Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở địa bàn thành phố long xuyên, tỉnh an giang giai đoạn 2005 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.27 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG
XUYÊN, TỈNH AN GIANG GIAI ĐOẠN 2005 -2010

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Khóa học: 2008-2012

AN GIANG, 2012


Mục Lục
PHẦN 1: MỞ ĐẦU........................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài: ..................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài: ................................................................... 4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: ............................................................. 5
3.1 Mục đích: ............................................................................................. 5
3.2 Nhiệm vụ: ............................................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ...................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu: .................................................................... 6
6. Đóng góp của đề tài: ............................................................................ 6
7. Kết cấu: .................................................................................................. 7
PHẨN 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................. 7
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và giải quyết việc
làm .................................................................................................................. 7
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010. ............... 7


PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................... 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 8
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và giải quyết việc
làm .................................................................................................................. 9
1.1 Khái quát về việc làm và giải quyết việc làm, thất nghiệp ............. 9
1.1.1
Khái niệm việc làm................................................................ 9
1.1.2
Khái niệm giải quyết việc làm ............................................. 12
1.1.3
Khái niệm thất nghiệp.......................................................... 14
1.1.4
Quan niệm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về lao động việc
làm…… … ............................................................................................ 16
1.1.5
Quan niệm của Đảng ta về vấn đề lao động, việc làm....... 16
1.2
Ảnh hưởng của việc tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân
lực…. ....................................................................................................... 17
1.2.1
Tầm quan trọng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn
nhân lực ……… ................................................................................... 17
1.2.2
Sự cần thiết phải tạo việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động .................................................................................... .21
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010. ............. 22
2.1 Giới thiệu chung về thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. ....... 22
2.1.1
Kinh tế ................................................................................... 22

2.1.2
Chính trị ................................................................................ 24
2.1.3
Xã hội ..................................................................................... 25
2.2 Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010...................... 27
2.2.1
Thực trạng giải quyết việc làm ở thành phố Long Xuyên,
tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010. ............................................... 27

Trang 1


2.2.1.1 Công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện.. .................................. 27
2.2.1.2. Đào tạo nghề........................................................................ 30
2.2.1.3 Giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động. ...................... 34
2.2.1.4 Đánh giá chung ................................................................... 39
2.2.1.4.1 Những mặt mạnh.. ....................................................... 39
2.2.1.4.2 Những mặt còn hạn chế................................................ 41
2.2.1.4.3. Những kinh nghiệm ..................................................... 42
2.2.2
Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả
giải quyết việc làm ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai
đoạn 2005 – 2010 và những năm tiếp theo. ....................................... 43
2.2.2.1. Về phía chính phủ: ............................................................. 43
2.2.2.2. Về phía lãnh đạo tỉnh An giang: ....................................... 44
2.2.2.3. Về phía lãnh đạo thành phố Long Xuyên: ....................... 45
2.2.2.4. Về công tác đào tạo nghề: .................................................. 46
2.2.2.5. Về công tác giải quyết việc làm: ........................................ 49
2.2.2.6. Về công tác xuất khẩu lao động: ....................................... 51

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 54

Trang 2


Đề tài: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM Ở ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG TRONG GIAI ĐOẠN 2005 - 2010

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối
quan tâm lớn của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước
đang phát triển. Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước đã đạt được những kết quả nhất định trong phát
triển kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong một số năm, giải quyết
tốt vấn đề về lương thực...Tuy nhiên Việt Nam cũng còn phải đối phó với
những thách thức to lớn trong quá trình phát triển. Một trong những thách thức
đó là tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu về việc làm đang tạo lên sức ép to lớn đối
với nền kinh tế. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho mọi người, nam
cũng như nữ, để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống
là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, quan niệm về "phát triển" được hiểu một cách đầy đủ là:
tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội; phải xóa đói, giảm nghèo, giảm
thiểu thất nghiệp, đảm bảo được công bằng xã hội. Bởi vì, trong chiến lược
phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm, coi phát triển
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Ở nước ta vấn
đề việc làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Giải quyết việc làm là

yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế,
làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc
của nhân dân". Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm
phát huy được tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, mặt khác là hướng cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có
hiệu quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo ra động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. Đặc biệt trong điều kiện
nước ta tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất
còn nghèo, đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức, hội nhập
quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa.

Trang 3


Việc ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người là đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển
kinh tế, là con đường ngắn nhất để đi tắt, đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu và
chủ động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Giải quyết việc
làm cần được hiểu theo nội dung mới là không chỉ đơn thuần trong phạm vi
chính sách xã hội và cũng không chỉ đơn thuần là thanh toán nạn thất nghiệp.
Giải quyết việc làm bao gồm cả một hệ thống vấn đề: tạo điều kiện cho công
dân được giáo dục đào tạo và chuẩn bị tốt hơn để bước vào lập thân, lập
nghiệp, được hưởng quyền lợi làm việc, tự do lao động, sáng tạo và hưởng thụ
thành quả chính đáng, được bảo vệ về quyền sở hữu trí tuệ và vật chất do mình
làm ra theo đúng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, mưu cầu
hạnh phúc cho bản thân và cống hiến cho cộng đồng.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay, hơn lúc
nào hết, nguồn nhân lực được đặt vào vị trí xứng đáng - là nguồn lực cơ bản
nhất, quyết định nhất đối với các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ,

tài nguyên...) Có thể nói, vấn đề khó khăn nhất hiện nay là muốn thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải áp dụng khoa học công nghệ vào nền sản
xuất xã hội, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song, điều đó đang đứng
trước thách thức lớn về việc làm. Vì vậy, vấn đề việc làm được đặt ra không
chỉ là một yêu cầu cấp bách, mà còn là chiến lược an toàn việc làm, không chỉ
về kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội, là một vấn đề trong tổng thể các
vấn đề chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta. Long Xuyên có diện
tích tự nhiên là 106, 87 km2, Long Xuyên có dân số khoảng 350.000 người
(2007).
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở thành phố Long Xuyên nhằm
đánh giá đúng đắn thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu
hiệu để sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lao động của thành phố là một đòi
hỏi bức xúc có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề
tài "Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở địa bàn thành
phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 - 2010" làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Việc làm là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của
các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ở nước ta, từ những năm 90

Trang 4


của thế kỷ XX trở lại đây, liên quan đến chủ đề luận văn đã có nhiều công
trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu có bài viết xoay quanh vấn đề này, tiêu
biểu như:
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu Dũng,
TS. Trần Hữu Trung (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997);
- Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam
của GS.TS Đỗ Thế Tùng (Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 6-2002);

- Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và phát triển của thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan Hương (Nxb Lao động - xã hội, 2002);
- Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của Nguyễn Thị Hằng (Tạp
chí Cộng sản, số 23 - 8/2003);
- Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam
hiện nay do thạc sĩ Đinh Đặng Định chủ biên (Nxb Lao động, Hà Nội, 2004);
- Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay của GS.TS
Phạm Đức Thành, PGS.TS Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp (Tạp chí
Lao động và Công đoàn, số 298 - 12/2003);
Ngoài ra, cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc
làm như ở một số tỉnh: Đồng Nai, Hà Tĩnh, Kiên Giang, Thái Bình...; ở thành
phố Long Xuyên dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị đến nay chưa có công
trình nào viết về vấn đề này dưới dạng nghiên cứu khoa học để tìm ra các giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu cho giải quyết việc làm ở thành phố Long Xuyên. Như
vậy, việc nghiên cứu đề tài " Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết
việc làm ở địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 2010 " dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị là cần thiết, có ý nghĩa khoa học
và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích:
- Đề tài nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm.

Trang 5


- Đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng giải quyết việc làm ở địa bàn thành phố
Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết
việc làm ở địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 –
2010.
3.2 Nhiệm vụ:

- Nghiên cứu thực trạng việc giải quyết việc làm ở địa bàn thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010.
- Đề tài tập trung vào các vấn đề có tính trọng điểm: giải quyết việc làm
ở địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang từ năm 2005 đến năm 2010,
xây dựng một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết
việc làm thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang trong thời gian từ nay đến
năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài chủ yếu nghiên cứu và làm rõ thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giải quyết việc làm ở địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
giai đoạn 2005 – 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nghiên cứu.
- Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp luận phổ biến và đặc thù
của chuyên ngành như: phương pháp đối chiếu và phân tích, phương pháp
thống kê, phương pháp điều tra, phương pháp hệ thống và cấu trúc, phương
pháp tổng hợp. Đồng thời khảo sát thực tế, sưu tập tư liệu, số liệu, tình hình về
lao động việc làm từ các cơ quan nghiên cứu, quản lý như: UBND, Sở Lao
động - thương binh và xã hội, thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,... kết hợp
tranh thủ ý kiến của các "chuyên gia" trong lĩnh vực này.
6. Đóng góp của đề tài:

Trang 6


- Đề tài nhằm làm rõ thực trạng giải quyết việc làm ở địa bàn thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm ở địa
bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010.

7. Kết cấu:
Đề tài gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và mục lục. Phần nội dung gồm có 2 chương và 4 tiết.

PHẨN 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và giải quyết việc làm
1.1 Khái quát về việc làm và giải quyết việc làm, thất nghiệp
1.1.1 Khái niệm việc làm
1.1.2 Khái niệm giải quyết việc làm
1.1.3 Khái niệm thất nghiệp
1.1.4 Quan niệm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về lao động việc làm
1.1.5 Quan niệm của Đảng ta về vấn đề lao động, việc làm
1.2 Ảnh hưởng của việc tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực
1.2.1 Tầm quan trọng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân
lực
1.2.2 Sự cần thiết phải tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người
lao động.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010.
2.1 Giới thiệu chung về thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
2.1.1 Kinh tế
2.1.2 Chính trị
2.1.3

Xã hội

Trang 7


2.2 Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc làm ở thành phố

Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010.
2.2.1 Thực trạng giải quyết việc làm ở thành phố Long Xuyên, tỉnh
An Giang giai đoạn 2005 – 2010.
2.2.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả giải
quyết việc làm ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai
đoạn 2005 – 2010.

PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 8


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và giải quyết
việc làm
1.1 Khái quát về việc làm và giải quyết việc làm, thất nghiệp
1.1.1Khái niệm việc làm
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa nhằm làm sáng tỏ: “việc làm là gì? ”. Ở các quốc gia khác
nhau do ảnh hưởng của nhiều yếu tố (như điều kiện kinh tế, chính trị, luật
pháp…) người ta quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế không
có một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
Có ý kiến cho rằng, việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp
giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Như vậy theo quan điểm này chỉ khi
có sự phù hợp về số lượng của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất thì ở
đó có việc làm. Với cách hiểu việc làm như khái niệm trên thì chưa thật toàn
diện. Bởi vì còn một yếu tố thứ ba rất quan trọng đó là điều kiện lao động. Nếu
điều kiện lao động không đảm bảo thì quá trình lao động cũng không thể diễn

ra được. Ở đây con người là động lực, là trung tâm của sự phát triển xã hội,
với sức lực của mình là thể lực và trí lực, con người chỉ có thể tham gia đóng
góp cho sự phát triển xã hội thông qua quá trình làm việc, quá trình làm việc
này được thể hiện qua hai yếu tố chủ quan và khách quan đó là sức lao động
của người lao động và tất cả các điều kiện tối thiểu cần thiết để người lao động
sử dụng sức lao động của họ tác động lên tư liệu sản xuất và tạo ra sản phẩm
xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và các điều kiện cần thiết để sử dụng
sức lao động là quá trình người lao động làm việc. Quá trình lao động đồng
thời là quá trình sử dụng sức lao động trong sản xuất được gọi là việc làm.
Trong điều 13 Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam nêu rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật
cấm đều đuợc thừa nhận là việc làm.”[1, tr14]. Các hoạt động được xác định là
việc làm bao gồm: làm các công việc được trả công dưới dạng tiền hoặc hiện
vật; công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia
đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó.
Trên thực tế việc làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức:

Trang 9


+ Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho
công việc đó.
+ Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có
quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để
tiến hành công việc đó.
+ Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả
thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản
xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc 1 thành
viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý.
Khái niệm trên nói chung là khá bao quát và thể hiện đầy đủ các yếu tố

cơ bản của việc làm tuy nhiên chúng ta cũng thấy rõ hai hạn chế cơ bản. Hạn
chế thứ nhất: hoạt động nội trợ không được coi là việc làm trong khi đó hoạt
động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất
không hề nhỏ. Hạn chế thứ hai: khó có thể so sánh tỉ lệ người có việc làm giữa
các quốc gia với nhau vì quan niệm về việc làm giữa các quốc gia có thể khác
nhau phụ thuộc vào luật pháp, phong tục tập quán,…Có những nghề ở quốc gia
này thì được cho phép và được coi đó là việc làm nhưng ở quốc gia khác lại bị
cấm. Ví dụ: đánh bạc ở Việt Nam bị cấm nhưng ở Thái Lan, Mỹ đó lại đựơc
coi là một nghề thậm chí là rất phát triển vì nó thu hút khá đông tầng lớp
thượng lưu.
Trong cuộc tổng điều tra thực trạng lao động và việc làm năm 1996, Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội thì người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở
lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra: đang
có việc làm để nhận tiền công, tiền lương; đang làm việc nhưng không được
hưởng tiền trong các công việc kinh doanh của hộ gia đình mình hoặc đã có
công việc trước đó song tuần lễ trước điều tra tạm thời nghỉ việc sau đó sẽ tiếp
tục làm việc.
Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu bao
cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân
trọng là khi người có việc làm trong các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
như quốc doanh, tập thể. Với cơ chế đó thì xã hội không thừa nhận thiếu việc
làm cũng như thất nghiệp. Ngày nay các quan niệm về việc làm đã ngày càng
được hiểu rộng hơn, đúng đắn và mang tính khoa học nhiều hơn.
Tuỳ theo các mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta phân chia việc làm
thành nhiều loại.

Trang 10


Theo mức độ sử dụng thời gian làm việc thì có việc làm chính và việc

làm phụ
+ Việc làm chính: là việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian
nhất hay có thu nhập cao nhất và đòi hỏi yêu cầu của công việc cần trình độ
chuyên môn kỹ thuật.
+ Việc làm phụ: là việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian
nhất sau công việc chính.
Ngoài ra, người ta còn chia việc làm thành việc làm bán thời gian, việc làm
đầy đủ, việc làm có hiệu quả, …
Khi nghiên cứu việc làm ta phải tìm hiểu các đặc trưng của việc làm. Đó chính
là việc tìm hiểu cơ cấu hoặc cấu trúc dân số có việc làm theo các tiêu chí khác
nhau nhằm làm rõ các khía cạnh của vấn đề việc làm. Bao gồm có:
+ Cấu trúc dân số có việc làm theo giới và tuổi:
Cho biết trong số những người có việc làm thì tỉ lệ nam, nữ là bao nhiêu; độ
tuổi nào là lực lượng lao động chính (chiếm phần đông trong lực lượng lao
động).
+ Sự thay đổi quy mô việc làm theo vùng (nông thôn- thành thị):
Cho biết khả năng tạo việc làm ở hai khu vực này cũng như tiềm năng tạo
thêm việc làm mới trong tương lai.
+ Cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế:
Cho biết ngành kinh tế nào trong nền kinh tế quốc dân có khả năng thu hút
được nhiều lao động nhất ở hiện tại và tương lai; sự dịch chuyển lao động giữa
các ngành này. Trong nền kinh tế quốc dân ngành kinh tế được chia làm 3 khu
vực lớn. Khu vực I: ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, thủy sản; Khu vực II:
ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, khai thác mỏ, năng lượng;
Khu vực III: dịch vụ.
+ Cơ cấu việc làm theo nghề:
Cho biết nghề nào hiện tại đang tạo ra được nhiều việc làm nhất và xu hướng
lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai của người lao động.
+ Cấu trúc việc làm theo thành phần kinh tế:
Cho biết hiện tại lực lượng lao động đang tập trung nhiều nhất trong thành

phần kinh tế nào và xu hướng dịch chuyển lao động giữa các thành phần kinh
tế trong tương lai. Thành phần kinh tế được chia dựa trên quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất.
+ Trình độ văn hoá và đào tạo của dân số theo nhóm tuổi và giới tính,
theo vùng:

Trang 11


Sự phân chia ở trên chỉ mang tính chất tương đối với mục đích để người đọc
mường tượng được vấn đề. Trong thực tế các đặc trưng trên luôn có tác động
qua lại lẫn nhau.Ví dụ: ta có cấu trúc dân số có việc làm theo giới và tuổi ở
khu vực thành thị; Cấu trúc dân số có việc làm theo giới và tuổi theo vùng,
lãnh thổ…

1.1.2 Khái niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm( tạo việc làm) là quá trình tạo ra số lượng và chất
lượng tư liệu sản xuất; số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện
kinh tế xã hội cần thiết khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Như vậy, muốn tạo việc làm cần 3 yếu tố cơ bản: tư liệu sản xuất, sức
lao động và các điều kiện KTXH khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao
động. Ba yếu tố này lại chịu tác động của nhiều yếu tố khác như:
+ Nhân tố điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ: là các tiền đề vật chất để
tiến hành bất cứ một hoạt động sản xuất nào. Điều kiện tự nhiên do thiên nhiên
ưu đãi. Vốn do tích luỹ mà có hoặc được tạo ra từ các nguồn khác. Công nghệ
do tự sáng chế hoặc áp dụng theo những công nghệ đã có sẵn. Chẳng hạn như
vốn đầu tư để mua sắm thiết bị máy móc, nhà xưởng mở rộng quy mô sản xuất
là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn. Khi vốn đầu tư tăng thì tạo ra được nhiều
chỗ làm việc mới và ngược lại đầu tư ít thì quy mô bị thu nhỏ lại kéo theo sự
giảm đi về số lượng việc làm được tạo ra. Nhân tố này cùng với sức lao động

nói nên năng lực sản xuất của một quốc gia.
+ Nhân tố bản thân người lao động trong quá trình lao động. Bao gồm:
thể lực, trí lực, kinh nghiệm quản lý, sản xuất của người lao động. Người lao
động có được những thứ này lại phụ thuộc vào điều kiện sống, quá trình đào
tạo của giáo dục và tích luỹ kinh nghiệm của bản thân, sự kế thừa những tài
sản đó từ các thế hệ trước.
+ Cơ chế, chính sách kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia: Việc làm được
tạo ra như thế nào, chủ yếu cho đối tượng nào, với số lượng dự tính bao
nhiêu,… phụ thuộc vào cơ chế, chính sách KT-XH của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ cụ thể. Vì khi các chính sách kinh tế phù hợp sẽ tạo điều kiện
khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển làm cho cầu lao động tăng
đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều chỗ làm mới.
+ Hệ thống thông tin thị trường lao động: được thực hiện bởi chính phủ
và các tổ chức kinh tế, cá nhân có nhu cầu tuyển dụng lao động thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, đài phát

Trang 12


thanh,…Các thông tin bao gồm thông tin về: sẽ học nghề ở đâu? nghề gì? khi
nào? tìm việc ở đâu? Đồng thời cũng hệ thống được nhu cầu của thị trường về
sản phẩm, tìm hiểu được nhu cầu thị hiếu đối với các sản phẩm do các doanh
nghiệp sản xuất vì khi sản xuất ra còn ảnh hưởng không nhỏ đến việc tạo ra
chỗ làm mới. Nếu sản phẩm sản xuất ra được đưa ra thị trường đảm bảo cả về
chất lượng và số lượng, mà thị trường chấp nhận. Bởi vì sản phẩm tiêu thụ
được sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, các doanh nghiệp các nhà xưởng sẽ mở
rộng quy mô sản xuất của mình, đi đôi với mở rộng sản xuất là cầu về lao
động tăng lên. Ngược lại khi cầu về sản phẩm hàng hoá giảm sẽ làm ngừng trệ
sản xuất, doanh nghiệp sẽ thu hẹp qui mô cũng như tốc độ sản xuất làm cho
lao động không có việc làm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp.

Ngoài ra, dân số và lao động là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ với
nhau, quy mô dân số càng lớn thì nguồn lao động càng nhiều và ngược lại khi
nguồn lao động càng lớn lại là sức ép đối với công tác tạo việc làm cho người
lao động bởi vì: Khi cung về lao động lớn sẽ tạo ra một lượng lao động dư
thừa cần giải quyết việc làm. Ngược lại khi cầu lao động lớn hơn cung lao
động sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động tham gia vào các ngành kinh tế.
Vì vậy tỉ lệ tăng dân số và nguồn nhân lực có ảnh hưởng đến vấn đề lao động
và tạo việc làm cho người lao động. Trên thực tế tạo việc làm được phân loại
như sau:
+ Tạo việc làm ổn định: Công việc được tạo ra cho người lao động mà tại
chỗ làm việc đó và thông qua công việc đó họ có thu nhập lớn hơn mức thu
nhập tối thiểu hiện hành và ổn định theo thời gian từ 3 năm trở lên. Việc làm
ổn định luôn tạo cho người lao động một tâm lý yên tâm trong công việc để
lao động hiệu quả hơn .
Tạo việc làm không ổn định là: Công việc làm ổn định nhưng người thực
hiện phải liên tục năng động theo không gian, thường xuyên thay đổi vị trí làm
việc nhưng vẫn thực hiện cùng một công việc. Hoặc công việc làm không ổn
định mà người lao động phải thay đổi công việc của mình liên tục trong thời
gian ngắn.
Tạo việc làm là quá trình tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự kết hợp
giữa tư liệu sản xuất, công cụ sản xuất và sức lao động. Tạo việc làm và giải
quyết việc làm cho người lao động luôn là vấn đề bức xúc và quan trọng, nó
mang mục đích ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với từng người lao động và toàn
xã hội.
Mục đích của tạo việc làm nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực, các tiềm năng kinh tế, tránh lãng phí nguồn lực xã hội. Về mặt xã

Trang 13



hội tạo việc làm nhằm mục đích giúp con người nâng cao vai trò của mình
trong quá trình phát triển kinh tế, giảm được tình trạng thất nghiệp trong xã
hội. Không có việc làm là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã
hội như: trộm cắp, lừa đảo, nghiện hút .. giải quyết việc làm cho người lao
động nhất là các thanh niên là hạn chế các tệ nạn xã hội do không có ăn việc
làm gây ra và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội đòi hỏi. Về mặt kinh tế khi
con người có việc làm sẽ thoả mãn được các nhu cầu thông qua các hoạt động
lao động để thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần, ổn định và nâng cao đời
sống của người lao động. Việc làm hiện nay gắn chặt với thu nhập. Người lao
động không muốn làm ở những nơi có thu nhập thấp đó là một thực tế do nhu
cầu đòi hỏi của xã hội. Bởi vậy tạo điều kiện có việc làm cho người lao động
thôi chưa đủ mà còn tạo việc làm gắn với thu nhập cao mang lại sự ổn định
cuộc sống cho người lao động.
Giải quyết việc làm, tạo việc làm cho người lao động có ý nghĩa giúp họ
tham gia vào qua trình sản xuất xã hội cũng là yêu cầu của sự phát triển, là
điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của con người.

1.1.3 Khái niệm thất nghiệp
Thất nghiệp là hiện tượng có sự tách rời, không phù hợp giữa sức lao
động với tư liệu sản xuất mà sức lao động lại gắn với từng con người cụ thể vì
thế nên người thất nghiệp là người không có phương tiện để sản xuất và đang
muốn tìm việc làm.
Trong cuộc tổng điều tra thực trạng lao động và việc làm năm 1996, Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội đã quy định như sau: “Người thất nghiệp là
người từ độ tuổi từ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế trong
thời kì điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc.”
Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có
việc làm mà không tìm được việc làm (từ Hán-Việt thất: mất mát, nghiệp: việc
làm). Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên
tổng số lực lượng lao động xã hội. Công thức tính tỷ lệ thất nghiệp như sau:


Số người không có việc làm
Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x
Tổng số lao động xã hội

Trang 14





Tử số: Không tính những người không cố gắng tìm việc.
Mẫu số: Tổng số lao động xã hội = Số người có việc làm + số người
không có việc làm nhưng tích cực tìm việc.

Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động nhưng không có việc
làm, có khả năng lao động, hay nói cách khác là sẵn sàng làm việc và đang đi
tìm việc làm. Thất nghiệp được chia thành nhiều loại:
- Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do di chuyển không ngừng của sức lao
động giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc
sống.
- Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao
động, việc làm. Sự không ăn khớp giữa số lượng và chất lượng đào tạo và cơ
cấu về yêu cầu của việc làm, mất cân đối giữa cung và cầu lao động.
- Thất nghiệp chu kỳ: Phát sinh khi mức cầu chung về lao động thấp và
không ổn định. Những giai đoạn mà cầu lao động thấp nhưng cung lao động
cao sẽ xảy ra thất nghiệp chu kỳ.
* Ảnh hưởng của thất nghiệp đối với kinh tế và xã hội là không nhỏ cụ thể:
Nếu xét trên nền kinh tế quốc dân thì tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa
với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực con người không

được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ, ảnh hưởng
trực tiếp tới nền kinh tế. Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm
tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô.Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội
giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi,
chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao
đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu
tư cũng ít hơn.
Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người
lao động khác, tiêu tốn thời gian vô nghĩa, không có khả năng chi trả, mua sắm
vật dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Yếu tố sau là vô cùng
trầm trọng cho người gánh vác nghĩa vụ gia đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh.
Những nghiên cứu cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng
tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và suy giảm chất lượng sức khỏe.
Cái giá khác của thất nghiệp còn là khi thiếu các nguồn tài chính và
phúc lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với
trình độ, năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả
năng.

Trang 15


Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cả người lao động và chủ sử
dụng lao động trong quá trình sản xuất. Người lao động có thể tìm những cơ
hội việc khác phù hợp với khả năng mong muốn và điều kiện cư trú. Về phía
giới chủ, tình trạng thất nghiệp giúp họ tìm được người lao động phù hợp, tăng
sự trung thành của người lao động.

1.1.4 Quan niệm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về lao động việc
làm
Theo quan điểm của Mác thì việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù

hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất,
công nghệ,…) để sử dụng sức lao động đó.
Sức lao động do người lao động sở hữu. Những điều kiện cần thiết như
vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,… có thể do người lao động có quyền sở hữu,
sử dụng hay quản lý hoặc không. Theo quan điểm của Mác thì bất cứ tình
huống nào xảy ra gây nên trạng thái mất cân bằng giữa sức lao động và điều
kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó đều có thể dẫn tới sự thiếu việc làm
hay mất việc làm.

1.1.5 Quan niệm của Đảng ta về vấn đề lao động, việc làm
Chủ trương về tạo việc làm đã được Đại hội VIII nêu rõ: “khuyến khích
mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề,
tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành
nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm, phân
bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có
tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại đẩy
mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm
ở nông thôn” [ 2, tr114 - 115]. Đồng thời giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất
nghiệp là mục tiêu xã hội hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Chương trình
quốc gia về giải quyết việc làm là chương trình trọng yếu của Nhà nước. Đảng
ta đã khẳng định: “giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố
con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hóa xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” [ 2, tr148 ].
Trong kế hoạch 10 năm 2001-2010, quan điểm của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về việc phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thế hệ trẻ Việt Nam
là đặt con người vào vị trí trung tâm, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân

Trang 16



và cả cộng đồng dân tộc; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hoá xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, coi
phát triển kinh tế là cơ sở, là phương tiện và tiền đề để thực hiện các chính
sách xã hội, vừa là động lực, vừa tạo sự ổn định về chính trị xã hội làm cơ sở
cho việc tăng trưởng kinh tế bền vững.
Từ quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước và chỉ
làm việc trong hai thành phần kinh tế cơ bản: Quốc doanh và Hợp tác xã trong
thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, thì nay quan điểm của Đảng và Nhà nước ta có
nhận thức hoàn toàn mới: Cùng với Nhà nước, mỗi công dân, mỗi gia đình,
mỗi tổ chức đều có thể và được phép tạo mở việc làm, được làm việc trong các
thành phần kinh tế bao gồm mọi hình thức tổ chức kinh doanh từ các doanh
nghiệp lớn đến các loại quy mô vừa và nhỏ, kinh tế hộ gia đình, các hoạt động
trong khu vực phi kết cấu.
Nhà nước có định hướng rõ ràng chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Sự phát triển nhanh và bền vững phải bao trùm mọi mặt đời sống xã hội trong
đó kinh tế là trung tâm, tăng trưởng kinh tế phải gắn với thực hiện công bằng
và tiến bộ xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là
một trọng điểm trong thập kỷ tới, phát triển nền nông nghiệp hàng hoá khai
thác phát triển lợi thế về điều kiện sinh thái phù hợp với nhu cầu thị trường tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng quỹ sử dụng
thời gian lao động và nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn. Phát huy trí
tuệ con người thông qua phát triển giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực, đuổi kịp trình độ tiên tiến của cả nước và khu vực, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế.
Tư tưởng nhất quán của Đảng coi: con người là chủ thể và là nguồn lực quan
trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam;
mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao
cả là vì con người.

1.2


Ảnh hưởng của việc tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn
nhân lực
1.2.1 Tầm quan trọng của tạo việc làm đến việc sử dụng
nguồn nhân lực

Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vấn đề tận dụng điều
kiện địa hình, địa lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn

Trang 17


nhân lực và vốn, khoa học kỹ thuật. Trong đó việc sử dụng nguồn nhân lực có
vai trò quan trọng và quyết định đến sự phát triển, tốc độ, quy mô của nền kinh
tế. Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) đã đưa ra một quan điểm về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững” [ 4, tr85] và “Nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [ 2,
tr21].
Tạo việc làm nhằm nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực thông qua các
hướng sau:
Tạo việc làm và giải quyết việc làm nhằm phân bổ lao động một cách
hợp lý, góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý đưa đến một hệ thống lao động
phù hợp với cơ cấu hệ thống ngành nghề có sự phối hợp hài hoà giữa các bộ
phận tổ chức, bố trí lao động phù hợp với đặc điểm tính chất của công việc sẽ
nâng cao năng suất lao động cá nhân, giúp họ phát triển khả năng và sự sáng
tạo của mình trong quá trình sản xuất phát triển .
Tạo ra nhiều chỗ làm việc mới sẽ thu hút được nhiều lao động tham gia
vào quá trình sản xuất xã hội và sẽ giải quyết các vấn đề mang tính xã hội như:

nâng cao, cải thiện đời sống, hạn chế các hiện tượng, tâm lý tiêu cực trong xã
hội .
Tạo việc làm là một trong những động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực vì khi các công việc được taọ mới bao giờ cũng đòi hỏi một
chuyên môn kỹ thuật cao ở người lao động mà theo quy luật của quá trình
tuyển dụng thì người ứng cử viên cũng phải có một trình độ tương đương bởi
thế cho nên người luôn có xu hướng tích luỹ kiến thức, trình độ lành nghề cho
chính mình để có cơ hội tham gia vào hoạt động kinh tế.
Bối cảnh thế giới hiện nay đang có những thay đổi rất nhanh, hết sức
phức tạp, khó lường, cộng với thảm họa thiên tai và xung đột quân sự đang
diễn ra ở nhiều nơi. Nhiều vấn đề toàn cầu như an ninh lương thực, biến đổi
khí hậu, dịch bệnh....đòi hỏi phải giải quyết. Khoa học - công nghệ và kinh tế
tri thức đang diễn ra mạnh mẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải có nguồn nhân
lực tương xứng với chất lượng cao. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi mỗi quốc
gia phải có chiến lược khai thác tốt nhất mọi nguồn lực sẵn có, trong đó nguồn
lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao chính là sức mạnh
nội sinh và là nguồn lực quyết định nhất.
Để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng nguồn nhân lực ta không chỉ
xem xét trên một khía cạnh nào đó mà phải nghiên cứu một cách tổng thể toàn

Trang 18


bộ các khía cạnh của nguồn nhân lực .Các khía cạnh này được bao quát bởi
nguồn dân số và thể hiện thông qua quy mô,cơ cấu, tốc độ tăng dân số:
Dân số là toàn bộ dân cư sống trên một địa bàn lãnh thổ xác định. Quy
mô, cơ cấu và tốc độ tăng dân số có ảnh hưởng trục tiếp đến số lượng nguồn
nhân lực và nó được thể hiện qua bởi chỉ tiêu tỷ lệ giữa nguồn nhân lực và dân
số. Tỷ lệ này càng cao biểu hiện nguồn nhân lực về lao động càng lớn.
Dân số

Trong tuổi lao động
Ngoài tuổi lao động
Không có khả
Có khả năng lao
Thực tế đang
Không có khả
năng lao động
động
làm việc
năng lao động
Nguồn nhân lực
Sơ đồ cơ cấu nguồn lao động
Nguồn lao động là toàn bộ nhóm dân cư có khả năng lao động đã hoặc
chưa tham gia vào các hoạt động sản xuất xã hội. Bao gồm những người trong
độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động
đang làm việc trong nền kinh tế.
Quy mô nguồn lao động ở các quốc gia khác nhau thì khác nhau tuy
nhiên nó đều phụ thuộc vào 3 yếu tố sau:
+ Quy mô phát triển dân số, dân số càng phát triển nhanh thì nguồn lao
động càng lớn.
+ Tỷ lệ nguồn lao động trong dân số.
+Chế độ chính trị, xã hội, điều kiện tự nhiên của đất nước.
Nguồn lao động được thể hiện khả năng lao động xã hội nói lên lực
lượng xã hội trong sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. Nguồn lao động Việt
Nam biểu hiện số lao động sản xuất ở các ngành kinh tế của Việt Nam. Nguồn
lao động bao gồm:
- Nguồn lao động có sẵn trong dân số: Đây là dân số hoạt động bao gồm
những người có khả năng lao động đã hoặc chưa tham gia vào quá trình sản
xuất xã hội. Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động. Không kể đến trạng thái có việc làm hay không có việc làm.

- Nguồn lao động đang tham gia hoạt động kinh tế: Đó là những người
có khả năng lao động, đang hoạt động trong những ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy giữa nguồn lao động có sẵn trong dân cư và nguồn lao động
tham gia hoạt động kinh tế có sự khác nhau. Sự khác nhau này là do một bộ
phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng vì nhiều
nguyên nhân khác nhau chưa tham gia hoạt động kinh tế như: thất nghiệp, có

Trang 19


việc làm nhưng không muốn làm việc, còn đang đi học, có nguồn thu nhập
khác không cần đi làm.
- Nguồn lao động dự trữ: Là những người có khả năng lao động nhưng
chưa tham gia lao động. Bao gồm: người làm công việc nội trợ, người tốt
nghiệp các trường phổ thông, trung học, chuyên nghiệp, người đã hoàn thành
nghĩa vụ quân sự.
Đối với Việt Nam là một nước có đặc điểm dân số trẻ, tỷ lệ tăng dân số
hàng năm ở mức độ cao, nền sản xuất xã hội đang ở trong giai đoạn thấp. Mặt
khác chúng ta đang đứng trước một nền kinh tế dư thừa về lao động, số người
chưa có việc làm và có việc làm nhưng chưa ổn định thường xuyên còn cao,
hiệu quả sử dụng nguồn lao động kém, lãng phí nguồn lao động ở mức độ cao,
năng suất lao động thấp. Sự phân bố lao động giữa thành thị và nông thôn
trong nội bộ các vùng, các ngành chưa phù hợp còn mất cân đối. Các nguồn
nhân lực có trình độ lành nghề, cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn đại
học và trên đại học chưa được bố trí sử dụng hợp lý. Đó chính là vấn đề đặt ra
đối với mọi cấp mọi ngành quan tâm nghiên cứu, đặc biệt các ngành chuyên
môn về tổ chức lao động, giải quyết việc làm và dân số nước ta .
Đảng xác định phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” [ 3, tr106 ]. Trong điều kiện khoa
học - công nghệ và kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng như hiện nay,

những nước có trình độ phát triển thấp vẫn có thể tận dụng thời cơ, ứng dụng
những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại để vươn lên tránh nguy cơ
tụt hậu và tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Song điều đó chỉ trở thành
hiện thực nếu có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư gia tăng nhanh chóng chất
lượng nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ mới,
tiên tiến.
Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực là việc sử dụng hợp lý lao động đúng
người đúng việc, đúng chuyên môn kỹ thuật nhằm khai thác một cách tối ưu
nguồn lực của người lao động kết hợp với các nguồn tư liệu sản xuất để nâng
cao chất lượng của quá trình lao động, thúc đẩy sự phát triển cảu nền kinh tế.
Sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả thúc đẩy nâng cao năng xuất
lao động xã hội, sử dụng hợp lý quỹ thời gian lao động tạo cho người lao động
có cơ hội phát huy năng lực của mình theo nguyện vọng. Đối với xã hội tạo
được sự cân bằng giữa các ngành nghề, thành phần kinh tế giữa nông thôn và
thành thị, góp phần tránh tình trạng dư thừa nhân lực, nâng cao tỷ suất sử dụng
nguồn nhân lực vào các ngành sản xuất vật chất xã hội.

Trang 20


Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng và chất, tại Đại hội XI
của Đảng chỉ rõ phải “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý là khâu then chốt” [ 3, tr130 - 131].
Nguồn nhân lực luôn luôn được biểu hiện bởi hai chỉ tiêu đó là chất
lượng và số lượng nhân lực.
Thông qua quy mô và tốc độ tăng dân số và nguồn nhân lực thấy được số
lượng nguồn nhân lực trong từng thời điểm, từng thời kỳ.
Chất lượng nguồn nhân lực được phản ánh thông qua cơ cấu nhân lực

(Cơ cấu theo tuổi, giới tính) thông qua trình độ lành nghề, trình độ chuyên
môn của nguồn nhân lực.

1.2.2 Sự cần thiết phải tạo việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động
Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, nó
thể hiện vai trò của xã hội đối với người lao động, sự quan tâm của xã hội về
đời sống vật chất, tinh thần của người lao động và nó cũng là cầu nối trong
mối quan hệ giữa xã hội và người. Việc làm là nơi diễn ra những hoạt động
của người lao động, những hoạt động này được công nhận qua những công
việc mà họ đã làm và nó cũng là nơi để họ thể hiện những kết quả học tập của
mình đó là trình độ chuyên môn.
Tạo việc làm là vấn đề chính để người lao động có việc làm và có thu
nhập để tái sản xuất sức lao động xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp và do đó hạn
chế được những phát sinh tiêu cực do thiếu việc làm gây ra.
Tạo việc làm đáp ứng nhu cầu tìm việc nhu cầu lao động của con người
vì lao động là phương tiện để tồn tại chính của con người.
Do đó mọi chủ trương chính sách đúng đắn là phải phát huy cao độ khả
năng nguồn lực con người, nếu có sai phạm thì nguồn lao động sẽ trở thành
gánh nặng, thậm trí gây trở ngại, tổn thất lớn cho nền kinh tế cũng như xã hội
đồng thời kẻ địch dễ lợi dụng, công kích. Vì vậy một quốc gia giải quyết tốt
vấn đề việc làm cho người lao động là thành công lớn trong sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội, chính trị của mình.

Trang 21


Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp cơ bản giải quyết việc
làm ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang giai đoạn 2005 – 2010.
2.1 Giới thiệu chung về thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Thành phố Long Xuyên là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang, có
diện tích tự nhiên 115,34 ha, có 13 đơn vị hành chính gồm 11 phường và 2 xã;
có hệ thống giao thông thủy, bộ thuận lợi nối liền các địa phương trong, ngoài
tỉnh và nước bạn Campuchia, nên Long Xuyên có vai trò là trung tâm kinh tế,
văn hóa, khoa học kỹ thuật – hành chính, giáo dục đào tạo, du lịch, dịch vụ
đầu mối giao thông và thương mại của tỉnh An Giang. Dân số trung bình của
thành phố Long Xuyên năm 2008 là 278.804 người, chiếm 12,38% dân số toàn
tỉnh; trong đó số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động là 181.800
người chiếm 65,9% dân số; Lao động có việc làm trong năm là 143.600 người,
trong đó lao động nữ chiếm 45% số lao động có việc làm trong năm; Lao động
được giải quyết việc làm mới bình quân mỗi năm từ 7 đến 8.000 người, trong
đó lao động nữ chiếm 41%.
2.1.1 Kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của thành phố Long Xuyên giai
đoạn 2006 - 2010 là 14,68%, trong đó khu vực thương mại dịch vụ đạt 16,04,
công nghiệp - xây dựng đạt 14,09, và khu nông nghiệp đạt – 0,41%.
Cho thấy, ở 2 khu vực thương mại dịch vụ và công nghiệp xây dựng có
mức tăng trưởng khá cao và ổn định, đạt và vượt kế hoạch Nghị quyết lần thứ
IX của Đảng bộ thành phố, góp phần quyết định vào tăng trưởng chung của
thành phố. Còn khu vực nông nghiệp thì tăng trưởng không đáng kể và thiếu
ổn định. Có năm tăng trưởng âm (năm 2006: -2,9%, năm 2008: -6,8%). Điều
này cho thấy khả năng hạn chế trong việc gia tăng sản lượng nông nghiệp, chủ
yếu là cá nuôi và lúa trên địa bàn; Những hạn chế về nguồn lực tự nhiên như
đất nông nghiệp suy giảm nhanh, nguồn nước ngày càng ô nhiễm, biến động

Trang 22


giá cả thị trường nông sản, khả năng cạnh tranh… đây là những thách thức lớn
trong phát triển nông nghiệp của thành phố trong thời gian tới.

Số liệu cho thấy dịch vụ là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu
kinh tế của thành phố từ năm 2006 đến nay, kế đến là ngành công nghiệp - xây
dựng và thấp nhất là ngành nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng đã tác động tích cực cho nền
kinh tế phát triển, trong đó khu vực thương mại - dịch vụ chiếm 73%, công
nghiệp - xây dựng 23,5% và nông nghiệp chiếm 3,5%. GDP bình quân đầu
người năm 2010 đạt 41 triệu đồng, so năm 2005 tăng 2,5 lần( tương đương
2.150 USD). Môi trường kinh tế ổn định, thông qua các chủ trương chính sách
phát triển phù hợp đã triển khai.
Lĩnh vực thương mại – dịch vụ: phát triển mạnh nhất là các loại hình
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Các loại thị trường: thương mại, hàng
hóa, tiền tệ, lao động, … phát triển mạnh. Nhiều cơ sở mua bán lớn được hình
thành như: chợ Long Xuyên, chợ Mỹ Phước, trung tâm thương mại Long
Xuyên( coopmark), siêu thị Metro, trung tâm mua sắm Nguyễn Huệ, hàng hóa
đa dạng phong phú đáp ứng nhu cầu mua sắm của nhân dân; Có 34 ngân hàng
và chi nhánh đang hoạt động trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh; Du lịch thu hút trên 300 ngàn lượt du khách dừng chân nghỉ ngơi
tham quan mua sắm hàng năm; Lĩnh vực viễn thông, bưu chính phát triển rộng
khắp; Xuất khẩu phát triển với số lượng hàng hóa xuất khẩu bình quân hàng
năm là 200.000 tấn gạo, 100.000 tấn cá, 5,5 triệu sản phẩm may mặc. Các loại
thị trường khác như: xây dựng, khoa học, công nghệ, vận tải,… cũng như trên
đà phát triển nhanh.
Công tác khuyến thương đã được triển khai và thực hiện tốt đạt được
những kết quả nhất định: quan tâm chú trọng nhiều cho việc xúc tiến thương
mại và đầu tư, thực hiện chủ trương kích cầu,…đã tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giữ vững và vượt qua được ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới.
Lĩnh vực công nghiệp chế biến – xây dựng: Các ngành chế biến thủy
sản, chế biến lương thực, sản xuất thức ăn chăn nuôi - thủy sản, ngành may
mặc, sản xuất hàng tiêu dùng… vẫn đứng vững, giá trị sản xuất năm 2009 tăng
2,14 lần so với năm 2005, nhiều cơ sở sản xuất mới ra đời và sản xuất có hiệu

quả, có 03 làng nghề truyền thống là: lưỡi câu, làm nhang, bánh tráng được
công nhận. Thành phố đã xây dựng hoàn thiện hạ tầng khu Chế biến thủy sản
Mỹ Quý, chuẩn bị triển khai xây dựng khu tiểu thủ công nghiệp Tây Huề.
Ngành xây dựng phát triển mạnh, có 198 doanh nghiệp mới hình thành, đáp
ứng như cầu xây dựng các loại công trình và nhà ở cho nhân dân.

Trang 23


Xuất phát từ tình hình thực tế thì công tác khuyến công đã triển khai và
thực hiện tốt ở hầu hết các khâu chuyển giao khoa học công nghệ, kêu gọi đầu
tư, đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất, đầu tư, mở rộng thị trường,… nhằm đáp
ứng nhu cầu sản xuất trong địa bàn cũng như góp phần vào việc nâng cao tốc
độ tăng trưởng kinh tế của thành phố.
Lĩnh vực nông nghiệp: sản xuất ra nhiều mặt hàng như: lúa, cá, thịt gia
súc, gia cầm, hoa màu,… đáp ứng cho yêu cầu tiêu dùng và xuất khẩu của
thành phố. Diện tích cây trồng giảm dần do tốc độ đô thị hóa, tuy nhiên năng
suất, chất lượng tăng, đáp ứng yêu cầu cuộc sống của nhân dân; diện tích nuôi
trồng và sản lượng thủy sản tăng mạnh; chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục
phát triển. Bình quân sản lượng lương thực thực phẩm hàng năm sản xuất ra
gồm: lúa 72 ngàn tấn, gần 3 ngàn tấn thịt gia súc gia cầm, cá 333 ngàn tấn.
Thành phố hiện đã hình thành được 495 trang trại sản xuất nông nghiệp( kể
luôn thủy sản), góp phần đáng kể cho việc chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng
của ngành nông nghiệp.
Công tác khuyến nông đã có tác dụng tích cực và mang lại hiệu quả
cao, vừa hướng dẫn nông dân sản xuất thao khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện
hỗ trợ nông dân về vốn, đào tạo nghề, tìm hiểu thị trường,.. vừa theo dõi
hướng dân nông dân bảo vệ chăm sóc cây trồng và vật nuôi.
Vùng ven, nông thôn của thành phố được quan tâm xây dựng đồng bộ
ngày càng hoàn thiện hơn về kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông( đã huy động

trên 18 tỷ đồng nhân dân đóng góp, cơ bản phủ nhựa, bê tông hóa khắp địa
bàn nông thôn), kế đến là thủy lợi, cấp điện, cấp nước, trường học, trạm y tế,
chợ,… tạo nền tảng cho sự phát triển sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống
nhân dân.
2.1.2 Chính trị
Bộ máy chính quyền thành phố được sắp xếp tinh gọn và từng bước
được kiện toàn theo Nghị định 14/CP của Chính phủ, đã phát huy vai trò tham
mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố trong quản lý Nhà nước. Đưa đi đào tạo
chuyên môn ( đại học, cao đẳng, trung cấp) cho 229 lượt cán bộ, cán bộ đạt
chuẩn về chuyên môn ở cấp thành phố và phường xã đạt 90% tăng lên đáng kể
so với nhiệm kỳ trước.
Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, không để xảy ra điểm nóng
về chính trị, đấu tranh ngăn chặn kịp thời các hoạt động lợi dụng tôn giáo, dân

Trang 24


×