Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với nông dân huyện phú tân trong quá trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

#"

13
PHAN THỊ CẨM HẰNG
LỚP DH9CT
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
NÔNG DÂN HUYỆN PHÚ TÂN TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHÓA HỌC: 2008 – 2012

AN GIANG, T5/2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

#"

PHAN THỊ CẨM HẰNG
LỚP DH9CT

CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
NÔNG DÂN HUYỆN PHÚ TÂN TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHÓA HỌC: 2008 – 2012

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
Th.S TRẦN VĂN HÙNG

AN GIANG, T5/2012


 
 
 
 
 
 

LỜI CẢM ƠN
………

 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 

Có được khóa luận như ngày nay, trước hết em xin chân thành cảm ơn:
Quý thầy, cô trường Đại học An Giang, nhất là quý thầy, cô khoa Lý
Luận Chính Trị đã giúp đỡ em trong suốt thời gian học tại trường.
Thầy Trần Văn Hùng đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Cán bộ phòng nông nghiệp phát triển nông thôn, Uỷ Ban Nhân Dân,
huyện ủy huyện Phú Tân cùng các cô chú trong ban quản lý đã tận tình giúp đỡ,
tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình khảo sát, phỏng vấn, trao đổi
thông tin, thu thập số liệu và những kiến thức thực tiễn.
Cảm ơn những bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thiện khóa luận này.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!

 
 

Long xuyên, ngày 04 tháng 5 năm 2012

 

Sinh viên thực hiện

 

PHAN THỊ CẨM HẰNG


 
 
 
 

 


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CSHT: Chính sách hỗ trợ
NEP: Chính sách kinh tế mới
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
WTO: Tổ chức thương mại thế giới


Trang 1 
 

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………1
PHẦN NỘI DUNG………………………………………….6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HỖ TRỢ CỦA NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ
1.1. Cơ sở lý luận cề các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân…………………………………………………………………………….6
1.1.1. Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh về hỗ trợ nông dân: ………………………………………………...6

1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hỗ trợ nông dân trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập:……………………………………………………….9
1.2. Sự cần thiết khách quan và nội dung hỗ trợ của Nhà nước đối với
nông dân trong quá trình hội nhập hiện nay………………………………….12
1.2.1. Sự cần thiết phải hỗ trợ nông dân trong giai đoạn hiện nay:……12
1.2.2. Nội dung chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân trong
hội nhập kinh tế quốc tế:……………………………………………………..14
1.3. Kinh nghiệm hoạch định và thực thi chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đối với nông dân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của một số
tỉnh ở Việt Nam và bài học đối với huyện Phú Tân………………………….18
1.3.1. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới:………………………...18
1.3.1.1. Kinh nghiệm hoạch định và thực thi chính sách hỗ trợ nông dân
của chính phủ Mỹ:……………………………………………………………18
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về hỗ trợ nông dân trong hội nhập
kinh tế quốc tế và thực thi các cam kết gia nhập WTO:……………………...20
1.3.1.3. Chính sách của Thái Lan:……………………………………...20
1.3.2. Những bài học có ý nghĩa đối với Việt Nam:……………………21
Chương 2: THỰC TRẠNG HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG
DÂN HUYỆN PHÚ TÂN HIỆN NAY
2.1. Khái quát tình hình nông nghiệp, nông thôn, nông dân huyện Phú
Tân hiện nay…………………………………………………………………24
2.2. Thực trạng chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân huyện
Phú Tân hiện nay…………………………………………………………….25


Trang 2 
 

2.3. Những nhận xét, đánh giá về hệ thống các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân………………………………………………….37

Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ
NÔNG DÂN HUYỆN PHÚ TÂN GIAI ĐOẠN 2011 – 2020
3.1. Quan điểm cơ bản………………………………………………...43
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả chính sách hỗ trợ của nhà nước
đối với nông dân Phú Tân đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020……..45
3.3. Giải pháp đổi mới chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân huyện Phú Tân giai đoạn 2011 – 2020…………………………………49
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………..59


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài:
Phú Tân là một huyện có thế mạnh về nông nghiệp, nông dân là lực lượng
chiếm đa số trong xã hội. Do vậy, sự phồn thịnh và ấm no của nông dân sẽ là
nhân tố cơ bản quyết định tăng trưởng và phát triển bền vững của huyện. Sau gần
25 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp,
nông dân, nông thôn huyện Phú Tân đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to
lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ cao theo hướng sản xuất hàng hóa,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; kinh tế nông thôn chuyển dịch theo
hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản suất tiếp
tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng
nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của đại đa số nông dân ngày
càng được cải thiện. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng
cao.
Tuy nhiên, những thành tựu mà nhân huyện dân Phú Tân đạt được thời
gian qua chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các

vùng. Nông nghiệp phát triển có dấu hiệu kém bền vững, tốc độ tăng trưởng
có xu hướng chậm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho
phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách
thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân
tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Các hình thức
tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất
hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực
thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh
thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng sâu,
vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng
còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Những khó khăn, thách thức trên ngày càng bộc lộ rõ và tăng mạnh mẽ
khi tỉnh An Giang nói chung và huyện Phú Tân nói riêng hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới. Sản xuất và đời sống của đại đa số nông dân đối mặt
với nhiều sức ép, thiếu ổn định, không đảm bảo. Trong khi đó, mặc dù có
nhiều cố gắng, nhưng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân
trong quá trình sản xuất kinh doanh vừa thể hiện sự lúng túng, vừa chưa đáp
ứng yêu cầu, hiệu quả chưa cao.

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

Có thể thấy quá trình hội nhập quốc tế đang tạo ra cho nông nghiệp,
nông dân, nông thôn huyện Phú Tân nói riêng và An Giang nói chung nhiều

cơ hội và điều kiện thuận lợi, nhưng cũng gây nên nhiều khó khăn, thách thức.
Vậy phải làm gì và làm như thế nào để hỗ trợ nông dân, giúp nông dân vượt
qua những khó khăn, phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh của nền nông nghiệp
nhiệt đới, đương đầu với cạnh tranh từ hàng nông sản nước ngoài, nhưng lại
phải phù hợp với thông lệ quốc tế, đang là những vấn đề cấp thiết hiện nay.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với
nông dân huyện Phú Tân trong quá trình hội nhập quốc tế” là rất cần thiết,
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2/ Tình hình nghiên cứu đề tài:
Xuất phát từ một nước nông nghiệp nên trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, vấn đề hỗ trợ cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong đó, một số công trình nghiên
cứu có liên quan như:
- “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp
Việt Nam” của TS Nguyễn Từ chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, H.2008.
Cuốn sách đã trình bày khái quát về hội nhập kinh tế quốc tế, các hiệp định
thương mại, khu vực và toàn cầu liên quan đến nông nghiệp nói chung, nông
nghiệp Việt Nam nói riêng; những ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến
phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những năm qua; những quan điểm và
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông nghiệp Việt Nam trong những năm
tới.
- Công trình “Tăng cường nội lực hội nhập quốc tế cho ngành nông nghiệp
và phát triển nông thôn” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
AUSAID nghiên cứu (năm 2004) đề cập nhiều vấn đề cơ bản liên quan đến hội
nhập nông nghiệp như những quy định về nông nghiệp trong AFTA, WTO và các
quốc gia phải thực hiện, đánh giá một số văn bản hiện hành về nông nghiệp của
Việt Nam, những khó khăn và các nước tham gia WTO gặp phải những khuyến
nghị cho việc hoàn thiện chính sách nông nghiệp của Việt Nam khi gia nhập
WTO.
- Bài viết “Giúp nông dân hội nhập WTO”, tác giả Nguyễn Huyền trong

www.vneconomy.vn, cho rằng để giúp nông dân sản xuất hàng nông sản đáp ứng
thị trường xuất khẩu trong thời hội nhập, cách tốt nhất là hỗ trợ cho nông dân
thông tin thị trường cần thiết, đó là cách tốt nhất giúp cho nông dân trong thời hội
nhập.
- Bài “Hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của GS, TS Hoàng

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

Ngọc Hòa, Tập chí Lý luận chính trị, số 12/2008. Bài báo đã nêu lên sự cần
thiết khách quan và những căn cứ xuất phát của việc hỗ trợ nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, đồng thời đã đưa ra một số giải pháp mang tính khả thi.
Tuy có nhiều công trình khoa học nghiên cứu như đã trình bày trên đây,
nhưng vấn đề hỗ trợ nông dân trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong
điều kiện một huyện nông nghiệp như Phú Tân chưa giành được sự quan tâm
thỏa đáng. Cho đến nay, về cơ bản vẫn chưa có một công trình khoa học nào
đi sâu nghiên cứu lĩnh lực này.
3/ Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
a) Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách hỗ trợ của Nhà nước
đối với nông dân trong điều kiện hội nhập; phân tích, đánh giá đúng thực trạng
hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân huyện Phú Tân trong quá trình hội nhập
quốc tế những năm qua; đi sâu đánh giá về những điểm hợp lý, bất hợp lý của
hệ thống các chính sách này. Trên cơ sở đó, đề xuất các phương hướng và giải
pháp để đổi mới, nâng câo hiệu quả hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân Phú

Tân trong những năm tới.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân.
- Phân tích thực trạng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân Phú Tân hiện nay; trên cơ sở đó đi sâu đánh giá về tính hợp lý, bất hợp lý
của hệ thống các chính sách hiện nay.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp có tính khả thi để góp phần
giúp bà con nông dân Phú Tân phát huy tốt tiềm năng, đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả phát triển sản xuất – kinh doanh, phát triển bền vững trong môi
trường hội nhập.
4/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a) Đối tượng:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước, của Tỉnh, của huyện tác động đến nông dân huyện Phú Tân hiện
nay.
- Việc nghiên cứu, xem xét, đánh giá các chính sách chủ yếu giới hạn
trong khuôn khổ các quy định, hiệp định, cam kết gia nhập WTO của Việt
Nam.
a) Phạm vi:

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

- Đề tài chỉ nghiên cứu các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông

dân huyện Phú Tân, từ năm 2006 đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
5/ Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu:
a) Cách tiếp cận:
- Việc nghiên cứu đề tài được tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành kinh tế
chính trị để xem xét, phân tích, đánh giá và tìm ra xu hướng vận động, phát
triển chung của các chính sách hỗ trợ nông dân của nhà nước.
- Căn cứ để tìm hiểu, phân tích, đánh giá là những chính sách của Nhà
nước do địa phương ban hành.
- Nghiên cứu chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân huyện
Phú Tân trước hết là xem xét, đánh giá tác động của những chính sách của tỉnh
của huyện tác động đến phát triển sản xuất và đời sống của nông dân huyện
Phú Tân trong quá trình hội nhập. Xem xét những chính sách nào cần thiết,
phù hợp và chưa phù hợp theo thông lệ quốc tế.
- Thu thập thông tin và trao đổi ý kiến với các sở, ban ngành và địa
phương có liên quan: Hội Nông dân, ngành nông nghiệp, trung tâm hỗ trợ nông
dân; chính quyền cơ sở…Nội dung chủ yếu là những kết quả đạt được, khó
khăn, hạn chế trong thực thi các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân thời gian qua.
b) Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp xuyên suốt của đề tài là sử dụng phép duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra đề tài còn sử dụng một số phương pháp
cụ thể là: phân tích – tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
v.v..
6/ Những đóng góp mới của đề tài:
a) Về mặt lý luận:
- Khái quát lại những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà nước ta trong việc hỗ trợ nông dân.
- Khẳng định sự cần thiết khách quan và những nội dung hỗ trợ của Nhà
nước đối với nông dân theo những quy định của WTO.
- Khái quát thực tiễn và những bài học kinh nghiệm trong thực thi các

chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân huyện Phú Tân.
b) Về mặt thực tiễn:
Đây là đề tài mang tính tổng kết thực tiễn, phù hợp với quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn trong suốt chặng đường đổi mới, đặc biệt là trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế.

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

Việc nghiên cứu đề tài sẽ cung cấp những luận cứ khoa học để các cơ
quan, ban ngành chức năng của huyện hoạch định và thực thi những chính
sách hỗ trợ nông dân một cách thiết thực, hiệu quả. Ngoài ra, đây cũng là cơ
sở để kiến nghị tỉnh sửa đổi, bổ sung các chính sách phù hợp, nhằm từng bước
tháo gỡ những khó khăn của nông dân huyện Phú Tân nói riêng và An Giang
nói chung.
7/ Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu; kết luận và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, đề tài được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HỖ TRỢ CỦA NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ.
1.1. Cơ sở lý luận cề các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân.
1.2. Sự cần thiết khách quan và nội dung hỗ trợ của Nhà nước đối với
nông dân trong quá trình hội nhập hiện nay.

1.3. Kinh nghiệm hoạch định và thực thi chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đối với nông dân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của một số
tỉnh ở Việt Nam và bài học đối với huyện Phú Tân.
Chương 2: THỰC TRẠNG HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG
DÂN HUYỆN PHÚ TÂN HIỆN NAY.
2.1. Khái quát tình hình nông nghiệp, nông thôn, nông dân huyện Phú
Tân hiện nay.
2.2. Thực trạng chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân huyện
Phú Tân hiện nay.
2.3. Những nhận xét, đánh giá về hệ thống các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân.
Chương 3: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ
NÔNG DÂN HUYỆN PHÚ TÂN GIAI ĐOẠN 2011 – 2020.
3.1. Quan điểm cơ bản.
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả chính sách hỗ trợ của nhà nước
đối với nông dân huyện Phú Tân đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
3.3. Giải pháp đổi mới chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân huyện Phú Tân giai đoạn 2011 – 2020.

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HỖ TRỢ CỦA
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Cơ sở lý luận cề các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
dân.
1.1.1. Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ Tịch
Hồ Chí Minh về hỗ trợ nông dân:
C.Mác và F.Ăngghen đã khẳng định rằng, lao động có năng suất cao
trong nông nghiệp là cơ sở phát triển của một xã hội và là tiền đề của mọi lịch
sử, vì nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm thiết yếu nhất để nuôi sống
con người, sản xuất ra nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. C.Mác cho rằng,
toàn bộ việc sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó toàn bộ sự phát triển của tư
bản, xét về mặt cơ sở tự nhiên, trên thực tế đều dựa vào năng suất của lao động
nông nghiệp… Năng suất lao động nông nghiệp vượt quá nhu cầu cá nhân của
người lao động là cơ sở của mọi xã hội… Chủ thể của sản xuất nông nghiệp là
nông dân, vì vậy nông dân có vai trò đặc biệt quan trọng.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho
rằng muốn xây dựng công nghiệp thì phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân.
Luận điểm này xuất hiện khi V.I.Lênin bắt tay vào giải quyết cuộc khủng
hoảng kinh tế - chính trị - xã hội sau chiến tranh bằng chính sách kinh tế mới
(NEP) từ đầu tháng 3 năm 1921. Luận điểm “bắt đầu từ nông dân” không phải
chỉ là những vấn đề riêng biệt, mà là nhằm giải quyết vấn đề mối quan hệ kinh
tế giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa công nhân với nông dân, giữa thành
thị với nông thôn và mối quan hệ chính trị giữa Nhà nước với nông dân cùng
mối quan hệ liên minh giai cấp giữa công nhân với nông dân và tầng lớp trí
thức, tạo cơ sở xã hội vững chắc của chính quyền Xô Viết.
Theo V.I.Lênin, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đa số
trong dân cư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì chính sách phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn trước hết phải coi trọng lợi ích của nông dân.
Bởi vì, muốn cải thiện đời sống của công nhân và nông dân thì phải khôi phục
nền kinh tế quốc dân, mà trước hết là công nghiệp. Nhưng để khôi phục công
nghiệp thì phải bắt đầu từ thúc đẩy nền nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

để có nguồn nguyên liệu, lương thực và thực phẩm cần thiết. “ Vì muốn cải

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

thiện đời sống của công nhân thì phải có lúa mỳ và nhiên liệu… Thế mà chúng
ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mỳ, tăng thêm dự trữ và vận
chuyển nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống của nông dân, bằng cách nâng
cao lực lượng sản xuất của họ. phải bắt đầu từ nông dân”. [ V.I.Lenin (1978),
Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Matxcơva tr 29;462].
V.I.Lênin cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế
còn kém phát triển, văn hóa lạc hậu, không những phải “bắt đầu từ nông dân”
mà còn phải làm sao đưa nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những lợi
ích thiết thân cho nông dân, làm cho công cuộc xây dựng chế độ mới trở thành
sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân. Lênin đã tìm ra được câu trả lời
cho vấn đề đó bằng “ chế độ hợp tác xã văn minh”. NEP và chế độ hợp tác xã
văn minh là những bộ phận không thể tách rời của một chiến lược đưa nông
nghiệp, nông dân, nông thôn đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn đưa nông dân đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa, theo Lênin, phải có sự hỗ trợ của Nhà nước
như là một nguyên tắc cách mạng thiết yếu phải thực hiện.
Kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện Việt Nam, Bác Hồ cho rằng, muốn nâng cao đời sống của nhân dân,
thì trước hết phải giải quyết vấn đề ăn, rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác.
Muốn giải quyết tốt vấn đề ăn, thì phải phát triển nông nghiệp để sản xuất lương
thực, thực phẩm. Vì vậy, phát triển nông nghiệp là việc cực kì quan trọng.
Bác Hồ nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế

đất nước, Người viết: “Sản xuất nông nghiệp…giải quyết vấn đề lương thực,
cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp,
công nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để mở rộng buôn bán với nước ngoài”.[
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr91].
Trong quá trình phát triển nông nghiệp, Bác Hồ nhấn mạnh, Nhà nước
phải hỗ trợ nông dân cả về tài chính lẫn đào tạo nguồn nhân lực, đồng thời phải
có các chính sách kinh tế thỏa đáng tạo điều kiện cho nông dân phát triển sản
xuất và đảm bảo phát triển hài hòa lợi ích kinh tế giữa nhà nước và nông dân.
Bác viết: “ Chính phủ phải xuất tiền xây dựng những trường học mời thầy để
đào tạo cán bộ các ngành về nông nghiệp. Chính phủ có trách nhiệm xây dựng
các công trình thủy lợi lớn và cùng nông dân, hợp tác xã làm những công trình
thủy lợi vừa. Để phát triển nông nghiệp, hợp tác xã phải tậu trâu bò, sắm nông
cụ, mua phân hóa học… Hợp tác xã còn nghèo, thường thường chính phủ phải
giúp đỡ, phải cho vay vốn”. ”.[ Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr414].
Tóm lại, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều rất quan tâm
đến vấn đề hỗ trợ nông dân trong quá trình phát triển. Điều này xuất phát từ vị

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

trí, vai trò quan trọng của nông dân, từ yêu cầu tăng cường liên minh giai cấp,
cũng như từ bản chất của chế độ xã hội.
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hỗ trợ nông dân trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập:
Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân

luôn chiếm vị trí quan trọng trong các chương trình nghị sự của Đảng và Nhà
nước. Trải qua các thời kì Đại hội Đảng, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và
nông dân ngày càng được Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn, trên cơ sở đó đề ra
những chủ trương, định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình, yêu cầu trong
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ nét
kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Tại Đại hội VI – Đại hội của đổi mới, Đảng đã đề ra những quan điểm, chủ
trương quan trọng về đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế; thực hiện ba chương
trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc đáp ứng
những yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu sản xuất, hàng
tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Phấn đấu đưa nông nghiệp trở thành nền nông nghiệp
sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Đại hội còn khẳng định, trong toàn bộ quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được tách rời nông nghiệp với công
nghiệp, không thể chỉ coi trọng nông nghiệp hoặc công nghiệp. Nhưng ở mỗi giai
đoạn, trong từng chặng đường, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác
nhau. Trong chặng đường hiện nay phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa…
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông
thôn và nông dân đối với sự nghiệp cách mạng, Đại hội VII của Đảng đã tiếp
tục phát triển nông, lâm, ngư nhiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển
toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục phát triển nội dung công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm từng bước nâng cao đời sống nông dân.
Theo đó, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây
đựng nông thôn mới, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt lẫn lâu dài. Gắn CNH, HĐH nông
nhgiệp, nông thôn với thực hiện dân chủ hóa, tạo ra sự phân công lao động mới,
giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng nông thôn mới.

Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5, khóa IX, đã đề
ra Nghị quyết về “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn thời kỳ 2001- 2010”. Nghị quyết Trung ương 5 là sự kế thừa, phát triển

 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

những quan điểm, chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp lớn
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong những năm
tiếp theo. Trong đó, Nghị quyết đề ra các chủ trương lớn có tác động trực tiếp
đến nông dân như:
Về đất đai: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nông nghiệp thực hiện
đầy đủ, đúng pháp luật các quyền sử dụng đất đai; khuyến khích nông dân
thực hiện “dồn điền, đổi thửa” trên cơ sở tự nguyện; nông dân được sử dụng
giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất,
kinh doanh, liên doanh, liên kết… Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật…
Về tài chính, tín dụng: Nhà nước cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư
thích đáng cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu tư
theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Miễn thế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền cho nông dân đến
2010. Điều chỉnh, bổ sung các chính sách thuế nhằm khuyến khích doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế nông thôn.
Về lao động và việc làm: Dành vốn ngân sách đầu tư nâng cấp các cơ sở
dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội

hóa, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, bảo đảm hàng năm đào tạo
nghề cho khoảng một triệu lao động, đưa tỉ lệ được đào tạo nghề lên khoảng
30% vào năm 2010.
Về thương mại và hội nhập kinh tế: thực hiện sơ sở hạ tầng và bảo hộ
hợp lý một số ngành hàng có triển vọng nhưng còn khó khăn, như: chăn nuôi,
rau quả… bằng nhiều hình thức (thông tin thị trường, giống, thú y…) để nông
dân phát triển sản xuất và hạn chế được những rủi ro trong quá trình thực hiện
các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X của Đảng đã
khẳng định phát triển nông nghiệp, nông thôn là sự lựa chọn bước đi đúng đắn
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời chủ trương
đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phải phát triển toàn diện nông
nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng
tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị
trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa
học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
10 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội X, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 26/NQ – TW về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, trong đó xác định rõ, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ

sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững
ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ gìn phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ gắn với quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển
nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân
phải dựa trên cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều
kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các
điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tăng mạnh đầu tư
của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ
tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn; phát triển nguồn nhân lực nâng cao dân
trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính chị và toàn xã hội, trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu
nước, tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông
thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản
sắc dân tộc, tạo động lực phát triển, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp
và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nhân dân.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2010 – 2020 được trình
bày tại Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục cụ thể hóa chủ trương, chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trong điều
kiện mới, trong đó nhấn mạnh: “ Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt
đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và
khả năng cạnh tranh cao... Đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh doanh
nông sản, trước hết là kinh doanh lúa gạo; … Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên
ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy
trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị

gia tăng trên một đơn vị đất canh tác. Hỗ trợ phát triển các khu nông nghiệp
công nghệ cao…”. [19;114].
Quán triệt và vận dụng quan điểm, chủ trương, chính sách của Trung
ương, huyện Phú Tân đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách có tính chất đột
11 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

phá trong thực hiện chính sách “Tam nông”, trong đó huyện xác định nông
nghiệp là nền tảng – là mặt trận hàng đầu, nông dân là chủ thể của quá trình
đổi mới và nông thôn là địa bàn chiến lược. Chính những chủ trương, chính
sách đúng đắn, sáng tạo của huyện đã góp phần đưa kinh tế - xã hội huyện Phú
Tân không ngừng phát triển, đời sống nông dân không ngừng nâng lên…
1.2. Sự cần thiết khách quan và nội dung hỗ trợ của Nhà nước đối
với nông dân trong quá trình hội nhập hiện nay.
1.2.1. Sự cần thiết phải hỗ trợ nông dân trong giai đoạn hiện nay:
Thực tiễn lịch sử phát triển thế giới cận đại, hiện đại và thực tiễn công
cuộc cải cách mở cửa, đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và diễn ra
trong mấy thập niên gần đây cho thấy: không có sự ổn định của nông thôn sẽ
không có sự ổn định của cả nước, không có sự sung túc của nông dân sẽ không
có sự sung túc của nhân dân cả nước, không có hiện đại hóa nông nghiệp sẽ
không có hiện đại hóa toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong công cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, nông dân là lực lượng chủ yếu, trung thành tuyệt đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Khẩu hiệu “ Thóc không thiếu một
cân, quân không thiếu một người” thể hiện khá đầy đủ sức đóng góp to lớn của
nông dân. Sau hơn 25 năm đổi mới, trong thành quả chung đời sống nông dân

đã được cải thiện. Nhưng do sản xuất nhỏ, manh mún, thiên tai, nông dân vẫn
đang phải đối mặt với những khó khăn. Hiện nay, khoảng 73% lực lượng lao
động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, 13,2 triệu hộ, trong đó 11 triệu hộ
chuyên sản xuất nông nghiệp. Đây là khu vực có mức thu nhập thấp và không
ổn định. Khó khăn về kinh tế, tiềm ẩn những bất ổn về chính trị, nếu những vấn
đề này không được giải quyết hợp lý để hình thành cầu nối gắn chặt nông dân
với quá trình xây dựng, triển khai chính sách thì Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong việc ổn định phát triển kinh tế bền vững trong thời gian tới.
Trong những năm qua nhà nước đã ban hành một số chính sách: thừa
nhận hộ nông dân là đơn vị sản xuất tự chủ, giao ruộng đất cho nông dân sử
dụng lâu dài, hỗ trợ nông dân tiếp cận các nguồn vốn, khoa học và công nghệ,
xóa đói giảm nghèo, giảm miễn thế nông nghiệp,…Đã tạo động lực sức sản
xuất phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân.
Tham gia hội nhập quốc tế và thực hiện các cam kết WTO, nền kinh tế
Việt Nam phải thực hiện một số cải cách theo hướng: tiến hành những điều
chỉnh cơ cấu liên quan đến hộ nông dân. Do phải xóa bỏ nhiều khoảng trợ cấp
nông nghiệp và cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản, nên có thể diễn ra xu
hướng: Thu nhập của nông dân giảm sút do giá đầu vào ngày càng tăng,
khoảng cách thu nhập giữa cư dân thành thị và nông thôn gia tăng và có khả
năng tăng tỉ lệ hộ nghèo và đói.
12 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

Sự dôi dư lao động nông nghiệp làm tăng nguồn cung lao động phổ thông
dẫn đến tình trạng thiếu việc làm gây sức ép cho xã hội. Một đất nước 70% dân

số làm nông nghiệp và khi hơn 10 triệu hộ nông dân phải đương đầu với những
khó khăn sức ép cạnh tranh từ hàng nông sản nước ngoài tất yếu đời sống của họ
sẽ bị ảnh hưởng, từ đó sẽ nảy sinh những vấn đề xã hội không nhỏ. Chúng ta cần
khẩn trương hoàn tất kế hoạch tổng thể về giải quyết vấn đề “Tam nông” khi phải
thực hiện các cam kết WTO và những chính sách đặc thù đối với nông dân không
thể muộn hơn.
Nội dung các “Biểu cam kết về hàng hóa” và “Biểu cam kết về dịch vụ”
cho thấy, để thực hiện các cam kết này, nền kinh tế nước ta phải vượt qua
nhiều khó khăn. Quá trình thực hiện những cam kết đó sẽ tác động đến nông
nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong cam kết đa phương, Việt Nam đồng ý
tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO
từ thời điểm gia nhập và WTO cũng chấp nhận cho Việt Nam được một thời
gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc
biệt, trợ cấp cho phi nông nghiệp, quyền kinh doanh v.v. Trong cam kết về
thuế nhập khẩu, Việt Nam đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế .
Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn
13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng
nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện sau 5 năm.
Với những cam kết nói trên, nhìn một cách tổng thể, trong quá trình thực hiện sẽ
có một sự thay đổi hết sức quan trọng về hoạt động thương mại, thị trường Việt
Nam sẽ mở rộng cửa đối với hàng hóa nông sản và dịch vụ của các nước thành
viên, và đổi lại, Việt Nam cũng sẽ được hưởng những quyền đó khi hàng nông
sản của Việt Nam thâm nhập thị trường các nước WTO. Tuy nhiên, khả năng
thực hiện quyền này của Việt Nam và các nước không ngang nhau. Sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam vẫn là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tập quán sản xuất
nhỏ, năng suất, chất lượng thấp, trong khi đó, nhiều thành viên của WTO có nền
nông nghiệp sản xuất lớn phát triển ở trình độ cao. Nông dân Việt Nam phải đối
diện bốn luật chơi cực kỳ khó khăn. Đó là: Luật chơi về an toàn thực phẩm, luật
chơi về chất lượng, luật chơi về số lượng, luật chơi về giá cả.
Do vậy, cần phải tạo được môi trường lành mạnh, bình đẳng cho nông

nghiệp, nông dân, nông thôn. Tuy nhiên, để có được môi trường cạnh tranh
như vậy và phù hợp với quy định WTO thì tự bản thân nông dân trên tất cả các
cấp độ đều phải nổ lực vươn lên, nhưng cũng không thể tạo ra được và đòi hỏi
phải có vai trò “Nhạc trưởng” và “Mạnh thường quân” của Nhà nước với sự
tác động đồng bộ, có hiệu quả từ trong hoạch định chiến lược, quy hoạch kế
13 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

hoạch phát triển đến tạo môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thúc đẩy và
đầu tư phát triển.
Như vậy, có thể thấy hội nhập quốc tế đang tạo ra cho nông dân An
Giang nói chung và nông dân Phú Tân nói riêng nhiều cơ hội và thách thức:
Làm thế nào để sản phẩm do nông dân làm ra không bị mất thị phần ngay trên
sân nhà khi chúng ta thực hiện giảm thế nhập khẩu WTO?. Làm thế nào để
phát huy lợi thế so sánh một số nông sản mà nước ta có thế mạnh. Vì vậy, Nhà
nước cần phải có một hệ thống chính sách đồng bộ nhằm hỗ trợ nông dân
tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất nông sản, phát triển sản xuất, nâng cao thu
nhập và chất lượng cuộc sống cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH đất
nước, hạn chế những yếu kém, bất lợi và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Nội dung chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân
trong hội nhập kinh tế quốc tế:
1.2.2.1. khái niệm:
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, chính sách được hiểu là: những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản

chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc tính chất của đường
lối, nhiệm vụ trính trị, kinh tế, văn hóa.
Theo TS. Lê Chi Mai, chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh
đạo hay quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc thẩm quyền của họ.
Trên cơ sở quan niệm như vậy, có thể định nghĩa chính sách hỗ trợ của
Nhà nước đối với nông dân như sau: Chính sách hỗ trợ (CSHT) của nhà nước
đối với nông dân là tổng thể các quan điểm, chủ trương, đường lối, phương
pháp và công cụ mà Nhà nước tác động vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và
nông dân nhằm thực hiện các mục tiêu mà nhà nước mong muốn ở nông dân.
Theo định nghĩa này, nội hàm CSHT của Nhà nước đối với nông dân
bao gồm các nội dung:
- Thứ nhất, chủ thể của CSHT nông dân được đề cập là Nhà nước. 
- Thứ hai, mục tiêu của CSHT nông dân bao gồm cả khía cạnh kinh tế,
chính trị và xã hội. 
- Thứ ba, mỗi Nhà nước có hệ quan điểm riêng và có xuất phát lịch sử
riêng trong việc đối xử với nông dân và hệ quan điểm này lại ảnh hưởng sâu
sắc đến cách thức, phương tiện và công cụ để thực thi CSHT nông dân. 
1.2.2.2. Những quy định hiện hành của WTO về hỗ trợ nông dân:
Thực tế cho thấy, nông dân luôn là người chịu thiệt và yếu thế trong cơ
chế thị trường. Điều này còn bởi bản chất thị trường là cạnh tranh, kẻ mạnh sẽ
mạnh lên và kẻ yếu càng yếu đi, cuối cùng kẻ mạnh thắng kẻ yếu. Bản thân
14 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

sản xuất nông nghiệp cũng hàm chứa rủi ro cao vì biến động giá cả và thời tiết,

đầu tư cho nông nghiệp là bắt buộc không thể thiếu đối với xã hội.
Với chúng ta, vì nghèo và cũng có thể chưa nhận thức rõ điều này, nên
hỗ trợ cho nông nghiệp và nông dân bị xem nhẹ. Tham gia vào WTO, dự báo
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn của
chúng ta sẽ chịu nhiều tác động xấu do năng lực cạnh tranh và trình độ sản
xuất thấp như đã nêu trên. Đã nhiều năm mặt dù nông nghiệp vẫn trụ được
trước áp lực WTO, nhưng về lâu dài thì nông nghiệp phát triển không bền
vững, nông dân sẽ đuối sức trước dòng xoái hội nhập. Vì vậy, Nhà nước cần
có chương trình và lộ trình hỗ trợ cho nông nghiệp và nông dân dài hơn, bài
bản và căn cơ, để họ không chỉ chống chọi được mà còn mạnh dần hơn, thích
ứng với những điều kiện, môi trường cạnh tranh với toàn cầu.
Tuy nhiên, hỗ trợ cần đúng với những cam kết hội nhập, nhất là nguyên
tắc của WTO. WTO cho phép trợ cấp cho nông nghiệp (trừ trợ cấp xuất khẩu)
có thể lên đến 10% GDP của ngành. Hiện chúng ta hỗ trợ cho nông nghiệp còn
quá ít, không đáng kể, chưa tạo ra được bước đột phá mạnh trong phát triển
nông thôn.
Theo quy định của WTO, trợ cấp nông nghiệp là các hình thức hỗ trợ của
Chính phủ cho việc sản xuất, tiêu thụ nông sản (cho sản xuất nông nghiệp nói
chung, cho một vùng nông nghiệp hoặc cho một sản phẩm cụ thể). Trợ cấp
nông nghiệp chia làm hai nhóm:
• Nhóm các chính sách hỗ trợ trong nước.
• Nhóm các chính sách hỗ trợ, trợ cấp xuất khẩu nông sản.
Theo hiệp định Nông nghiệp, trợ cấp trong nước đối với nông nghiệp
được chia làm 3 nhóm với các cơ chế áp dụng khác nhau. Là thành viên WTO,
Việt Nam sẽ phải tuân thủ các cơ chế này. Về cơ bản các loại trợ cấp đều được
phép thực hiện, nhưng theo các điều kiện và giới hạn cụ thể.
™ Trợ cấp “hộp xanh lá cây” bao gồm các biện pháp trợ cấp thuộc một
trong 05 nhóm xác định và phải đáp ứng đủ 3 điều kiện cụ thể.
Là thành viên WTO, Việt Nam có thể tùy ý thực hiện các loại trợ cấp
nông nghiệp nội địa thuộc hộp xanh lá cây, không phải cam kết cắt giảm,

không bị các thành viên khác khiếu kiện. Cụ thể:
- Nhóm 1 – Trợ cấp cho các dịch vụ chung:
Ví dụ: trợ cấp cho nghiên cứu khoa học; kiểm soát dịch bệnh; đào tạo;
khuyến nông; tư vấn; kết cấu hạ tầng nông nghiệp; thông tin thị trường.
- Nhóm 2 – Trợ cấp nhằm mục tiêu dự trữ an ninh lương thực quốc gia.
- Nhóm 3 – Trợ cấp lương thực trong nước.
- Nhóm 4 – Hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai.
15 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

- Nhóm 5 – Hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất.
™ Trợ cấp “hộp xanh lơ” là những hình thức trợ cấp trực tiếp cho người
sản xuất trong chương trình hạn chế sản xuất nông nghiệp cũng được miễn trừ
cam kết cắt giảm với các điều kiện:
• Những trợ cấp dựa trên những năng suất cố định.
• Trợ cấp tối đa bằng 85% hoặc ít hơn mức sản xuất cơ sở.
• Trợ cấp trong chăn nuôi dựa trên số đầu con cố định.
™ Trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” là tất cả các trợ cấp trong nước không
thuộc nhóm “hộp xanh lá cây ” và “hộp xanh lơ” hoặc “chương trình phát triển
sản xuất”. Đây là hầu hết các loại trợ cấp có tác động làm biến động thương mại.
Đối với trợ cấp xuất khẩu: Trợ cấp xuất khẩu cho nông nghiệp là biện
pháp bị cấm hoàn toàn đối với tất cả các nước gia nhập WTO sau 1/1/1995.
Tuy nhiên, trong trường hợp nước đang phát triển, trợ cấp nhằm giảm chi phí
tiếp cận thị trường nước ngoài và trợ cấp vận tải nội địa và quốc tế cho hàng
xuất khẩu sẽ không bị xếp vào các hình thức trợ cấp xuất khẩu bị cấm.

So với các hình thức trợ cấp khác, trợ cấp xuất khẩu gây ra hệ quả bóp
méo thương mại quốc tế nhiều nhất và vì vậy quy định đối với hình thức trợ
cấp này cũng nghiêm ngặt nhất.
1.2.2.3. Nội dung hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân:
Căn cứ vào những quy định hiện hành của WTO và những cam kết gia
nhập của Việt Nam, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân bao
gồm một số nội dung cơ bản sau:
a) Nội dung căn bản nhất của chính sách hỗ trợ nông dân là xây dựng
kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn:
Ở bất cứ nơi nào, nông dân cũng là giai cấp yếu thế về kinh tế, chính trị,
là bộ phận dân cư có sở hữu ít nhất nguồn của cải đã được tích lũy của xã hội.
Trong khi đó, do đặc tính cư trú gắn liền với không gian sản xuất nông nghiệp
diễn ra trong một không gian rộng, nơi sinh sống của nông dân không tập
trung. Vì thế, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn thường vượt
quá khả năng của nông dân, cần được Nhà nước hỗ trợ.
b) Tạo điều kiện để nông dân tiếp cận nguồn lực thuận lợi, an toàn, chi
phí thấp:
Một trong những nguồn lực quan trọng nhất của nông dân là đất đai.
Đất là sản phẩm quý giá nhất của nhà nông. Không có đất đai, nông dân không
còn nguồn nào để sống. Chính vì thế Nhà nước phải hỗ trợ để nông dân có thể
sử dụng đất một cách thuận lợi với chi phí thấp.
Nguồn lực thứ hai nông dân thường khó tiếp cận là nguồn vốn. Thị
trường tín dụng khó phát triển ở nông thôn do việc cung cấp tín dụng cho nông
16 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 


dân không hấp dẫn các ngân hàng thương mại vì tính rủi ro và chi phí lớn. Nếu
không có tín dụng, nông dân không thể tổ chức sản xuất hiệu quả.
Nguồn lực thứ ba vô cùng quan trọng đối với nền nông nghiệp hiện đại và
hiệu quả là khoa học, kỹ thuật và kỹ năng lao động. Vì vậy, để giúp nông dân tiếp
cận khoa học kỹ thuật hiện đại, nhà nước phải trợ giúp nghiên cứu, trợ giúp chuyển
giao công nghệ và hỗ trợ đào tạo kỹ thuật cho người lao động nông nghiệp.
c) Tạo điều kiện để nông dân có sức mạnh thỏa thuận trên thị trường
tiêu thụ nông sản:
Nhà nước cần hỗ trợ để nông dân tự liên kết với nhau theo ngành nghề
nhằm tạo sức mạnh và vị thế khi bán nông sản, qua đó tự bảo vệ lợi ích của
mình. Nhà nước cũng hỗ trợ nông dân hành động tập thể thông qua việc thành
lập các hợp tác xã ở các trình độ khác nhau. Do đó, hợp tác xã là tổ chức hỗ trợ
nông dân hơn là kinh doanh kiếm lời, nên nếu không có sự ủng hộ và hỗ trợ của
Nhà nước về phương diện tài chính, đất đai, cán bộ thì các hợp tác xã sẽ khó
hoạt động hiệu quả.
d) Giúp đỡ ổn định thu nhập khi nông dân gặp khó khăn:
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc lớn vào sự biến động của tự nhiên,
trong đó mưa, lũ, bão…có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến kết quả sản xuất
của nông dân, nhiều tổn thất nặng nề và khó tránh. Vì thế, khi xảy ra thiên tai,
dịch bệnh, người nông dân không thể tự xoay sở nếu không có sự hỗ trợ của
Nhà nước về nhiều phương diện như: hỗ trợ phòng dịch, dập dịch, hỗ trợ bù
đắp thu nhập do giá cả và sản lượng giảm, hỗ trợ nông dân nghèo…
e) Hỗ trợ việc làm cho nông dân:
Để tham gia vào sản xuất nông nghiệp hiện đại nông dân cần hai điều kiện:
- Thứ nhất, phải có đủ tri thức và kỹ năng về các mặt kinh tế, luật pháp,
khoa học kỹ thuật và tổ chức quản lý. Cần sự hỗ trợ của Nhà nước như cú húych
ban đầu nhằm tạo ra thế hệ nông dân mới có trình độ, có khả năng lao động với
năng suất và hiệu quả cao, từ đó tạo điều kiện nâng cao các thế hệ tiếp theo.
- Thứ hai, cần chuyển một bộ phận nông dân sang làm những ngành

nghề khác để tái cơ cấu nông thôn, hướng đến hiệu quả. Tuy nhiên, để chuyển
nghề, nông dân phải được đào tạo nghề mới. Bản thân người nông dân cũng
khó đảm đương được việc đào tạo chuyển nghề cho chính mình nếu không có
sự hỗ trợ đắc lực của Nhà nước và các tổ chức xã hội khác.
f) Hỗ trợ pháp lý, kỹ thuật, xã hội cho nông dân:
Kinh doanh nông nghiệp trong thời hiện đại cũng phức tạp không kém
các ngành công nghiệp và dịch vụ. Vì thế, Nhà nước cần hình thành mạng lưới
hỗ trợ và tư vấn cho nông dân về mặt pháp lý, kỹ thuật…
17 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

Ngoài ra Nhà nước phải cung cấp các hình thức bảo hiểm và phúc lợi xã
hội cho cư dân nông thôn để bảo đảm công bằng giữa nông thôn và thành thị,
nhất là cung cấp nước sạch, bảo hiểm rủi ro và các loại hình bảo hiểm khác.
Tóm lại, trong quá trình hội nhập quốc tế, Nhà nước phải sát cánh cùng
nông dân để không những hỗ trợ họ có cuộc sống không quá thấp so với đô
thị, mà còn giúp họ xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả.
1.3. Kinh nghiệm hoạch định và thực thi chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đối với nông dân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của một
số nước trên thế giới và bài học đối với Việt Nam:
Kinh nghiệm của các nước không phải là hình mẫu để nước ta dập khuôn
thực hiện trong nước nhưng đó là khối tri thức đã được tổng kết một cách khoa
học, có cơ sở thực tiễn. Hiểu biết kinh nghiệm của các nước khác để nhà nước
Việt Nam tránh được các sai lầm của các nước đi trước, đồng thời học tập
được những bài học hay mà lịch sử phát triển của họ đã kiểm chứng.

1.3.1. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới:
1.3.1.1. Kinh nghiệm hoạch định và thực thi chính sách hỗ trợ nông dân
của chính phủ Mỹ:
Mỹ không phải là nước tương đồng với Việt Nam nhưng các quy định
trong WTO chịu ảnh hưởng rất lớn của chính phủ Mỹ. Vì vậy, nghiên cứu
kinh nghiệm của Mỹ có ý nghĩa đối với nước ta.
Từ năm 1930 đến nay chính phủ Mỹ đã thi hành hàng trăm chính sách hỗ trợ
nông dân như: chính sách trợ giá nông phẩm, chính sách hỗ trợ nông dân tiếp thị,
chính sách khai hoang, chính sách tưới tiêu … Dưới đây là một số chính sách chủ
yếu:
* Chính sách hỗ trợ tín dụng:
Từ những năm 1920, tín dụng nông nghiệp đã trở thành công cụ chủ đạo
của Chính phủ Mỹ trong thực hiện chính sách hỗ trợ nông dân. Nguồn tín
dụng này đã khơi dòng vốn đầu tư vào nông nghiệp Mỹ. Cụ thể, luật tín dụng
nông nghiệp 1916 đã yêu cầu 12 ngân hàng Liên bang cấp tín dụng dài hạn ưu
đãi lãi suất cho nông dân mua đất và phương tiện sản xuất. Ngoài ra, chính
phủ Mỹ còn cung cấp các khoản tín dụng nhỏ cho nông dân nghèo, ít đất
thông qua chương trình tín dụng cho nông trại nhỏ.
Chính phủ Mỹ cũng cung cấp tín dụng cho trương trình điện khí hóa
nông thôn, xây dựng đường giao thông, thiết lập hệ thống điện thoại ở nông
thôn… Năm 1983 chính phủ Mỹ chi 206 tỷ USD cho tín dụng nông nghiệp.
*Chính sách trợ giá và bù giá nông phẩm.
Bắt đầu từ năm 1936, chính phủ Mỹ đã thực hiện nhiều chính sách để ổn
định giá nông sản. Trước hết là chính sách bù chi phí bảo trì đất, thực chất là
18 
 


CSHT c a Nhà n


c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

cung cấp tài chính để giảm chi phí sản xuất nông sản. Sau đó là chính sách trợ
cấp thu nhập cho nông dân theo Luật điều chỉnh nông nghiệp lần 2 (1938) với
mức trợ cấp 75% sức mua tương đương của thị trường trong trường hợp giá
nông sản hạ thấp thông qua các hình thức trợ cấp bằng tiền, giảm thuế, giảm lãi
suất các khoản cho vay.
Từ năm 1996, Chính phủ Mỹ thay đổi phương thức bù giá nông sản,
chuyển sang quy định gói tài chính bù giá cho 7 năm từ 1996 đến 2002 là 43
tỷ USD, phương thức tính bù giá theo diện tích canh tác, không phụ thuộc vào
giá thị trường và sức mua tương đương. Đây là động thái thích nghi của chính
sách hỗ trợ nông dân của Chính phủ Mỹ cho phù hợp với Hiệp định nông
nghiệp của WTO.
Thực tế này cho thấy, nếu các nước đang phát triển không thay đổi được
các quy định về trợ cấp nông nghiệp trong khuôn khổ WTO thì nông sản của
họ sẽ rất khó cạnh tranh với nông sản của nông dân Mỹ.
* Chính sách tổ chức thị trường nông sản:
Năm 1926, Quốc hội Mỹ thông qua Luật tổ chức tiếp thị nông phẩm, quy
định trách nhiệm của Bộ nông nghiệp trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ
nông sản cho nông dân. Từ đó nhiều chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại
nông sản được chuyển khai thực hiện theo hướng:
- Chính phủ hỗ trợ tổ chức mạng lưới phân phối nông sản hiệu quả thông
qua vai trò trung gian gắn kết người sản xuất với người tiêu thụ nông sản trên
quan điểm hài hòa lợi ích. 
- Điều tiết nhằm ổn định giá cả nông sản thông qua các trương trình trợ
cấp đa dạng cho nông dân. 
- Đề ra các tiêu chuẩn chất lượng nông sản tham gia thương mại trên thị
trường nội địa. 
Nổi bật là các chương trình thông tin thị trường cung cấp tình hình cung
cầu, giá cả, tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa trong nước và quốc tế cho cả

người mua, người bán, người sản xuất, đơn vị chế biến.
*Chính sách nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp:
Chính phủ Mỹ đã thực thi nhiều chương trình nhằm nâng cao năng suất
và sản lượng nông nghhiệp.
Với sự hỗ trợ của Luật Điện khí hóa nông nghiệp, Luật cũng cố trang trại
và phát triển nông thôn, Luật nhà đất, Uỷ ban nghiên cứu nông nghiệp đã triển
khai các bước công việc:
- Phủ điện toàn nông thôn nước Mỹ.
- Cơ giới hóa toàn bộ sản xuất nông nghiệp.
- Nối mạng thông tin toàn quốc đến từng nông trại.
19 
 


CSHT c a Nhà n

c đ i v i nông dân huy n Phú Tân trong quá trình h i nh p kinh t  QT 

Đến năm 1970, những phần công việc này đã hoàn thành, bài học rút ra
là Chính phủ Mỹ không bao cấp toàn bộ quá trình tăng năng suất nông nghiệp.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc về hỗ trợ nông dân trong hội nhập
kinh tế quốc tế và thực thi các cam kết gia nhập WTO:
Tổng kết kinh nghiệm 20 năm cải cách và phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn, Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ rõ: “không có sự ổn định của nông
thôn sẽ không có sự ổn định của cả nước, không có sự sung túc của nông dân
sẽ không có sự sung túc của nhân dân cả nước, không có hiện đại hóa nông
nghiệp sẽ không có hiện đại hóa toàn bộ nền kinh tế quốc dân”. Trong những
năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành một loạt chính sách có lợi cho việc giải
quyết vấn đề “Tam nông” như: thực hiện xóa bỏ thuế nông nghiệp và phụ thu
thuế nông nghiệp; trợ cấp cho nông dân sản xuất lương thực; thực hiện chế độ

khám chữa bệnh mới cho nhân dân cả nước, trong đó có việc giải quyết khám
chữa bệnh cho nông dân.
Hiện nay, Trung Quốc đang thực hiện một số thay đổi mang tính chất đột
phá trong chính sách đối với nông dân ở Trung Quốc như sau:
- Nhanh chóng giảm thuế để thu hút đầu tư vào nông nghiệp.
- Phát triển khu nông nghiệp công nghệ cao.
- Tăng cường khuyến nông và tăng quyền cho nông dân.
- Chính sách hỗ trợ tăng thu nhập cho nông dân.
- Chính sách hỗ trợ nông dân nâng cao trình độ.
- Chính sách hỗ trợ cho nông dân chuyển nghề.
Mặt dù có nhiều cố gắng trong việc đề ra các chính sách hỗ trợ nông dân,
song trên thực tế triển khai các chính sách còn chậm. Vì thế nông dân Trung
Quốc vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
1.3.1.3. Chính sách của Thái Lan:
Hiện nay, ở Thái Lan đang thực hiện các chính sách hỗ trợ nông dân một
cách thiết thực như sau:
- Hỗ trợ nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn GAP:
Cùng với Việt Nam, Thái Lan được coi là quốc gia xuất khẩu nông sản
hàng đầu thế giới. Để đạt được thành tích đó, Chính phủ nước này đã có
những đột phá rất lớn trong hoạch định chính sách, hỗ trợ nông dân xây dựng
vùng chuyên canh, tạo dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các “nhà” trong toàn
bộ chuỗi giá trị, từ sản xuất đến tiêu dùng.
Cho đến nay, diện tích sản xuất lúa, trái cây theo tiêu chuẩn GAP ở Thái
Lan ngày càng tăng.
- Chính sách trợ giá nông sản:
20 
 



×