Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Phát triển mô hình nuôi bò vỗ béo ở huyện chợ mới, tỉnh an giang trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

HUỲNH THỊ THÚY AN

PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH NUÔI BÕ VỖ BÉO
Ở HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
TRONG THỜI KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

KHÓA HỌC: 2010 – 2014

AN GIANG, tháng 05/2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng tôn kính và biết
ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn Trần Văn Hùng đã tận tình giúp đỡ, cố vấn
và trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Bên cạnh đó tôi cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành đến và tất cả quý Thầy,
Cô của trường Đại học An Giang nói chung và quý Thầy, Cô chuyên ngành
Chính trị nói riêng, cùng các ban ngành thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.
Và cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng kính yêu sâu sắc đến Ba Mẹ, Anh, Chị những người đã hỗ trợ và động viên tôi cả về vật chất lẫn tinh thần trong thời gian
học tập và nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………..............................................



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HTX: Hợp Tác Xã.


MỤC LỤC

Mục lục

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 2
3.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 2
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 3
6. Đóng góp mới của đề tài ................................................................................... 3
7. Ý nghĩa đề tài ................................................................................................... 3
8. Cấu trúc khóa luận ............................................................................................ 4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH ................................................................................... 5
1.1. Một số vấn đề chung về kinh tế hộ gia đình với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và phát triển kinh tế bền vững .............................................................................. 5
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế hộ gia đình ......................... 9
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế hộ gia đình .................................... 15

1.4. Quan điểm của Đảng Cộng Sản về kinh tế hộ gia đình................................. 18
1.5. Những chủ trương phát triển kinh tế hộ gia đình của tỉnh An Giang nói
chung và huyện Chợ Mới nói riêng ..................................................................... 23
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
GIA ĐÌNH NUÔI BÒ VỖ BÉO Ở CHỢ MỚI ................................................ 27
2.1. Thực trạng phát triển kinh tế hộ gia đình nuôi bò vỗ béo ở huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang ............................................................................................. 27


2.1.1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Chợ
Mới, tỉnh An Giang ............................................................................................. 27
2.1.2. Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát triển kinh tế hộ gia đình
trong nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến nay............................................ 28
2.1.3. Thực trạng phát triển nghề nuôi bò vỗ béo ở huyện Chợ Mới, tỉnh
An Giang…. ........................................................................................................ 31
2.1.4. Đánh giá hiệu quả nuôi bò vỗ béo ở huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang ................................................................................................................... 36
2.2. Phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế hộ gia đình nuôi bò vỗ béo
tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang ...................................................................... 45
2.2.1. Phương hướng phát triển kinh tế hộ gia đình nuôi bò vỗ béo tại
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang ........................................................................... 45
2.2.2. Những giải pháp cụ thể phát triển nghề nuôi bò vỗ béo trong kinh tế
hộ gia đình ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang .................................................... 47
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 51


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chợ Mới là một huyện nông nghiệp thuộc tỉnh An Giang, là một huyện
cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Phía Bắc giáp với huyện Phú tân,

phía Đông giáp với sông Tiền, phía Nam giáp tỉnh Đồng Tháp, và phía Tây
giáp sông Hậu.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuận lợi cho cây trồng vật nuôi phát triển quanh
năm. Hệ thống kênh, rạch chằng chịt, đáp ứng đủ nhu cầu nước tưới cho các cánh
đồng quanh năm.
Chợ Mới có diện tích 355,71 km2 với dân số 455.798 người. Mật độ
dân số: 1.281 người/km2. Chợ Mới là huyện đông dân nhất tỉnh, mật độ dân cư
xếp thứ 3, sau thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc. Chợ Mới có tổng số
đất tự nhiên: 36.928,9 ha (trong đó diện tích đất nông nghiệp: 27.681 ha; diện
tích đất ở: 2.483 ha; diện tích đất chuyên dùng: 3.005 ha). Nếu tính trên diện
tích đất tự nhiên, bình quân 1 hộ dân chưa có đến 0,5 ha đất; diện tích đất sản
xuất 22.133 ha, chỉ khoảng 0,3 ha/hộ.
Nếu như trước đây vào mùa nước nổi, lượng phù sa bồi đắp hằng năm
làm cho những cánh đồng phì nhiêu càng thêm màu mở, thuận lợi cho cây lúa
phát triển, nhưng cũng chính điều đó làm cho vụ lúa hè thu luôn ở trong tình
trạng bấp bênh, thường bị nhấn chìm khi mùa lũ về sớm.
Trước bối cảnh đó, huyện Đảng bộ chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, hình thành những vùng chuyên canh, đa canh, xen canh bằng cách thực
hiện chủ trương đê bao chống lũ từ năm 1997. Mỗi tiểu vùng đê bao bà con
nông dân có điều kiện tăng vụ, có điều kiện xen canh. Kết quả là sản lượng
lương thực tăng lên nhanh chóng qua từng năm. Trước thực tế bấp bênh của
cây lúa theo giá thị trường: trúng mùa thất giá làm cho thu nhập của bà con
nông dân giảm dần theo năm tháng trên cùng một diện tích.
Trong đó, kinh tế hộ gia đình góp phần quan trọng thúc đẩy nông
nghiệp huyện nhà ngày một phát triển. Ngoài ngành trồng trọt thì chăn nuôi
cũng được đặc biệt quan tâm và phát triển khá, trong đó chủ yếu bằng nghề
nuôi bò vỗ béo.
Tuy nhiên, thực trạng phát triển nghề nuôi bò vỗ béo ở huyện Chợ Mới
nói riêng và tỉnh An Giang nói chung đang tồn tại nhiều khó khăn và thử thách,
phát triển vẫn còn mang tính tự phát ở nhiều địa phương, chủ yếu theo phong

trào chưa có tính hệ thống và quản lý chặt chẽ, nhiều hộ gia đình muốn nuôi bò
nhưng không có vốn hoặc thiếu vốn, không có đất cho việc chăn nuôi, gặp khó

Trang 1


khăn trong việc tìm nguồn thức ăn cho bò, kỹ thuật nuôi bò chưa được hiệu quả,
dẫn đến kinh tế hộ gia đình chưa được cải thiện và nâng cao.
Xuất phát từ những thực trạng trên, vậy hướng đi nào cho nghề nuôi bò
vỗ béo ở huyện Chợ Mới được tồn tại và phát triển lâu dài? Giải pháp nào để
kinh tế hộ gia đình trong nông nghiệp được phát triển bền vững? Những vấn
đề trên đòi hỏi tâm huyết, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các ban ngành có
liên quan, với những giải pháp thích hợp giúp nghề nuôi bò vỗ béo có thể
khẳng định vị trí và vai trò của mình trong kinh tế hộ gia đình nói riêng và
trong công cuộc phát triển kinh tế huyện nhà ở giai đoạn hiện nay nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu:
Tiềm năng và lợi thế phát triển của kinh tế hộ gia đình ở An Giang nói
chung và Chợ Mới nói riêng là rất lớn, không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với
phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, các làng xã có nghề mà còn có ý
nghĩa đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông
thôn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu như:
1) Nguyễn Văn Nòn, DH5CT, “Đảng bộ huyện Chợ Mới lãnh đạo phát
triển trong nông nghiệp ở nông thôn từ năm 1996 đến nay”.
2) Trần Văn Hiển, trường chính trị Tôn Đức Thắng, “Kinh tế tư nhân ở
huyện Chợ Mới”
3) Huỳnh Ngọc Hiên (DH2CT), Võ Thành Phước (DH8CT), “Hợp tác
xã nông nghiệp ở huyện Chợ Mới”.
4) Luận văn Thạc sĩ Trần Văn Hùng, “Hợp tác xã nông nghiệp Hòa
Thuận”.
Hầu hết các luận văn, khóa luận đều chưa nghiên cứu về kinh tế hộ gia

đình trong lĩnh vực nuôi bò vỗ béo, vì vậy tôi chọn: “Phát triển mô hình
nuôi bò vỗ béo ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong thời kì Công
Nghiệp Hóa - Hiện Đại Hóa”. Làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng các hộ gia đình nuôi bò vỗ béo ở
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Từ đó, đề ra những phương hướng và giải pháp mang tính khoa học và
khả thi giúp hộ gia đình thực hiện nghề nuôi bò vỗ béo có thể tồn tại và phát triển
ổn định, lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng chăn nuôi bò vỗ béo của các hộ gia đình tại các
địa phương trong huyện.

Trang 2


Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cũng như kiến nghị các
chính sách phát triển phù hợp tạo điều kiện cho nghề nuôi bò vỗ béo phát triển
ổn định, góp phần tăng trưởng kinh tế trong hộ gia đình nói riêng và kinh tế
nông nghiệp huyện nhà nói chung.
4. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc chăn nuôi bò vỗ béo của các
hộ gia đình tại các xã: Mỹ An, An Thạnh Trung, Tấn Mỹ, Mỹ Hiệp, Bình
Phước Xuân, Long Điền A, B, Kiến An, Kiến thành, Long Kiến, Long Giang,
Thị trấn Chợ Mới. Từ những năm 2008 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,

thống kê, so sánh, đánh giá…
6. Đóng góp của đề tài:
Qua việc nghiên cứu đề tài này, thấy được thực trạng kinh tế hộ gia
đình Thực hiện nghề nuôi bò vỗ béo ở huyện Chợ Mới trong giai đoạn hiện
nay.
Đồng thời, đề tài tìm được những phương hướng cơ bản, những giải
pháp mang tính khả thi, mở ra hướng đi mới để kinh tế hộ gia đình nuôi bò vỗ
béo phát triển nghề nghiệp của mình một cách bền vững và khẳng định vai trò
của mình trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các cấp chính quyền trong quá
trình xây dựng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
7. Ý nghĩa của đề tài:
Việc phát triển kinh tế hộ gia đình là một hướng quan trọng trong công
cuộc công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh An Giang nói chung và
huyện Chợ Mới nói riêng. Việc nghiên cứu đề tài giúp ta có những nhận thức
đúng đắn và khách quan hơn về tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế hộ
gia đình, đang từ truyền thống tiến lên hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế, đó
là một điều đáng quan tâm và phấn khởi cho nền kinh tế huyện nhà.
Vì vậy, những giải pháp và định hướng phát triển nghề nuôi bò vỗ béo
trong kinh tế hộ gia đình được thể hiện trong đề tài sẽ góp phần khẳng định
được giá trị của việc phát triển kinh tế hộ gia đình trong thời kỳ hội nhập với
chính bản sắc riêng của dân tộc, của người dân Chợ Mới.

Trang 3


8. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
sơ đồ, biểu đồ, danh mục từ viết tắt, phụ lục, hình ảnh minh họa ra, đề tài gồm
2 chương:

Chƣơng 1: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƢƠNG VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ HỘ GIA ĐÌNH NUÔI BÒ VỖ BÉO TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH
AN GIANG.
KẾT LUẬN

Trang 4


Chƣơng 1: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƢƠNG VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH.
1.1. Một số vấn đề chung về kinh tế hộ gia đình với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và phát triển kinh tế bền vững.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2020 của Việt Nam xác định
kinh tế hộ gia đình là một đơn vị sản xuất cơ sở, cần thiết cho chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế vi mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kinh tế gia đình nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nông nghiệp ở nông
thôn được thực hiện quyền tự chủ và được quan tâm, khuyến khích phát triển
dưới hình thức hợp tác xã và các hình thức liên kết khác. Ngoài các chính sách
bảo hộ quyền và nghĩa vụ, Nhà nước còn có các chính sách khác hướng tới
việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ
thuật; phổ biến, ứng dụng công nghệ mới cho sản xuất chế biến; cung cấp dịch
vụ vật tư; hỗ trợ tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế
hộ gia đình và kinh tế trang trại.
Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có sớm, xuất hiện từ khi gia
đình được hình thành. Ngày nay hình thức sản xuất này đang chịu nhiều tác
động và cũng đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã
hội phát triển - xã hội công nghiệp và xã hội hậu công nghiệp. Vì lẽ đó, cần

tìm hiểu quyền tồn tại để nhận diện vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sự phát triển lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội. Gắn liền với các thời kỳ phát triển là
các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Hai phương thức sản xuất cơ bản tồn
tại trong quyền phát triển, đó là sản xuất tự cung tự cấp (sản xuất tự nhiên) và
sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế nào cũng phải tham gia giải quyết các yếu tố
cơ bản trong quyền sản xuất: - Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản
xuất cho ai?
Trong hình thức kinh tế tự nhiên, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thõa mãn
nhu cầu thiết yếu trong nội bộ những người sản xuất; người sản xuất tự quyết
định về loại hình sản phẩm, số lượng sản phẩm. Sự trao đổi sản phẩm chỉ bó
hẹp trong phạm vi những người cùng sản xuất dưới hình thức đơn giản nhất.
Của cải vật chất có dư thừa đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho cộng
đồng, xã hội dưới các hình thức khác nhau của mỗi chế độ. Tính thị trường

Trang 5


của nền kinh tế tự nhiên tuy có, nhưng hết sức mờ nhạt, chủ yếu vẫn mang
tính trao đổi giản đơn. Phân công lao động xã hội trong hình thức sản xuất tự
nhiên chưa phát triển, vì thế cũng chưa xuất hiện tình trạng cạnh tranh.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, sản phẩm được sản xuất ra không
chỉ để đáp ứng nhu cầu cho người sản xuất, mà còn để trao đổi nhằm thỏa mãn
nhu cầu không ngừng gia tăng của người tiêu dùng, của xã hội. Sự trao đổi sản
phẩm dần dần được tách ra, độc lập với quá trình sản xuất và được thực hiện
thông qua thị trường. Vì lẽ đó, việc sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản
xuất cho ai? đều do cơ chế thị trường quyết định với sự can thiệp của các qui
luật cạnh tranh, qui luật giá trị và giá cả thị trường.

Phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam
Việt Nam thực hiện bước chuyển đổi từ nền kinh tế tự cung tự cấp
hàng thế kỷ nay, nhưng tiến trình diễn ra rất chậm chạp và sự chuyển tiếp là
việc thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung theo cơ chế bao cấp kéo dài
suốt mấy chục năm qua. Cách mạng giải phóng dân tộc với hai cuộc kháng
chiến trường kỳ tiến tới thống nhất tổ quốc cũng là một nguyên nhân góp
phần làm giảm phát triển kinh tế đất nước. Chỉ tới thập niên cuối thế kỷ
XX, khi bắt tay vào thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta mới thực sự
chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Do những đặc điểm địa lý tự nhiên và thiếu trình độ, kiến thức, kinh
nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường nên mặc dù trong những năm qua kinh
tế đất nước tuy có tăng trưởng, nhưng không đều giữa các vùng. Bên cạnh sự
phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá đang diễn ra ở các đô thị lớn và các vùng
miền, song nhìn chung ngành nông nghiệp vẫn còn mang nặng dấu vết của nền
kinh tế tự cung, tự cấp.
Thực chất sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường không chỉ là sự thay
đổi hình thức kinh tế vĩ mô mà còn thay đổi cả hệ thống kinh tế vi mô. Đó là
sự thay đổi phương thức hoạt động, thay đổi hình thức tổ chức của các đơn vị
kinh tế, trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất cho xã hội.
Trước đây, các tổ chức kinh tế mang các tên gọi khác nhau: nhà máy, xí
nghiệp, công ty, cửa hàng, hợp tác xã, cá thể, tư nhân, v.v… Ngày nay trong
cơ chế thị trường, các đơn vị tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đều
được thống nhất chung với tên gọi là Việt Nam. Hiện nay ở nước ta có các loại
hình doanh nghiệp với các thành phần chủ sở hữu như sau: cá nhân, nhóm
kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty (công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phẩn), hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
nhà nước và kinh tế hộ gia đình.

Trang 6



Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được
phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình
lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80% dân số
đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế nhưng kinh tế hộ gia đình
là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một trong
các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong hoạt động
kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái
sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh doanh và chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở nước ta, kinh tế hộ gia đình
phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình nông dân, ở
thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay, tại một số địa
phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy mô sản xuất và kinh
doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có chiều hướng phát triển và mở
rộng ra trên phạm vi toàn quốc.
Các cá nhân và nhóm kinh doanh trong các lĩnh vực như vận tải, xây
dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, kinh
doanh… trên thực tế là các hoạt động kinh tế hộ gia đình và được điều chỉnh
theo Nghị định số 66/NĐ CP ngày 2/3/1992. Chủ hộ chịu trách nhiệm vô hạn
về vốn và kết quả kinh doanh của mình, mặt khác Nhà nước cũng có những
chính sách tạo điều kiện thuận lợi để hộ kinh doanh có số vốn phù hợp với qui
mô để hộ gia đình có thể chuyển thành doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và
các hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 5
thông qua vào tháng 6 năm 1999. Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2000
nước ta có khoảng 38.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, bao gồm cả doanh

nghiệp tư nhân và hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể. Các loại hình doanh
nghiệp này bao gồm nhiều ngành nghề thu hút nhiều lao động, sản xuất ra
nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, tăng nguồn thu
ngân sách nhà nước, góp phần làm cho nền kinh tế phát triển sôi động và linh
hoạt hơn, khai thác được nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư, phục vụ cho
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Như trên đã phân tích, kinh tế hộ gia đình tập trung chủ yếu ở khu vực
sản xuất nông nghiệp và chiếm tới 2/3 lực lượng lao động toàn xã hội. Vì vậy,

Trang 7


chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình của Đảng
và Nhà nước ta thực chất là việc thực hiện phát triển một cách hợp lý các hình
thức sản xuất và kinh doanh trong nông nghiệp. Đây là loại hình kinh tế phổ
biến nhất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng khu vực, từng địa bàn, cần phân
loại các hộ gia đình theo trình độ sản xuất hàng hoá, khả năng tự chủ trong
kinh doanh, mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh tế để có những biện pháp hỗ
trợ thích hợp. Hộ gia đình có nhiều ưu thế, nhưng cũng có nhiều khó khăn, hạn
chế về nhiều mặt. Việc tác động của Nhà nước, kết hợp với sự liên kết hỗ trợ
hướng dẫn của các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã… là rất cần thiết.
Xem xét đến vấn đề kinh tế nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nói
riêng không thể không đề cập đến vấn đề tiêu dùng. Tiêu dùng là hành vi tất
yếu và thường xuyên của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất
và tinh thần của cá nhân, cộng đồng, của toàn xã hội. Tiêu dùng vừa là mục
tiêu vừa là tiền đề của sản xuất và tái sản xuất xã hội. Mức độ tiêu dùng có
thước đo và được chi phối bởi yếu tố thu nhập thực tế tính theo đầu người.
Các nước phương Tây có nền kinh tế phát triển, tích lũy tư bản, phúc lợi xã
hội và thu nhập cá nhân cho phép đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

xã hội phát triển cao.
Do kết quả của sự chi phối, giao lưu kinh tế quốc tế trong việc thực hiện
chính sách mở cửa, những năm qua nền kinh tế thị trường đa thành phần ở
nước ta có những bước tăng trưởng đáng kể, nhưng đồng thời cũng kéo theo
sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng cả về vật chất lẫn tinh thần. Sự gia tăng về nhu
cầu tiêu dùng là quy luật tự nhiên và đáng khuyến khích. Tuy nhiên, trong
trường hợp kinh tế kém phát triển như ở nước ta, chưa thể có mức tiêu dùng
bình quân cao được.
Hiện nay, có hiện tượng một bộ phận hộ gia đình thu nhập cao, tập
trung ở thành thị, mức sống và nhu cầu tiêu dùng chênh lệch cao gấp nhiều
lần so với những hộ dân sống ở nông thôn. Đây là vấn đề cần được quan
tâm giải quyết để thực hiện tính công bằng trong phát triển kinh tế - xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xóa đói giảm nghèo, tình trạng thất
nghiệp, phân công lao động và giải quyết việc làm, thực tế hộ gia đình cũng
là những vấn đề cần được đề cập trong nghiên cứu về các chính sách liên
quan tới lĩnh vực gia đình.
Từ thực tế Việt Nam hiện nay việc nghiên cứu, tìm ra những giải pháp
phát triển kinh tế hộ gia đình ở nước ta theo định hướng XHCN, nhất thiết phải

Trang 8


xuất phát từ quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng ta.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế hộ gia đình:
Nghiên cứu các tác phẩm của Marx, Engels và Lenin, có thể rút ra những
nét cơ bản trong quan niệm của các ông về kinh tế hộ gia đình sau đây:
Thứ nhất, kinh tế hộ gia đình là một bộ phận, và là bộ phận chủ yếu của
thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ, tồn tại khách quan và lâu dài trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Phát triển lý luận của K.Marx về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội, V.I.Lenin đã chỉ rõ đặc điểm lớn nhất, xuyên suốt của thời
kỳ đó là sự tồn tại một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, và tương ứng là một
xã hội có cơ cấu nhiều giai cấp. Về cơ bản, có 3 thành phần tồn tại phổ biến
ở mọi nước, là: chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa cộng sản; và
tương ứng với nó là 3 giai cấp cơ bản: tư sản, tiểu tư sản, công nhân và
những người lao động tập thể. Nhưng Người cũng chỉ rõ, tùy điều kiện mỗi
nước mà các thành phần kinh tế và giai cấp sẽ có những điểm khác biệt
(nhưng không phải là chủ yếu nhất). Với nước Nga, do là một nước tiểu
nông, nên tồn tại 5 thành phần, bao gồm: kinh tế nông dân kiểu gia trưởng,
nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó
bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì); chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa
tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội, trong đó thành phần sản xuất hàng hóa
nhỏ là chủ yếu. Ông nhấn mạnh: giữa các thành phần kinh tế ấy, tính tự phát
tiểu tư sản chiếm ưu thế; số đông, thậm chí là đại đa số nông dân đều là
những người sản xuất hàng hóa nhỏ.
Cả K.Marx, F.Engels và V.I.Lenin đều thống nhất quan niệm là các
thành phần trên sẽ tồn tại lâu dài, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là vì, một mặt, như F.Engels chỉ ra là do người nông dân là một nhân
tố rất cơ bản của dân cư, của nền sản xuất và của chính quyền, nên sự tồn tại
của nó là có lợi cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản; mặt khác, do toàn bộ tâm lý, tập quán sản xuất nhỏ tồn tại hàng trăm năm
đã tạo một cơ sở có những cội rễ rất sâu và rất chắc, vào ý thức tư hữu của
người nông dân, nên họ sẽ chống lại bất cứ sự can thiệp, hay kiểm kê, kiểm
soát nào của nhà nước, vì vậy, việc thay thế chế độ tư hữu nhỏ bằng chế độ
công hữu là không thể tiến hành một lần mà xong được. Vậy nên, V.I.Lenin đã
cực lực phê phán những tư tưởng nóng vội muốn xóa bỏ ngay mọi hình thức
tư hữu để xác lập chế độ công hữu.

Trang 9



Thứ hai, cần phải cải tạo giai cấp tiểu tư sản cùng với những tập quán,
những thói quen của giai cấp ấy, và địa vị kinh tế của giai cấp ấy theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù xác định sự tồn tại lâu dài của kinh tế tiểu nông, nhưng điều đó
không có nghĩa là giai cấp vô sản để mặc họ, mà ngược lại, phải cải tạo họ,
phải tiêu diệt cái cơ sở vô cùng rộng lớn và có cội rễ rất sâu và rất chắc cho sự
duy trì và phục hồi lại chủ nghĩa tư bản trong cuộc đấu tranh ác liệt chống chủ
nghĩa cộng sản. Đó là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng theo F.Engels, thì “Nếu
chúng ta xác định được lập trường của chúng ta đối với tiểu nông thì chúng ta
sẽ có mọi tiêu điểm để xác định được thái độ của mình đối với những thành
phần khác trong dân cư nông thôn.” [4; Tr.24].Thấm nhuần tư tưởng của
F.Engels, V.I.Lenin luôn nhắc nhở giai cấp vô sản là không được quên kẻ thù
chủ yếu trong bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là giai cấp
tiểu tư sản và tính tự phát tiểu tư sản, cùng với những tập quán, những thói
quen, và địa vị kinh tế của giai cấp ấy. Ông nói, nếu giai cấp vô sản xóa bỏ
được chế độ tư hữu của người tiểu nông thì cũng có nghĩa là họ đã nhổ được
những gốc rễ sâu xa hơn và dai dẳng hơn của những quan hệ cũ tiền xã hội
chủ nghĩa, thậm chí tiền tư bản. Khi đó, và chỉ có khi đó giai cấp tư sản mới
hết cơ sở để tái sinh và tồn tại. Về cải tạo sản xuất nhỏ, cả K.Marx, F.Engels
và V.I.Lenin đều có chung quan niệm là phải lôi cuốn nông dân đi theo chủ
nghĩa xã hội. Các ông cho rằng, nếu giải phóng nông dân mà chỉ dừng lại ở
việc đưa ruộng đất và tự do cho họ, thì đó mới chỉ là bước đầu; nhiệm vụ của
giai cấp vô sản và chính đảng của nó còn lớn hơn, và khó khăn hơn nhiều. Đó
là phải xóa bỏ tư hữu, dẫn dắt nông dân xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, để không vì sự yếu đuối và thiếu năng lực cạnh tranh của họ mà bị phân
hóa trong guồng máy tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, con đường cơ bản để cải tạo những người nông dân trong hộ gia
đình là tập hợp họ vào các hợp tác xã.

Những người nông dân sau khi thoát khỏi chế độ bóc lột của chủ nghĩa
tư bản trở thành người nông dân tự do và được chia ruộng đất thuộc nhà nước.
Nhưng, sự thâm nhập của sản xuất hàng hóa vào nông nghiệp, sự cạnh tranh
giữa nông dân, những cuộc đấu tranh giành đất đai, giành độc lập kinh tế… đã
dẫn đến tình trạng phân hóa trong nông dân: giai cấp tư sản nông dân lấn át
trung nông và nông dân nghèo. Đó là vấn đề có tính quy luật. Vì vậy, chừng
nào người nông dân chưa trở thành những người lao động tập thể trong các
Hợp tác xã (HTX) thì chừng đó vẫn còn nguy cơ đói nghèo và bị bóc lột.
Trong Tuyên ngôn thành lập Hiệp hội công nhân Quốc tế, K.Marx đã nhấn

Trang 10


mạnh: muốn giải phóng nông dân, giải phóng quần chúng lao động, thì cần
phải phát triển lao động hợp tác trên quy mô cả nước, bằng con đường kinh tế,
chứ không phải bằng những biện pháp tội lỗi đối với nông dân. Sau này
V.I.Lenin làm rõ thêm: HTX là hình thức kinh tế quá độ thích hợp để chuyển
từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất, đưa những nhà sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa
xã hội, do đó, đưa nông dân vào HTX là con đường duy nhất mang lại lợi ích
cho họ, và cũng là con đường cơ bản nhất, dễ dàng nhất để cải tạo họ theo chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do những thói quen lâu đời, cố cựu, bất di bất dịch đã
ăn sâu vào tiềm thức của nông dân nên họ sẽ không sẵn sàng từ bỏ những lợi
ích riêng để đi theo giai cấp công nhân trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, giai cấp vô sản phải lãnh đạo họ, đấu tranh với họ để gây ảnh
hưởng tới họ và lôi cuốn họ tham gia HTX. Chừng nào giai cấp vô sản tổ chức
được toàn thể nông dân vào HTX, thì chừng đó họ mới thật sự đứng vững
được cả hai chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, trong quá trình cải tạo nông dân trong hộ gia đình, cần có
những bước đi thận trọng, với những chính sách và biện pháp thích hợp.
Mặc dù tư tưởng của Chủ nghĩa Marx - Lenin là xóa bỏ chế độ tư hữu,

thiết lập chế độ công hữu trong chủ nghĩa xã hội, nhưng điều đó không có
nghĩa là phải tiến hành quốc hữu hóa ngay một lúc tất cả các tư liệu sản xuất
xã hội; mà ngược lại, có thể và cần phải sử dụng những giải pháp mềm dẻo,
linh hoạt, thích hợp với tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn cụ thể của cách mạng.
Tức là, việc xóa bỏ các thói quen, xóa bỏ địa vị kinh tế của thành phần sản
xuất hàng hóa nhỏ, đưa những người sản xuất hàng hóa nhỏ đi lên chủ nghĩa
xã hội là một tất yếu, nhưng không phải bằng các biện pháp tước đoạt như đối
với địa chủ, cũng không phải bằng những biện pháp lập pháp hay hành chính
hấp tấp và thiếu thận trọng, và nhất là, không được biến công cuộc hợp tác hóa
thành một trò chơi ngu ngốc để khiến cho nông dân phải phẫn nộ… Đó là vì,
tất thảy điều đó chỉ sẽ gây thêm khó khăn cho bước quá độ, và do đó sẽ kéo
dài thêm bước quá độ đó mà thôi. Ngược lại, giai cấp vô sản phải giúp đỡ
nông dân, phải lôi kéo họ tham gia HTX bằng chính việc làm tốt đẹp của
HTX. Nói cách khác, HTX phải là tấm gương để nông dân nhìn vào đó mà
đưa ra quyết định có tham gia HTX hay không. Cho nên, theo F.Engels: “tấm
gương của những HTX nông nghiệp đó sẽ chứng minh cho ngay cả những
người cuối cùng trong đám nông dân có mảnh ruộng đất nhỏ, còn ngoan cố và
có thể cho cả một vài phú nông thấy rõ những điều lợi của nền kinh tế lớn
HTX quy mô lớn.” [6; Tr.40]

Trang 11


Lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin nói chung, và quan niệm về cải tạo
xã hội chủ nghĩa nền kinh tế tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội nói riêng đã được
Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu và vận dụng vào việc thực hiện cải tạo
nền kinh tế sản xuất nhỏ cá thể theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhưng đáng
tiếc là công cuộc cải tạo đó dường như không mấy thành công: đưa nông dân
vào HTX (1960-1980), rồi lại thừa nhận quyền tự chủ kinh doanh của kinh tế
hộ (1981-1996), rồi lại thành lập HTX (1997 đến nay). Từ đó, một câu hỏi đặt

ra là: phải chăng lý luận về cải tạo sản xuất nhỏ mà chủ nghĩa Marx - Lenin
đưa ra là không đúng? Câu trả lời thì đã nằm ngay ở việc làm của chúng ta vừa
nêu trên (các HTX được thành lập lại theo Luật HTX từ năm 1997 là HTX
khác trước, theo mô hình của V.I.Lênin). “Như vậy, nguyên nhân của sự yếu
kém của các HTX trước đây không phải do áp dụng lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin về cải tạo nông dân, mà trái lại là do chúng ta đã không làm đúng theo
những gì mà K.Marx, F.Engels và V.I.Lenin đã chỉ dẫn” [6; Tr.26]. Thể hiện:
Thứ nhất, cả K.Marx, F.Engels và V.I.Lenin đều khẳng định sự tồn tại
khách quan và lâu dài của sản xuất hàng hóa nhỏ trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhưng chúng ta vì nôn nóng, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội nên
đã vội vàng xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, triệt tiêu động
lực của sự phát triển.
Thứ hai, chủ nghĩa Marx - Lenin khuyên là cần hết sức thận trọng, phải
có những bước đi thích hợp trong quá trình cải tạo kinh tế nông dân, nhưng
chúng ta lại tiến hành việc đó một cách ồ ạt, đốt cháy giai đoạn, để chỉ trong
một thời gian rất ngắn (3 năm) đã đưa đại đa số nông dân vào các HTX bậc
cao trên quy mô lớn (xã hoặc liên thôn).
Thứ ba, V.I.Lenin đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản của hợp tác hóa, trong
đó đề cao nguyên tắc tự nguyện, thì chúng ta lại cưỡng ép nông dân vào HTX,
bằng các biện pháp có tính chất hành chính, mệnh lệnh.
Thứ tư, V.I.Lenin đã phân loại nông dân để đưa ra các chính sách và biện
pháp cải tạo phù hợp với từng đối tượng, thì chúng ta lại xóa nhòa ranh giới
giữa nông dân cá thể với nhà tư bản lớn.
Thứ năm, chủ nghĩa Marx - Lenin yêu cầu nhà nước phải giúp đỡ kinh tế
nông dân một cách thiết thực, thì chúng ta dường như lại quan tâm nhiều hơn
đến lực lượng doanh nghiệp, mà chưa có sự quan tâm thỏa đáng đến nông
nghiệp và nông dân.
Từ đó có thể thấy, những quan niệm của chủ nghĩa Marx - Lenin về kinh
tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy đã được đưa ra cách đây rất lâu


Trang 12


nhưng nó vẫn còn có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Để thúc đẩy kinh tế nông dân phát triển đúng hướng, trên cơ sở tiếp tục
vận dụng những tư tưởng, những quan niệm của chủ nghĩa Marx - Lenin vào
bối cảnh hiện nay, cần phải chú ý các vấn đề sau:
Một là nên tách kinh tế cá thể, tiểu chủ ra khỏi kinh tế tư bản tư nhân.
Tuy V.I.Lenin không gọi kinh tế cá thể của nông dân là một thành phần
kinh tế độc lập, nhưng ông đã coi kinh tế cá thể là một bộ phận, và là bộ phận
chủ yếu, là “đại đa số” trong thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ; còn kinh tế
tiểu chủ thì xếp vào thành phần kinh tế tư bản nhà nước - thành phần mà ông
gọi là ¾ xã hội chủ nghĩa, thuộc hình thức HTX tư bản. Đại hội X của Đảng
gộp 2 thành phần kinh tế cá thể - tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân (theo quan
niệm của Đại hội VIII và IX) thành một thành phần, gọi là kinh tế tư nhân, với
lý do cả 3 bộ phận (cá thể, tiểu chủ, và tư bản tư nhân) đều dựa trên hình thức
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Điều đó không sai, nhưng việc nhập các bộ
phận đó lại thì sẽ không phân biệt và phân định được ranh giới giữa người
nông dân lao động với người nông dân con buôn, đầu cơ, mà theo V.I.Lenin
thì sự phân định ranh giới đó là hết sức quan trọng trong cải tạo các thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sự khác nhau giữa hai người nông dân đó đòi
hỏi phải có chính sách và biện pháp cải tạo khác nhau đối với họ. Chúng ta
không thể đối xử như nhau giữa một người bán hàng tạp hóa với số vốn mấy
trăm ngàn đồng, hay một người nông dân chỉ có con trâu, cái cày, vài sào
ruộng với số vốn vài triệu, hay nhiều lắm cũng chỉ vài chục triệu đồng, với
một nhà kinh doanh có số vốn hàng trăm triệu đồng, thậm chí hàng tỷ đồng
được. Lại càng không thể đối xử như nhau giữa một người sống chỉ dựa vào
sức lao động chính mình, với một người thuê hàng chục, thậm chí hàng trăm
lao động. Còn kinh tế tiểu chủ, tuy có những điểm giống với thành phần tư bản

tư nhân (có thuê lao động), nhưng trong điều kiện một nền sản xuất nhỏ, lạc
hậu thì tiểu chủ gắn nhiều hơn với kinh tế cá thể, cần được đối xử như với cá
thể chứ không phải như tư bản. F.Engels đã từng vạch rõ, nếu người trung
nông sống giữa những người tiểu nông, thì những quyền lợi và quan điểm của
họ không khác với quyền lợi và quan điểm của người tiểu nông, vì họ đã
chứng kiến có nhiều người như họ đã từng rơi xuống cái khối đông đảo những
người tiểu nông rồi.
Hai là cần hỗ trợ nông dân nhiều hơn, và thiết thực hơn.
Vai trò của nông dân và nông nghiệp đối với sự phát triển đất nước đã
được Đảng nhận thức, nhưng trên thực tế, sự đầu tư cho nông dân, nông

Trang 13


nghiệp lại chưa tương xứng với vai trò của nó; hơn nữa, giữa chính sách và
thực tiễn đang còn một khoảng cách khá xa. Thể hiện: thứ nhất, mức đầu tư
cho nông nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với những đóng góp của nó cho
nền kinh tế; thứ hai, việc thực hiện công nghiệp hóa và đô thị hóa đã lấy đi
một phần khá lớn đất nông nghiệp mà người nông dân mới được trao quyền
tự chủ chưa lâu, kéo theo đó lúc 7-8 triệu nông dân bị mất việc làm, mất
phương tiện kiếm sống; thứ ba, chính sách của Nhà nước chưa thật sự mang
lại lợi ích cho nông dân, thậm chí có chính sách đã tạo sự bất bình đẳng trong
hưởng lợi giữa nông dân và doanh nghiệp. Tình trạng đó làm cho nông dân
đã nghèo càng nghèo hơn.
Là chủ thể đầu tư của ngành nông nghiệp thì tình trạng nghèo đói của
nông dân dĩ nhiên sẽ hạn chế sự phát triển nông nghiệp. Vì vậy, Đảng, Nhà
nước, hệ thống ngân hàng, các nhà khoa học, các tổ chức xã hội cần phải quan
tâm nhiều hơn, giúp đỡ nhiều hơn cho nông dân, bằng hành động thực tế chứ
không phải chỉ bằng nghị quyết.
Sự giúp đỡ nông dân hiện nay, cần tập trung vào ba hướng lớn: hỗ trợ về

tài chính, tín dụng, về kỹ thuật, và về tổ chức. Về tài chính, tín dụng, nếu chỉ
dừng lại ở các hoạt động cung cấp tín dụng ưu đãi cho nông dân thì chưa đủ
(đó là chưa nói đến tình trạng hữu danh vô thực của các chính sách), bởi có
tiền mà không có điều kiện để sử dụng, hoặc không biết sử dụng nó một cách
hiệu quả thì chắc chắn nông dân sẽ trở thành con nợ của ngân hàng và người
cho vay nặng lãi ở địa phương. Vì vậy, đối với nông dân, tốt hơn hết là phải
thực hiện hỗ trợ trực tiếp, thông qua các hình thức như: giảm giá bán máy móc
và vật tư nông nghiệp; miễn giảm các khoản đóng góp; hay tăng giá mua nông
sản với mức đảm bảo lãi thỏa đáng cho nông dân (chứ không nhất thiết phải là
30% như quy định tại điều 10 của Nghị định số 12/2006/NĐ-CP, vì con số này
phải thay đổi theo biến động của giá thị trường thế giới, có tính đến thị trường
nội địa). Về kỹ thuật, cần mở rộng mạng lưới khuyến nông đi đôi với nâng cao
trình độ về văn hóa, khoa học kỹ thuật, tiếp cận thị trường… cho nông dân để
cải tạo triệt để kỹ thuật sản xuất và kỹ thuật canh tác theo lối sản xuất nhỏ của
họ. “Về tổ chức, phải tổ chức nông dân lại trong các HTX trên cơ sở sự tự
nguyện của họ, bởi một mặt, hoạt động của các hộ đơn lẻ, dù ở trình độ nào,
vẫn vấp phải những giới hạn mà riêng từng hộ không thể vượt qua; mặt khác,
theo quy luật của sự phát triển lực lượng sản xuất, thì sự tiến bộ của công
nghiệp cũng sẽ thủ tiêu chế độ sở hữu cá nhân. Như vậy, rõ ràng hợp tác hóa
theo đúng mô hình và nguyên tắc của V.I.Lenin vẫn là con đường tất yếu và

Trang 14


cơ bản để biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, biến
người nông dân thành công nhân nông nghiệp” [4; Tr.24].
Ba là thành lập các tổ chức hiệp hội đa dạng, phù hợp với từng loại hình
kinh tế của nông dân trong các hộ gia đình.
Nông dân là lực lượng yếu thế trong xã hội. Do vốn ít, trình độ thấp,
năng lực tiếp cận thị trường kém… họ đã phải chịu nhiều thiệt thòi, trong đó

thiệt thòi lớn nhất là việc họ làm ra sản phẩm nhưng lại không có quyền
quyết định giá cả sản phẩm, dẫn đến sự phân chia lợi ích không công bằng
giữa nông dân với các doanh nghiệp, các trung gian buôn bán. Nông dân
luôn ở trong tình trạng được mùa rớt giá, còn các doanh nghiệp thì ngồi mát
ăn bát vàng. Thể hiện: trong toàn bộ chuỗi cung ứng lúa - gạo, người nông
dân đảm nhận 50% công việc nhưng chỉ nhận được 11% tổng giá trị tăng
thêm; trong khi đó người bán buôn thực hiện chưa tới 10% công việc thì lại
nhận gần 67% giá trị đó.
Thiệt thòi như vậy nhưng nông dân chẳng biết kêu ai, cũng chẳng có ai,
chẳng có tổ chức nào đứng ra bảo vệ quyền lợi cho họ. Các hiệp hội hiện nay
(chủ yếu là hiệp hội các doanh nghiệp) chỉ chạy theo lợi nhuận nên thường bỏ
qua quyền lợi của nông dân, thậm chí còn tạo ra những xung đột về lợi ích
giữa nông dân và doanh nghiệp (ví dụ điển hình nhất là việc quyết định ngừng
xuất khẩu để mua gạo với giá thấp của Hiệp hội Lương thực vào năm 2008).
Cần nhớ rằng, nông dân là chủ thể đầu tư nông nghiệp, nên muốn có nền
nông nghiệp phát triển thì nông dân phải giàu có, lợi ích của nông dân phải
được bảo đảm. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, nông dân cần có các tổ chức
hoạt động vì họ, nói tiếng nói của họ, bảo vệ quyền lợi cho họ, chia sẻ khó
khăn cùng họ… Một tổ chức như vậy chỉ có thể là các hiệp hội ngành nghề,
ngành hàng, do chính nông dân lập ra, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
Tuy nhiên, nông dân cần có sự lựa chọn hình thức hiệp hội, phù hợp với hoạt
động của mình thì mới phát huy được tác dụng và hiệu quả của hiệp hội.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế hộ gia đình:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nói chung và kinh tế hộ gia đình nói
riêng là di sản vô giá. Bác Hồ để lại cho Đảng và nhân dân ta, bao gồm những
nội dung chủ yếu về mục đích kinh tế, về vị trí, vai trò của nông nghiệp, về
nền kinh tế nhiều thành phần... Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là một bộ
phận tư tưởng của Người về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được thể hiện tập trung ở mục
tiêu của nó là nâng cao đời sống nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động

cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm làm sao cho dân

Trang 15


ăn no, mặc ấm, được học hành, chữa bệnh, giải trí... Ngày 24/4/1956, trong
Lời bế mạc Hội nghị lần thứ 9 (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam, Người căn dặn: Phải luôn luôn nhớ rằng: điều
quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải
thiện dần đời sống của nhân dân.... Đó là mục đích kinh tế, là nhiệm vụ của
Đảng và Chính phủ, đồng thời là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa cách mạng
của đường lối, chính sách và biện pháp kinh tế. Người nhấn mạnh: Chính
sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân đói, rét,
dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân
cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá
trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực
hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, và
làm cho dân có học hành.
Rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy mục đích nâng cao đời sống cho nhân
dân làm trung tâm chi phối mọi hoạt động kinh tế của Đảng và Chính phủ.
Trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông nghiệp có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, cũng như đối với việc nâng cao đời sống
của nhân dân. Trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, ngày 19/4/1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết: Việt Nam là nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế
của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ
trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân
ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh!.

Vào những năm đất nước bước vào giai đoạn chuẩn bị cho nhiệm vụ
thực hiện các kế hoạch dài hạn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói
chung, phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính.
Trong Bài nói với cán bộ ở Trung ương về xã tham gia cải tiến quản lý
hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật (đăng trên báo Nhân Dân, số 3300, ngày
9/4/1963), Người nói: ... Có gì sung sướng bằng được góp phần đắc lực vào
công cuộc phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Với tư tưởng coi trọng nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thể hiện phẩm chất một nhà lãnh đạo am hiểu sâu sắc thực
tiễn của đất nước mình. Lấy nông nghiệp làm chính và phải bắt đầu từ nông
nghiệp đã trở thành quy luật trong nhiệm vụ kinh tế - xã hội giai đoạn đầu của

Trang 16


thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đối với những nước nông nghiệp lạc hậu
như nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nông nghiệp trong mối quan hệ hữu cơ với
các ngành kinh tế khác và xem nó như một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể
nền kinh tế quốc dân. Theo Người, công nghiệp và nông nghiệp giúp đỡ lẫn
nhau và cùng phát triển như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh
và chóng đi đến mục tiêu.
Quan điểm “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” được Chủ
tịch Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ trong chính sách nền kinh tế nhiều thành
phần. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 11/1945, trong
bài “Toàn dân kháng chiến” đăng trên báo Cứu quốc, số 83, ngày 5/11/1945.
Người kêu gọi: Các nhà giàu có mau mau góp vốn lại mở các công ty kinh
doanh công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, giao thông để tích
cực tăng gia sinh sản, lưu thông buôn bán.

Từ năm 1945-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần nhằm phát triển kinh tế, phục vụ cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược.
Năm 1953, trong sách “Thưởng thức chính trị” ký bút danh Đ.X, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại
các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh; kinh tế địa chủ phong kiến; kinh
tế hợp tác xã, hội đoàn đổi công; kinh tế cá nhân; kinh tế tư bản tư nhân; kinh
tế tư bản quốc gia. Người còn chỉ rõ: Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước
hùng vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo.... Phát triển các
thành phần kinh tế vừa để đáp ứng lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội, đẩy mạnh sản xuất, vừa nhằm đoàn kết tất cả các lực lượng trong một mặt
trận dân tộc thống nhất phục vụ cho cuộc kháng chiến.
Trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ II Quốc hội
khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
sự tồn tại tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần: Đối với người làm nghề thủ
công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích
họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện. Đối với những nhà tư
sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và
của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc
kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước.
1.4. Quan điểm của Đảng Cộng Sản về kinh tế hộ gia đình:

Trang 17


Ngay sau khi hòa bình lập lại (1954), Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định con đường phát triển của miền Bắc là tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Công việc đầu tiên sau cuộc cải cách
ruộng đất là Đảng tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần

kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, mà trọng tâm là cải tạo sản xuất nhỏ cá thể, chủ
yếu là nông dân. Trong bản Báo cáo về nhiệm vụ kế hoạch phát triển và cải tạo
kinh tế quốc dân ba năm (1958-1960), Đảng đã nhấn mạnh: “Nền kinh tế của ta
về căn bản vẫn còn là một nền kinh tế nông nghiệp, năng lực sản xuất còn thấp.
Trong xã hội ta, nông dân lao động là lực lượng đông đảo nhất, là lực lượng trụ
cột để phát triển sản xuất và cải tạo kinh tế theo chủ nghĩa xã hội. Vì thế, trong
những năm sắp đến, chúng ta vẫn phải coi việc cải tạo và phát triển nông nghiệp
là nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển và cải tạo kinh tế.”
Với nhận thức đó, Hội nghị lần thứ 16 BCHTW Đảng Khóa II (mở rộng)
đã tập trung bàn về vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, trong đó hợp tác hoá nông
nghiệp được coi là khâu quan trọng trong toàn bộ sợi dây chuyền cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc lúc bấy giờ. Hội nghị xác định: mục tiêu của hợp tác
hóa là: nhằm biến những người nông dân cá thể thành nông dân tập thể, biến
sản xuất cá thể thành sản xuất tập thể; phương pháp tiến hành là: tuyên truyền,
giáo dục, vận động thuyết phục nông dân tham gia HTX; bước đi là: dần dần,
từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn, cụ thể là, đi từ tổ đổi công lên
HTX bậc thấp, rồi HTX bậc cao.
Phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã là đường lối chiến lược nhất quán
trong mọi giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta, hợp tác xã được
từng bước đổi mới theo hướng phù hợp với điều kiện khách quan và đã trải
qua thăng trầm trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề xướng đã khẳng định phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế hợp tác xã được khẳng định
cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đại hội thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hợp tác phải đi đôi với sự phát triển đa
dạng của các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, hợp tác xã là bộ phận
nòng cốt của kinh tế hợp tác. Nghị quyết 10/NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá
VI) ngày 05/04/1988 đã khẳng định: Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất là tổ chức

kinh tế tự nguyện của nông dân, được lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
hướng dẫn giúp đỡ của Nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc tự quản lý, tự
chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh; có tư cách pháp nhân, bình

Trang 18


đẳng trước pháp luật với các đơn vị kinh tế khác; có trách nhiệm phát huy tính
ưu việt của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (khoá VII) tháng 06/1993 tiếp tục
đổi mới kinh tế hợp tác xã, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên. Đổi
mới hợp tác xã theo hướng phát huy hơn nữa tiềm năng to lớn và vị trí quan
trọng lâu dài của kinh tế hộ xã viên, đồng thời làm tốt công tác quy hoạch,
hướng dẫn sản xuất, phát triển kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
dịch vụ mà từng hộ xã viên không làm được hoặc làm không có hiệu quả,
cùng với chính quyền địa phương chăm lo sự nghiệp phúc lợi xã hội. Thực
hiện đúng nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi trong tổ chức, quản lý
và phát triển kinh tế hợp tác xã.
Đến Đại hội VIII, quan điểm phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp
tác xã; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kế thừa và phát triển chủ trương, đường lối về xây dựng phát triển hợp
tác xã kiểu mới, tại Hội nghị Trung ương 5 khoá IX, Đảng ta đã đưa ra hệ
thống các quan điểm phát triển kinh tế tập thể trong tình hình mới như sau:
- Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp
tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi
những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn
(trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp
và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách

nhiệm. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm các thể nhân và pháp nhân, cả
người ít vốn và nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ.
- Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành
viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần
xoá đói, giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng.
Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên.
- Tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn,
trong đó trọng tâm là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế tập
thể trong nông nghiệp, nông thôn phải trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của
kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển; gắn
với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông

Trang 19


×