
Thanh tra nhà nước, trước hết cần nhận thức thống nhất những vẫn đề cơ bản
sau đây:
a) Thanh tra là một bộ phận, một loại hình kiểm tra, giám sát trong hệ
thống kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật trong xã

hội. Hệ thống đó bao gồm:
- Kiểm tra đảng.
- Quyền kiểm tra, giám sát tối cao của Quốc hội, kiểm tra, giám sát của
Hội đồng nhân dân các cấp.
- Thanh tra nhà nước
- Kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân.
- Kiểm tra, giám sát của nhân dân (thông qua các đoàn thể, tổ chức quần
chúng; Ban Thanh tra nhân dân; trực tiếp khiếu tố, gửi đơn thư dân nguyện).
- Giám sát của các phương tiện thông tin đại chúng.
Mỗi loại hình nêu trên có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ,
trách nhiệm và phương thức thực hiện việc kiểm tra, giám sát khác nhau; có
mục tiêu, kết quả riêng khác nhau. Nhưng chúng tác động, liên quan chặt chẽ
với nhau và có mục tiêu chung là kiểm tra, giám sát việc thực nhiện đường lối,
chính sách, pháp luật, có chế quản lý; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi chính đáng, hợp pháp của công
dân.
b) Đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống Thanh tra nhà nước phải đặt
trong tổng thể đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung mà
liên quan trực tiếp là các vấn đề cụ thể sau:
+ Tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Quốc hội có thể kiểm tra tại chỗ; nghe báo cáo, điều trần, trả
lời chất vấn; có thể tổ chức điều tra, kết luận xử lý; có thể miễn nhiệm, cách
chức Thủ tướng, các Bộ trưởng…
+ Cải cách nền hành chính nhà nước, trong đó đáng chú ý là tăng cường
trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng, các Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
các cấp, thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước khác. Họ có thể bị miễn
nhiệm, cách chức nếu không thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước được giao, để xảy ra tình trạng vi phạm nghiêm trọng đường lối, chính
sách, pháp luật hoặc tham nhũng, lãng phí lớn trong phạm vi địa bàn hoặc
ngành và lĩnh vực mà họ có trách nhiệm quản lý nhà nước (Nghị quyết Hội nghị

Trung ương khóa VII). Với cơ chế đó, thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước
phải sử dụng thanh tra như một công cụ đắc lực phục vụ cho việc hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của mình cũng như bảo đảm thực hiện đường lối, chính
sách, pháp luật ở địa phương, ngành, lĩnh vực cơ quan mình phụ trách.
+ Cải cách nền tư pháp: Toà án hành chính được thiết lập với nhiệm vụ
giải quyết khiếu kiện của dân đối với cơ quan và công chức nhà nước.
Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khoá VII), với việc xuất hiện
Toà hành chính không có ý nghĩa là cơ quan quản lý nhà nước rũ bỏ trách
9


nhiệm giải quyết khiếu tố của dân, mà trái lại vẫn tăng cường trách nhiệm giải
quyết khiếu tố của cơ quan quản lý nhà nước. Theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8, khiếu tố của dân được giải quyết bằng các kênh sau:
- Nâng cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng
trong việc phối hợp với chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước giải quyết
những việc mà dân khiếu tố.
- Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc
giải quyết các việc mà dân khiếu tố.
- Thiết lập Toà án hành chính để giải quyết những vụ việc khiếu tố mà cơ
quan quản lý nhà nước đã giải quyết nhưng người dân chưa nhất trí vẫn còn
khiếu kiện, cơ chế này phù hợp bởi vì tất cả mọi vụ việc khiếu tố đều đưa đến
Toà án hành chính thì Toà án hành chính không thể giải quyết hết và giải quyết
tốt, dễ gây mất lòng tin của dân .
Vấn đề thứ hai trong cải cách tư pháp có liên quan đến hoạt động thanh
tra nhà nước là vấn đề xác định chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát
nhân dân, trong quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước theo Hiến
pháp 1992 và Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, chức năng kiểm sát chung của
Viện kiểm sát nhân dân được phân định là: kiểm sát việc tuân thủ pháp luật
những vấn đề (thể hiện trong các văn bản pháp quy, các quy đin hj quản lý) có

dấu hiệu vi phạm pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung mà không đưa ra truy
tố, xét xử được. Dù có phân định như vậy, xét xử những người có trách nhiệm
đã có hành vi phạm tội trong hoạt động quản lý của mình thì thực chất Viện
kiểm sát thực hiện quyền công tố của mình. Từ thực tế đó, xu hướng có nhiều ý
kiến thống nhất là bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân,
xây dựng Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công tố, đương nhiên trong quá
trình thực hành quỳên công tố, Viện kiểm sát nhân dân vẫn có quyền kiến nghị
sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật, các quyết định quản lý, thậm chí bãi bỏ
các quyết định quản lý và chính sách không phù hợp, trái pháp luật. Viện kiểm
sát thực hiện việc này bằng con đường kháng nghị sang Toà án hành chính.
2. Từ những quan điểmm và nhận thức nêu trên, có thể khái quát các
nguyên tắc trong việc xác định hệ thống trách nhiệm Thanh tra nhà nước; mô
hình hệ thống tổ chức bộ máy Thanh tra nhà nước; nguyên lý phân cấp Thanh
tra nhà nước; các mối quan hệ bên trong, bên ngoài của hệ thống tổ chức Thanh
tra nhà nước như sau:
a) Các nguyên tắc trong việc xác định hệ thống trách nhiệm Thanh tra
nhà nước
- Thanh tra nhà nước là tổ chức và hoạt động tự kiểm tra, giám sát việc
thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và thực hiện chức năng, nhiệm cụ
quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước phải chịu trách nhiệm tổ chức và
chỉ đạo hoạt động của thanh tra, tổ chức Thanh tra chịu sự chỉ đạo toàn diện của
thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước tương ứng là chính, thực sự là công cụ đắc
lực, là “tai, mắt” của thủ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo (về nghiệp vụ, về
10


chương trình công tác thanh tra) của Thanh tra cấp trên và cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên.
- Hoạt động thanh tra phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và diễn

ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.
- Tổ chức Thanh tra phải gắn liền với hệ thống điều hành (cơ quan quản
lý nhà nước) vì nó phải “tự kiểm tra” vừa có tính độc lập tương đối (để bảo đảm
thanh tra khách quan và có hiệu lực), vì thế phải có thiết chế bảo bảo đảm kết
hợp thanh tra nội bộ và thanh tra từ bên ngoài (từ trên xuống).
- Hoạt động thanh tra phải được tiến hành chủ động (để bảo đảm chức
năng điều tra, nghiên cứu, tham mưu cho lãnh đạo, quản lý) tránh khuynh
hướng bị động (thanh tra trên cơ sở khiếu tố của dân, trên cơ sở bảo lưu của
Thanh tra cấp trên, trên cơ sở có những sai phạm đã diễn ra), vì thế phải có tổ
chức Thanh tra chuyên ngành tập trung vào những khâu và lĩnh vực then chốt.
b) Mô hình tổ chức bộ máy Thanh tra nhà nước
Trên cơ sở những nguyên tắc xác định tổ chức hệ thống Thanh tra nhà
nước nêu trên, mô hình hệ thống tổ chức bộ máy Thanh tra nhà nước được xác
định như sau:
- Thanh tra nhà nước của Chính phủ (có thể gọi là Thanh tra Chính phủ).
- Thanh tra nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc
Chính phủ.
- Thanh tra nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Thanh tra nhà nước sở.
- Thanh tra nhà nước quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Thanh tra nhà nước ở xã, phường, thị trấn.
Trong hệ thống trên, Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc
Chính phủ chủ yếu là kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định quản lý
nhà nước của ngành, lĩnh vực mình phụ trách và kiểm tra việc thực hiện đường
lối, chính sách, pháp luật có liên quan đến lĩnh vực thuộc chức năng quản lý nhà
nước của mình, chịu sự chỉ đạo toàn diện và trực tiếp của Bộ trưởng và thủ
trưởng cơ quan.
Thanh tra tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương; Thanh tra quận, huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện
đường lối, chính sách pháp luật về tất cả các lĩnh vực trong phạm vi chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cùng cấp và chịu
sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
- Thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ) là cơ quan Thanh tra của
Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện
quyền thanh tra trên phạm vi toàn quốc. Thanh tra nhà nước chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng Chính phủ, thực hiện các nhiệm vụ thanh tra do Thủ tướng
Chính phủ giao. Những nhiệm vụ trên nhằm bảo đảm cho Thanh tra nhà nước
thực hiện được chức năng của mình là kiểm tra việc thực hiện và tham mưu cho
lãnh đạo cho lãnh đạo quản lý, giúp Thủ tướng Chính phủ nắm được tình hình
thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, các nhiệm vụ quản lý nhà nước của
11


các cơ quan quản lý nhà nước, kịp thời xử lý vi phạm và ban hành các quyết
định quản lý, tổng điều chỉnh hoạt động quản lý nhà nước. Thanh tra nhà nước
không chỉ gồm Tổng Thanh tra, cac Phó Tổng Thanh tra và các Thanh tra viên,
mà cần phải có các tổ chức Thanh tra chuyên ngành thực hiện thanh tra thường
xuyên, liên tục đối với những khâu then chốt của hoạt động quản lý nhà nước.
Theo ý tưởng này, Thanh ta nhà nước bao gồm:
- Tổng Thanh tra nhà nước
- Tổng Thanh tra tài chính
-Tổng Thanh tra Công nghiệp.
- Tổng Thanh tra Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Tổng Thanh tra Văn hoá, Giáo dục, Khoa học và Công nghệ.
- Tổng Thanh tra Y tế và Môi trường.
- Tổng Thanh tra AN ninh, Quốc phòng, Nội vụ.
- Tổng Thanh tra Đầu tư và xây dựng cơ bản.
Sơ đồ tổ chức Thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ)
TỔNG THANH TRA NHÀ NƯỚC
(Thanh tra Chính phủ)

(MỘT PHÓ TỔNG THANH TRA GIÚP VIỆC VÀ THAY THẾ TỔNG
THANH TRA NHÀ NƯỚC KHI CẦN)

Luận chứng sơ đồ tổ chức trên:
- Tổ chức Thanh tra nhà nước như trên tránh được tình trạng tiến hành
thanh tra chắp vá, thụ động bảo đảm thanh tra được tiến hành liên tục và trên
các lĩnh vực, các khâu then chốt của quản lý nhà nước, đồng thời Thanh tra nhà
nước thực hiện được chức năng tổng điều tra, phân tích tham mưu cho lãnh đạo,
quản lý chứ không phải là chạy theo các vụ việc vi phạm; xây dựng được
chương trình, kế hoạch, chuyên đề thanh tra một cách chủ động hơn.

12


- Trong sơ đồ trên có Tổng thanh tra tài chính, công nghiệp, nông
nghiệp, văn hoá, giáo giục… liệu có trùng với thanh tra cấp bộ không? Theo tôi
là không, vì nhiệm vụ chính của Thanh tra bộ là tự kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ và các quyết định của Bộ trưởng; mặt
khác, vi phạm kiểm tra, giám sát của các Tổng thanh tra chuyên ngành và Thanh
tra của bộ khác nhau. Vấn đề này sẽ được phân định trong quá trình phân cấp
thanh tra. Hơn nữa, tài chính là lĩnh vực đụng chạm đến hoạt động của bộ máy
quản lý nhà nước cần phải có Thanh tra chuyên ngành tài chính.
- Tổ chức Thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ) như trên bảo đảm
kết hợp giữa thanh tra nội bộ, tự kiểm tra (của Thanh tra bộ) và thanh tra từ bên
ngoài (từ trên xuống) và ở tầm nhìn toàn diện hơn, khách quan hơn.
c) Các nguyên tắc phân cấp thanh tra
- Thanh tra của các cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận tổ chức của
các cơ quan đó tự kiểm tra công việc của mình và kiểm tra việc thực hiện đường
lối, chính sách, pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của mình.
- Thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ) là cơ quan của Chính phủ,

chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng, có chức năng kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước thuộc chức năng, nhiệm vụ của Thủ tướng Chính
phủ và Chính phủ; tự kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật
trong phạm vi quản lý nhà nước.
- Hoạt động thanh tra phải được tiến hành chủ động, toàn diện và trong
suốt quá trình hoạt động quản lý nhà nước (quá trình thực hiện).
- Tuỳ vào lĩnh vực, phạm vi, tính chất, quy mô công việc cần thanh tra mà
phân cấp về chức, nhiệm vụ thanh tra cho từng cấp thanh tra.
d) Các mối quan hệ bên trong, bên ngoài của hệ thống tổ chức Thanh tra
nhà nước
- Quan hệ bên trong:
+ Quan hệ với thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp: là quan
hệ chỉ đạo trực tiếp vì thủ trưởng là người chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước
và tình hình thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật trong phạm vi quản lý
của mình. Thanh tra là công cụ của thủ trưởng, thủ trưởng sử dụng thanh tra như
thế nào sẽ giúp cho chính thủ trưởng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
trách nhịêm quản lý nhà nước của mình như thế ấy (đương nhiên thủ trưởng chỉ
tích cực sử dụng thanh tra như công cụ của mình khi chế độ trách nhiệm cá
nhân được thực hiện nghiêm minh và triệt để).
Ví dụ: Để nhà sập, xây dựng các công trình kém chất lượng rất có thể dẫn
đến việc Bộ trưởng Bộ xây dựng bị cách chức, thì đương nhiên Bộ trưởng
không được lơ là, phải đốc thúc thanh tra nghiêm ngặt, ráo riết, không thể
thởntcs kiến nghị của thanh tra.
+ Quan hệ với cơ quan hành chính nhà nước cấp trên: là quan hệ chỉ đạo
gián tiếp qua thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước của cơ quan Thanh tra,
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên chỉ xem xét trách nhiệm của thủ trưởng

13



cơ quan cấp dưới, kể cả công tác thanh tra, còn việc thanh tra như thế nào là do
thủ trưởng trực tiếp chỉ đạo, tổ chức cơ quan Thanh tra của mình.
+ Quan hệ với cơ quan Thanh tra cấp trên: là quan hệ chỉ đạo về tổ chức,
nghiệp vụ thanh tra; quan hệ phối hợp trong hoạt động thanh tra (qua báo cáo,
qua hoạt động thanh tra chuyên đề). Mối quan hệ này là mối quan hệ giữa
thanh tra từ bên ngoài và thanh tra nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước.
+ Về tính độc lập tương đối của các cơ quan Thanh tra: thể hiện trên
những thiết chế sau (và chỉ nên ở mức này):
. Mặc dù là thanh tra nội bộ, tự kiểm tra, là công cụ của thủ trưởng nhưng
thanh tra có quyền bảo lưu ý kiến và báo cáo cơ quan Thanh tra cấp trên trong
trường hợp thủ trưởng không nhất trí với kết luận, kiến nghị của mình.
.Chịu sự chỉ đạo về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra cấp trên.
.Chịu sự thanh tra lại của Thanh tra cấp trên và của Tổng Thanh tra nhà
nước. Nếu tăng thêm tính độc lập của Thanh tra nhà nước bằng cách tổ chức nó
thành một hệ thống độc lập ngành dọc và tăng quyền kiến nghị cũng như hiệu
lực các kiến nghị của nó thì vô hình chung biến Thanh tra nhà nước thành “Viện
kiểm sát” trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước.
- Quan hệ bên ngoài:
+ Quan hệ với cơ quan bảo vệ pháp luật là quan hệ phối hợp đấu tranh
phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật, góp phần hoàn thiện đường lối,
chính sách, pháp luật. Thể hiện:
. Chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật đối với những vụ việc có
dấu hiệu tội phạm.
. Trong điều kiện có toà án hành chính với chức năng giải quyết khiếu kiện
hành chính của công dân, Thanh tra nhà nước giúp cơ quqna quản lý nhà nước
cùng cấp giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Khi công dân còn tiếp
tục kiện, đưa ra toà án hành chính có trách nhiệm phối hợp giải quyết. Với cơ
chế giải quyết khiếu tố như vậy cần bỏ các điều 11, 12, 13, 14 của Pháp lệnh
khiếu nại, tố cáo của công dân 1991.
+ Quan hệ với Mặt trân T quốc, các đoàn thể: là quan hệ cộng tác, phối

hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật cũng như kiểm
tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, các quyết định
quản lý, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lýnhà nước được giao, thể hiện:
. Thanh tra phải dựa vào Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, lắng nghe ý kiến
phản ánh, phát hiện sai phạm của họ, những nhận xét về đường lối, chính sách
pháp luật, các quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chúng. Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể và các thành viên là “tai”, “mắt” của Thanh tra, là lực lượng
điều tra tại chỗ của Thanh tra, Thanh tra phải tổ chức, lôi cuốn và biết dựa vào
họ.
. Mặt trận Tổ Quốc, các đoàn thể quần chúng cũng phải nêu cao trách
nhiệm, tính tích cực chính trị của mình, sử dụng đúng quyền khởi kiện vì lợi ích
của Nhà nước, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các thành viên trong tổ chức,
đoàn thể của mình.
14


. Tích cực, chủ động phối hợp với chính quyền giải quyết yêu cầu, kiến
nghị, khiếu kiện của dân có lý, có tình, khi cần thiết phải thẳng thắn đấu tranh
với Thanh tra hoặc cùng với Thanh tra đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải.
Tóm lại, tư tưởng cơ bản để đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra
nhà nước là: Thanh tra là cơ quan, là một bộ phận của cơ quan hành chính nhà
nước tự kiểm tra công việc của mình và kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường
lối, chính sách pháp luật, phát hiện và xử lý các vi phạm, phát huy nhân tố tích
cực, góp phần hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật, thực hiện tốt chức
năng nhiệm vụ quản lý được giao và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện cải cách hành chính, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân
của những người có trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước thì thủ các
cơ quan này trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, sử dụng thanh tra
như một công cụ sắc bén bảo đảm cho mình hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước được giao. Bản thân cơ quan Thanh tra nhà nước phải được

sắp xếp lại về tổ chức, tăng cường cán bộ được đào tạo tốt, có bản lĩnh và phẩm
chất, tích cực chủ động trong công tác thanh tra và không chỉ là phát hiện sai
phạm, kết luận đúng sai mà điều quan trọng hơn, chính yếu hơn là tham mưu
cho lãnh đạo, quản lý kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính
sách pháp luật, các quyết định quản lý.

YÊU CẦU CẤP BÁCH CỦA VIỆC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG THANH TRA THEO HƯỚNG CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
PTS. LÊ BÌNH VỌNG
Vụ trưởng Vụ Tổng hợp pháp chế
Thanh tra Nhà nước.
Kể từ ngày cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ nhân dân
được thành lập ở nước ta đã tròn nửa thế kỷ. Trải qua quá trình cách mạng, nhà
15


nước đã góp vai trò hết sức quan trọng trong toàn bộ hệ thống chính trị, là một
trong những điều kiện cơ bản đưa cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và chủ nghĩa
xã hội phát triển không ngừng.
Nhưng qua quá trình phát triển, bộ máy nhà nước ta cũng đã bộc lộ những
mặt yếu kém, bất cập. Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 BCH Trưng ương Đảng
khoá VII đã khẳng định “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà
nước”. Để xây dựng Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thực
hiện một bước công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước. Trên cơ sở giải quyết hàng
loạt các vấn đề về lý luận và thực tiễn, tiếp tục lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, cải cách mạnh mẽ nền hành chính Nhà nước, trước mắt là cải cách các thủ
tục hành chính bảo đảm thực hiện các quyền tự do dân chủ của công dân tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội, nâng cao hiệu lực quản lý

nhà nước, chống những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành trung ương lần thứ 8 (khoá VII) cũng
nhấn mạnh: “phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững
mạnh,có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ quan liêu, tham nhũng, luôn luôn giữ vững
và phát huy bản chất cách mạng cảu một nàh nước của dân, do dân và vì dân”.
Để đạt được mục tiêu nói trên, trong những năm trước mắt, một trong
những vấn đề quan trọng là cần phải chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và quy chế
hoạt động của bộ máy hành chính theo phương hướng và nguyên tắc: Chính phủ
và cơ quan hành chính các cấp cần được sắp xếp gọn nhẹ, tập trugn làm tốt công
tác quản lý nhà nước, phát triển kinh tế, chăm lo giải quyết các vấn đề văn hoá
xã hội, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh…Nhà nước
quản lý mọi mặt của hoạt động của xã hội bằng một hệ thống luật pháp ngày
càng hoàn chỉnh phù hợp với tình hình mới; có cơ cấu tổ chức hợp lý, bộ máy
tinh gọn chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan phải được quy định và phân định
một cách rõ ràng, có sự chỉ đạo thống nhất thông suốt từ trung ương xuống cơ
sở…
Là một chức năng thiết yếu của lãnh đạo và quản lý, trong bối cảnh của
quá trình đổi mới, hệ thống tổ chức và hoạt động thanh tra cần phải được cải
cách mạnh mẽ về mọi mặt, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới, bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra phù hợp với quá trình cải cách nền hành
chính nhà nước và góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong điều kiện
nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thì trường. Thông báo của
Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương lần thứ 8 (khoá VII) chỉ rõ “tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra để mọi thành phần kinh tế kinh doanh đúng pháp
luật”. Điều đó nói lên tầm quan trọng và nhiệm vụ nặng nề đặt ra cho các tổ
chức Thanh tra trong gia đoạn cách mạng mới.
Mấy năm qua, theo tinh thần của Pháp lệnh Thanh tra, các tổ chức Thanh
tra đã được tổ chức đều khắp ở các ngành, các cấp, từ Trung ương đến địa
phương. Đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra được tăng cường một bước.
Hoạt động thanh tra đã góp phần đắc lực cho các cấp lãnh đạo trong công tác

16


quản lý, thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Trogn lĩnh vực Thanh tra kinh
tế - xã hội đã chú ý bám sát các nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, các ngành,
địa phương, tổ chức nhiều cuộc thanh tra trong mọi lĩnh vực, phát hiện nhiều sai
phạm nhất là trong lĩnh vực kinh tế tài chính, chống thất thoát tài sản nhà nước,
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng, buôn lậu. Qua
thanh tra đã có nhiều kiến nghị với các cấp có thẩm quyền sửa đổi bổ xung
những thiếu sót, sơ hở trong cơ chế chính sách, pháp luật góp phần vào việc
chấn chỉnh công tác quản lý ở các ngành, nhà nước. Tronh lĩnh vực giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, đã tăng cường công tác kiểm tra trách nhiệm
giait quyết khiếu tố của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, góp phần
thúc đẩy giải quyết các vụ việc, khôi phục và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảngvà Nhà nước và những
thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên,qua thực tiễn công tác thanh tra, cũng phải thừa nhận thấy rằng
chúng ta còn quá chậm đổi mới cả về tổ chức và phương thức hoạt động, đội
ngũ thanh tra viên tuy nhiều, nhưng kiến thức và trình độ nghiệp vụ còn hạn
chế, chưa bắt kịp với yêu cầu phát triển của tình hình.
Về mặt tổ chức: Theo quy định của Pháp lệnh Thanh tra hiện nay, toàn bộ
các hệ thống các tổ chức Thanh tra nhà nước hệ thống hành pháp và hình thành
theo hai tuyến: Thanh tra cấp gồm Thanh tra Nhà nước, Thanh tra tỉnh và Thanh
tra huyện. Thanh tra Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ, Thanh tra tỉnh và
Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân tỉnh và huyện.
Tuyến thứ hai là thanh tra ngành bao gồm: Thanh tra bộ và Thanh tra sở. Cả hai
tuyến trên của hệ thống Thanh tra nhà nước đều chịu sự lãnh đạo song trùng:
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp, đồng thời
chịu sự chỉ đạo về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của tổ chức Thanh tra nhà nước
cấp trên.

Bản chất của hoạt động thanh tra là xuất phát từ yêu cầu của công tác quản
lý và lãnh đạo, nên trên thực tế, các tổ chức Thanh tra nhà nước vẫn chủ yếu
phụ thuộc vào chủ trưởng cùng cấp, còn sự chỉ đạo của Thanh tra nhà nước cấp
trên thực tế rất lỏng lẻo. Điều đó gây ra sự chồng chéo, trùng lặp trong việc tổ
chức các cơ quan Thanh tra là làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt
động của nó. Đó là chưa kể sự chồng chéo và trùng lặp của hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) của các cơ quan Kiểm sát, hoạt động
điều tra của các cơ quan Công an kinh tế với hoạt động thanh tra.
Ngay bản thân tuyến Thanh tra bộ, ngành cũng có điểm vướng mắc rất lớn
chưa được giải quyết ở Pháp lệnh thanh tra. Pháp lệnh quy định một bộ chỉ có
một tổ chức Thanh tra, nhưng trên thực tế từ nhiều năm nay, do nhu cầu của
công tác quản lý và căn cứ vào các văn bản pháp luật khác, nhiều bộ, ngành có
xu hướng tổ chức hoạt động thanh tra theo hai loại: thanh tra nội bộ, đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của thủ trưởng cùng cấp (chủ yếu là
để giải quyết khiếu nại, tố cáo), loại thứ hai là Thanh tra chuyên ngành có quýen
thanh tra mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp
17


luật liên quan đến chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành. Điển hình là các
ngành Giáo dục, Y tế, Lao động – Thương binh – Xã hội, Giao thong – Vận
tải… Chính vì vậy mà có sự lôn xộn và thiếu thống nhất trong hệ thống các cơ
quan Thanh tra nhà nước. Đây là một vấn đề lớn cần tập trung nghiên cứu.
Về chức năng, nhiệm vụ: Theo quy định tại Pháp lệnh thanh tra, các tổ
chức Thanh tra nhà nước có hai nhiệm vụ chủ yếu:
- Thanh tra việc thực hiện các chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch
của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm.
- Giải quyết hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân.
Có thể nói rằng, nhiệm vụ thứ nhất (thường được gọi là thanh tra kinh tế xã hội) chủ yếu nhằm vào các vấn đề kinh tế - tài chính, việc sử dụng ngân sách

nhà nước của các cơ quan nhà nước và thực hiện kế hoạch của các đơn vị sản
xuất quốc doanh. Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, các thành
phần kinh tế đều bình đẳng, tính chất của nền kinh tế chỉ huy, mệnh lệnh không
còn nữa, chế độ chủ quản đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng dần dần
được xóa bỏ. Chính vì vậy, đối tượng của hoạt động thanh tra cũng có sự thay
đổi. Hoạt động thanh tra phải chủ yếu hướng vào việc thanh tra, kiểm tra trách
nhiệm quản lý của thủ trưởng các cơ quan hành chính, chống tệ tham nhũng,
quan lieu, cửa quyền, lãng phí trong bộ máy nhà nước. Đối với các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, phải tiến hành thanh tra, kiểm tra bảo đảm
cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh thực hiện đúng chế độ kế toán – thống kê
của nhà nước, bảo đảm thực hiện thu nộp thuế và các nghĩa vụ khác đối với Nhà
nước…
Về nhiệm vụ xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân: hiên nay chúng
ta đang khẩn trương chuẩn bị cho việc thiết lập Tòa án hành chính của công
dân. Theo kế hoạch tại ký họp cuối năm nay, Quốc hội sẽ thong qua Dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (về Tòa án hành
chính). Như vậy, chức năng giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức Thanh
tra nà nước sẽ thay đổi căn bản. Với sự hiện hữu của các Tòa án hành chính,
Thanh tra chỉ còn nhiệm vụ giúp thủ trưởng cơ quan hành chính giải quyết
khiếu nại ở giai đoạn tiền tố tụng hành chính trước khi công dân kiện đến Tòa
án hành chính. Tình hình đó đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và hoạt động thanh
tra.
Để phù hợp với cải cách hành chính nhà nước nói chung, việc đổi mới tổ
chức và hoạt động thanh tra không tách rời với quá trình cải cách và cần có
bước đi thích hợp căn cứ vào hoàn cảnh thực tiễn của nước ta, đồng thời tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm các nước về công tác thanh tra, kiểm tra.
Đổi mới tổ chức và họat động thanh tra phải nhằm đạt được một số mục
tiêu cơ bản sau đây:
Một là, tổ chức Thanh tra nhà nước phải gọn nhẹ, quyền lực tập trung

thống nhất.
18


Hai là, bảo đảm mọi lĩnh vực hoạt động, kể cả các hoạt động tư pháp và
lập pháp đều có sự kiểm tra, thanh tra.
Ba là, chức năng, nhiệm vụ phải được xác định rõ rang, có sự phân định
vơi kiểm sát chung, kiểm tra đảng, sự giám sát của các cơ quan quyền lực và
của nhân dân. Đặc biệt, cần làm rõ sự khác nhau giữa thanh tra nhà nước và
hoạt động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý, giữa hoạt động thanh tra
và kiểm toán, thanh tra và hoạt động xét xử của Tòa án hành chính.
Bốn là, tổ chức Thanh tra và Thanh tra viên phải có thực quyền và đủ trình
độ, năng lực có thể họat động độc lập chỉ tuân theo pháp luật, không bị rang
buộc bởi các mối quan hệ quản lý.
Năm là, hoạt động thanh tra phải góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước.
Trên cơ sở các mục tiêu nói trên mà nghiên cứu tổ chức các loại hình thanh
tra thích hợp. Trước mắt, cần xây dựng đề án tổng thể đổi mới tổ chức và hoạt
động thanh tra trên cơ sở đánh giá thực trạng họat động thanh tra hiện nay, tổng
kết kinh nghiệm công tac thanh tra 50 năm qua và phương hướng cải cách hành
chính nhà nước nói chung. Từ đó, bắt tay vào việc nghiên cứu xây dựng Luật
thanh tra thay thế cho Pháp lệnh thanh tra trong đó cần đặc biệy lưu ý đến các
quy định của Hiến pháp và các đạo luật hiện hành để có các bước đi thích hợp
và hiệu quả.
Để đạt được những mục tiêu nói trên, xin nêu ra một vài kiến nghị bước
đầu:
Về tổ chức: Nên xây dựng hệ thống Thanh tra nhà nước một cấp (cấp Nhà
nước) từ Trung ương xuống huyện, xuyên suốt và thống nhất theo hệ thống dọc,
không phụ thuộc vào các bộ và Ủy ban nhân dân các cấp. Trái lại, cac bộ, Ủy

ban nhân dân các cấp, các cơ quan, tổ chức và cá nhân đều có thể là đối tượng
bị thanh tra.
Theo cách tổ chức này, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện không phải là cơ
quan chuyên môn của tỉnh hay của huyện mà là các đơn vị của Thanh tra nhà
nước đóng tại địa phương.
Trong hoạt động của mình, Thanh tra viên độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của mình.
Tổng Thanh tra nhà nước do Thủ tướng Chính phủ giới thiệu, Quốc hội
bầu trong số các Thanh tra viên Quốc hội (Quốc hội phê chuẩn danh sách của
Thanh tra viên Quốc hội theo đề nghị của Tổng Thanh tra nhà nước).
Các bộ, ngành nói chung tổ chức chế độ kiểm tra theo quy định của Chính
phủ về chức năng, nhiệm vụ của bộ, ngành đó. Một số bộ, ngành lớn, theo đề
nghị của Tổng Thanh tra nhà nước và Bộ trưởng, có thể có tổ chức Thanh tra
chuyên ngành do Chính phủ quy định. Chánh Thanh tra chuyên ngành do Tổng
Thanh tra nhà nước bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng.
Thống nhất Thanh tra nhân dân ở các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị sản xuất,
kinh doanh và ở xã, phường, thị trấn cùng với hoà giải tư pháp, kiểm tra của
19


Công đoàn và Mặt trận Tổ quốc thành mộ lực lượng gọi là kiểm tra, giám sát
của công dân được điều chỉnh bằng một pháp lệnh chung.
- Về thẩm quyền: Mặc dù Pháp lệnh thanh tra ngày 1/4/1990 có quy định 9
quyền cho các tổ chức Thanh tra, song trên thực tế, các tổ chức Thanh tra mới
chỉ là cơ quan tham mưu, giúp việc; qua thanh tra mới chỉ kết luận và kiến nghị,
chưa có quyền quyết định và xử lý. Mặt khác, những sai phạm trong hoạt động
thanh tra cũng chưa có chế định pháp lý bắt buộc Thanh tra viên phải chịu trách
nhiệm cụ thể. Vì thế, hiệu lực và hiệu quả thanh tra còn rất hạn chế.
Để khắc phục tình trạng này và giải toả những vướng mắc như đã nêu trên
cần quy định cho Thanh tra nhà nước có những thẩm quyền sau đây:

- Tham gia tố tụng, bao gồm cả tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, hành
chính…
- Qua thanh tra, khi thấy cần thiết và khi có đủ dấu hiệu tội phạm, có quyền
khởi tố vụ án hành chính hoặc vụ án hình sự.
- Trong và sau quá trình thanh tra có quyền quyết định xử lý hành chính
(cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc…), áp dụng các biện pháp đặc biệt: tạm
giam, tạm giữ, kê biên, niêm phong tang vật, phạt hành chính…
Thậm chí, trong trường hợp cần thiết, cho phép Thanh tra viên có quyền áp
dụng các biện pháp nói trên rồi mới báo cáo lên cấp trên của mình (theo kiểu
tiền trảm hậu tấu) và quy định Thanh tra viên phải chịu trách nhiệm về quyết
định của mình.
Tóm lại, 50 năm qua cùng với những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng,
ngành Thanh tra đã không ngừng phát triển và lớn mạnh, xứng đáng là một
công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới,
việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra đang được đặt ra một cách hết sức
cấp thiết, nhằm tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra,
góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới đang diễn ra mạng mẽ hàng ngày,
hàng giờ trên đất nước ta.

QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI CÔNG TÁC THANH TRA
PTS. LÊ MẠNH LUÂN
Ban Nội chính Trung ương
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước thay mặt nhân
dân quản lý đất nước.
Quản lý nhà nước gồm các nội dung :
- Ban hành các quyết định quản lý (thể hiện dưới hình thức các văn bản
pháp luật).
- Tổ chức thực hiện các quýêt định quản lý.
20



- Kiểm tra, thanh tra việc thi hành các quyết định quản lý.
Như vậy, kiểm tra, thanh tra là một bộ phận, một khâu của quản lý nhà
nước. Thông qua kiểm tra, thanh tra, các cơ quan nhà nước xem xét việc thi
hành các quyết định quản lý, chấp hành pháp luật, giải quyết những khó khăn,
vướng mắc nảy sinh, xử lý các vi phạm, lệch lạc trong quá trình thực hiện chính
sách, pháp luật. Cũng nhờ kiểm tra, thanh tra, các cơ quan nhà nước còn phát
hiện những bất hợp lý, thiếu sót, thậm chí sai lầm trong các chính sách, cơ chế
quản lý đã ban hành, phát hiện những vấn đề mới xuất hiện để tiếp tục nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và pháp luật.
Công tác kiểm tra là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, của người lãnh
đạo, quản lý. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên kiểm tra các
đơn vi, cá nhân thuộc quyền quản lý thực hiện quyết định của mình như thế nào.
Người quản lý còn uỷ nhiệm cho các bộ phận, viên chức dưới quyền kiểm tra
việc thực hiện quyết định quản lý trên thực tế.
Nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra còn do những cơ quan kiểm tra, thanh tra
chuyên trách đảm nhiệm. Trong bộ máy nhà nước có những cơ quan được lập ra
theo pháp luật để thường xuyên làm nhiệm vụ thanh tra. Đó là Thanh tra nhà
nước các cấp, Thanh tra bộ, Thanh tra sở.
Hoạt động kiểm tra, thanh tra là một nội dung quan trọng, tất yếu của
quản lý nhà nước. Kiểm tra, thanh tra là nhiệm vụ không thể thiếu của các cơ
quan quản lý nhà nước. Do vậy, Thanh tra là một bộ phận cấu thành của bộ máy
nhà nước, là công cụ trọng yếu để quản lý nhà nước.
Trong chế độ ta, Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng mọi tổ chức đảng phải hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng đề ra đường lối, chính sách để Nhà nước thể chế hoá, cụ thể hoá
bằng pháp luật. Đảng sắp xếp và bố trí cán bộ, giới thiệu những đảng viên của
mình để được bầu hoặc bổ nhiệm vào chức vụ nhà nước. Một bộ phận đảng viên
làm việc trong các cơ quan nhà nước, là công chức nhà nước. Do vậy, Đảng

phải kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, kiểm tra đảng viên
là công chức nàh nước chấp hành nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Chính vì thế, cùng với công tác kiểm tra của các tổ chức đảng, Thanh tra
cùng góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan nhà nước,
đối với việc kiểm tra đảng viên, công chức.
Căn cứ vào tính tất yếu, khách quan của công tác kiểm tra, thanh tra trong
quản lý nhà nước, để phát huy vai trò của các cơ quan Thanh tra, việc đổi mới
công tác thanh tra cần được tiến hành theo những quan điểm sau đây:
1. Công tác thanh tra phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới, nhất là
đổi mới kinh tế - xã hội, góp phần vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
nước
Thanh tra luôn cọ sát với thực tiễn kinh tế, xã hội, nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng của các nhà doanh nghiệp, người quản lý, hiểu được những thuận
lợi, khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, phát hiện những thiếu sót, sơ hở trong
21


quản lý nhà nước. Thanh tra là cầu nối giữa Nhà nước và nhân dân, giữa cấp
trên với cấp dưới. Cán bộ thanh tra là “tai mắt của trên, là người bạn của dưới”.
Thanh tra là tấm gương phản ánh thực tiễn sinh sống, làm ăn, kinh doanh
của người dân, của các doanh nghịêp, hoạt động của các cơ quan, tổ chức.
Nhưng thanh tra không chỉ nêu lên những điều đã nhìn thấy, nghe thấy, không
chỉ dừng lại ở việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật. Từ thực tiễn quản
lý, thanh tra phát hiện những vướng mắc, thiếu sót, sơ hở trong quản lý nhà
nước, nghiên cứu những vấn đề mới nảy sinh, chủ động kiến nghị, đề xuất
những cơ chế, chính sách, hoàn thiện pháp luật phục vụ cho sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2. Công tác thanh tra góp phần thực hiện quyền làm chủ của công
dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Thanh tra không chỉ tham gia xây dựng các chính sách, cơ chế làm chủ

của nhân dân, mà còn tích cực góp phần vào việc thực hiện các cơ chế, chính
sách đó.
Các cơ quan Thanh tra đấu tranh chống các vi phạm pháp luật, tệ quan
liêu, cửa quỳên sách nhiễu, ức hiếp, trù dập người dân, để bảo vệ quyền tự do
dân chủ và các quyền lợi hợp pháp khác của cá nhân và tổ chức, duy trì công lý,
thật sự là “Bao công” ngày nay.
Cơ quan Thanh tra vừa là lực lượng nòng cốt để đấu tranh chống tham
nhũng, vừa là chỗ dựa tin cậy để nhân dân tham gia vào việc phát hiện và loại
trừ tệ ăn hối lộ, bòn rút tài sản của dân, đục khoét của công. Thanh tra tích cực
giải quyết và thúc đẩy các cơ quan khác xử lý kịp thời, nhanh chóng các khiếu
nại, tố cáo của công dân, để cho “đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm
lo lắng đến quyền lợi của họ. Do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và
Chính phủ ngày càng được củng cố tốt hơn” (hồ Chủ tịch).
3. Công tác thanh tra dựa trên sự ủng hộ và tham gia tích cực của
nhân dân
Hoạt động thanh tra nhân dân mang tính chất sâu sắc. Chỉ có dựa trên sự
ủng hộ, công tác, tham gia tích cực của quần chúng thì công tác thanh tra mới
đạt hiệu quả, chất lượng cao. Chính vì thế mà Lênin đã căn dặn: Công tác kiểm
tra, kiểm soát phải làm từ dưới lên, một cách dân chủ, do chính nhân dân thi
hành. Mặt khác, thông qua kiểm tra việc chấp hành pháp luật của mọi cá nhân,
tổ chức, cơ quan và nhân viên nhà nước, nhân dân đã thực hiện quyền tham gia
quản lý nhà nước đã được Hiến pháp ghi nhận.
Thanh tra nhân dân là một trong các hình thức, biện pháp để thu hút đông
đảo quần chúng vào hoạt động kiểm tra, thanh tra. Tổ chức Thanh tra của quần
chúng ở khu vự dân cư, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước là cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thanh tra nhân dân là trợ thủ của các
cấp chính quyền, của các cơ quan Thanh tra nhà nước. Do vậy, phải tiếp tục
củng cố, xây dựng các tổ chức Thanh tra nhân dân. Xác định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của Thanh tra nhân dân, phát triển mạng lưới cộng tác viên thanh tra
ở thôn, xóm, ấp, tổ dân phố, đơn vị, bộ phận sản xuất, kinh doanh.

22


4. Phân công rõ về nhiệm vụ, đồng thời phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan làm nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra
Hiện nay, có một số cơ quan mà việc kiểm tra thực hiện nhiệm vụ, thi
hành pháp luật là chức năng hoặc là nhiệm vụ quan trọng tiến hành thường
xuyên, được giao nhiều quyền hạn. Đó là Viện kiêm sát nhân dân, cơ quan
Thanh tra, Công an, kiểm tra Đảng. Các cơ quan này có tính chất, nhiệm vụ,
quyền hạn khác nhau, nhưng xét về pháp luật và thực tiễn hoạt động thì giữa các
cơ quan đó có sự trùng lặp về phạm vi, đối tượng, đặc biệt là trong quan hệ giữa
kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thanh tra kinh tế - xã hội; giữa Thanh tra
nhà nước và Thanh tra bộ, Thanh tra sở, Thanh tra chuyên ngành. Điều đó
không chỉ gây khó khăn, trở ngại cho các đối tượng bị kiểm sát, thanh tra mà
còn tạo ra những vướng mắc giữa những cơ quan kiểm sát, kiểm tra, thanh tra.
Do vậy, trong khuôn khổ Hiến pháp năm 1992, cần xác định rõ về nhiệm
vụ giữa các cơ quan kiểm sát, kiểm tra, thanh tra. Viện kiểm sát chủ yếu kiểm
tra việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Còn trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước khác, nếu thấy có vi phạm pháp luật thì yêu cầu cơ quan kiểm tra,
thanh tra tự kiểm tra, thanh tra. Viện kiểm sát chỉ kiểm sát khi cơ quan kiểm tra,
thanh tra đó chưa đạt yêu cầu, còn bị khiếu nại. Thanh tra nhà nước cấp huyện,
Thanh tra ngành kiểm tra việc thực hiện pháp luật của các doanh nghiệp, cơ
quan, tổ chức...
Đối với các tổ chức đảng, đảng viên là công chức vi phạm pháp luật thì
các cơ quan của Đảng xem xét kỷluật trên cơ sở các báo cáo, kết luận của cơ
quan Kiểm tra Đảng, Thanh tra nhà nước.
5. Xây dựng và kiện toàn các cơ quan Thanh tra:
Trên cơ sở phân công rõ về nhiệm vụ giữa các cơ quan Thanh tra (Thanh
tra nhà nước các cấp, Thanh tra bộ, sở, Thanh tra chuyên ngành) tiếp tục kiện
toàn các cơ quan Thanh tra thật vững mạnh, trong sạch, xây dựng hệ thống

Thanh tra thống nhất về tổ chức.
Giáo dục, rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ thanh tra có phẩm chất chính
trị, đạo đức, có kiến thức về mọi lĩnh vực quản lý nhà nứoc, có trình độ nghiệp
vụ thanh tra để đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó,
nhân dân tin cậy, xứng đáng với lòng mong muốn của Bác Hồ: “cán bộ thanh
tra như cái gương cho người ta soi mặt”.
Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan Thanh tra. Hiện đại hoá điều
kiện làm việc của cán bộ thanh tra, quan tâm đến đời sống của họ. Đảm bảo cho
các Thanh tra viên công tác có hiệu quả và vững vàng trước mọi khó khăn, thử
thách.
6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh tra
Công tác thanh tra góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội. Các cơ quan Thanh tra kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần vào việc xây dựng Đảng,
kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Thanh tra nhà nước thống

23


nhất hữu cơ với công tác kiểm tra đảng, cùng với công tác kiểm tra đảng thực
hiện một nội dung quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng.
Các cấp uỷ đảng lãnh đạo chặt chẽ, sâu sát công tác thanh tra và lãnh đạo
các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng thực hiện tốt công
tác kiểm tra, thanh tra.
Đảng tăng cường bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất cho các cơ quan
Thanh tra, quan tâm rèn luyện, giáo dục đội ngũ cán bộ thanh tra. Bố trí các
đồng chí đứng đầu các cơ quan Thanh tra giữ cương vị chủ chốt trong cấp uỷ
đảng, trong cơ quan chính quyền các cấp, nghiên cứu sự kết hợp giữa lãnh đạo
Uỷ ban kiểm tra đảng với lãnh đạo cơ quan Thanh tra nhà nước, nhằm phối hợp
hoạt động có hiệu quả giữa hai tổ chức này.


SỬA ĐỔI PHÁP LỆNH THANH TRA - TẠO TIÊN ĐỀ CHO VIỆC
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG THANH TRA NHÀ
NƯỚC THEO CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
PTS. NGUYỄN HỮU NGÀ
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Đổi mới là khái niệm gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện công tác
quản lý của Nhà nước trong những năm gần đây.
Đổi mới, theo quan niệm của chúng ta không có nghĩa là phá bỏ, xây
dựng lại hoàn toàn những gì do chính những người cộng sản, do chính nhân dân
lao động đã xây dựng nên. Đổi mới là trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý
24


của cái cũ, phát huy những yếu tố tốt đẹp của truyền thống quản lý nhà nước
nhằm góp phần ngày càng hoàn thiện công tác quản lý nhà nước trong giai đoạn
mới. Sửa đổi Pháp lệnh thanh tra - bộ phận quan trọng (có thể nói là tạo tiền đề)
của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Thanh tra nhà nước theo
hướng cải cách hành chính.
Đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống Thanh tra nhà nước dựa trên sự
tổng kết cả về lý luận và kinh nghiệm của nước ta và các nước tiên tiến trên thế
giới.
Để tăng cường hiệu lực cảu công tác quản lý nhà nước, Lênin xác định
công tác thanh tra có “vị trí đặc biệt quan trọng”.
Ở nước ta, ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh
thành lập Ban Thanh tra đặc biệt (23-11-1945). Trải qua nửa thế kỷ, Thanh tra
đã góp phần làm cho bộ máy quản lý nhà nước trong sạch, vững mạnh. Thanh
tra đã trở thành “tai mắt của trên, là bạn của dưới”.
Ngày nay, trong quá trình xây dựng đất nước, có nhiều vấn đề đặt ra, quá
trình trưởng thành và đổi mới đưa tới sự xuất hiện thêm nhiều vấn đề mới và

bộc lộ rõ thêm những yếu kém của bộ máy hành chính nhà nước, thể hiện tập
trung ở năm điểm lớn:
- Bệnh quan liêu, xa dân, xa cấp dưới và cơ sở.
- Tình trạng phân tán, thiếu trật tự, kỷ cương trong hệ thống hành chính
và trong xã hội.
- Nạn tham nhũng và lãng phí của công.
- Bộ máy hành chính cồng kềnh, nặng nề, vận hành trục trặc.
- Đội ngũ cán bộ, công chức thiếu kiến thức, năng lực, một bộ phận
không nhỏ kém phẩm chất, thậm chí hư hỏng (Bộ trưởng - Trưởng ban tổ chức
Chính phủ Phan Ngọc Tường, bài đăng trên Báo Nhân dân số ra ngày 11-101995, trang 3).
Trong báo cáo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Khánh đọc trước
kỳ họcp thứ 8 Quốc hội khoá IX tháng 10-1995 có nêu:
“Luật pháp không được chấp hành nghiêm túc, những hành vi vi phạm
pháp luật không được phát hiện, phê phán và xử lý nghiêm minh, thói quen lẩn
tránh và coi thường pháp luật không chỉ trong một số công dân mà cả trong
không ít cơ quan, cán bộ, công chức của Nhà nước”.
Ở đây thấy rõ những khuyết điểm trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
trong công tác thanh tra thi hành pháp luật. Và điều rất không bình thường, rất
đáng lo ngại là nhiều khi những hành vi tiêu cực, trái với pháp luật, trái với đạo
đức lại có sự dính líu, bao che hoặc tiếp tay của cán bộ, công chức nhà nước,
những người có chức, có quyền” (Báo nhân dân số ra ngày 14/10/1995).
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã xác định mục tiêu
của cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ
năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu
lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh,

25



×