Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ thị xã tân châu, tỉnh an giang triển khai thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập từ năm 2007 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.18 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HUỲNH THỊ MAI THẢO
DH8CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG TRIỂN KHAI
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ “HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ, TẠO VIỆC LÀM,
TĂNG THU NHẬP” TỪ NĂM
2007 ĐẾN NĂM 2010

Khóa học: 2007 - 2011

An Giang, năm học 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HUỲNH THỊ MAI THẢO
DH8CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

GVDH: Th.s Phạm Thị Thu Hồng
VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG TRIỂN KHAI
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ “HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT


TRIỂN KINH TẾ, TẠO VIỆC LÀM,
TĂNG THU NHẬP” TỪ NĂM
2007 ĐẾN NĂM 2010

Khóa học: 2007 - 2011

An Giang, năm học 2011


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, khoa Lí luận chính trị Trường Đại Học An Giang
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn. Cùng thầy chủ nhiệm lớp DH8CT, thầy cô Khoa Lí luận
chính trị đã tận tình giảng dạy tôi trong suốt 4 năm học để tôi có đủ kiến
thức thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Thạc sĩ Phạm Thị Thu Hồng, người thầy kính mến đã hết lòng
hướng dẫn, giúp đỡ, dạy bảo, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Các cô chú, anh chị ở Hội Liên hiệp phụ nữ, Phòng Nội vụ, Phòng
Thương binh xã hội, Phòng Thống kê thị xã Tân Châu đã hết lòng giúp
đỡ cung cấp những tài liệu có liên quan, số liệu thực tế liên quan đến đề
tài để tôi có thể hoàn thành tốt đề tài.
Gia đình và bạn bè đã luôn ủng hộ và động viên tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
SVTH
Huỳnh Thị Mai Thảo



MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..1
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………...1
2. Mục đích và nhiệm vụ ………………………………………………………… 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………………3
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………..4
5. Đóng góp của khoá luận………………………………………………………...4
6. Kết cấu khoá luận……………………………………………………………….4
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………...5
Chương 1: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ…………………………………………..5
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam về
phong trào phụ nữ……………………………………………………………..5
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin về phong trào phụ nữ…………5
1.1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam về phong trào phụ nữ………..8
1.2.Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ với nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập………………………………………….15
1.2.1.Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ……………………………………….15
1.2.2.Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ với nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập……………………………….17
Chương 2 : VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THỊ XÃ
TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG TRONG TRIỂN KHAI THỰC
HIỆN NHIỆM VỤ “HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN KINH TẾ,
TẠO VIỆC LÀM, TĂNG THU NHẬP”
TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010…………………………………….22
2.1. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang với phong trào phụ nữ
trong 35 năm xây dựng và phát triển (từ năm 1975 – 2010)………………...22
2.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang
trong triển khai thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển

kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” từ năm 2007 đến năm 2010…………..26


2.2.1. Thực trạng đời sống của phụ nữ thị xã Tân Châu,
tỉnh An Giang hiện nay………………………………………………26
2.2.1.1 Tình hình kinh tế - xã hội của thị xã Tân Châu hiện nay……..26
2.2.1.2 Thực trạng đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ thị xã
Tân Châu, tỉnh An Giang hiện nay……………………………28
2.2.2. Nội dung trọng tâm của nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” tại thị xã Tân Châu,
tỉnh An Giang từ năm 2007 đến năm 2010…………………………...30
2.2.2.1. Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp giúp phụ nữ thoát
nghèo hiệu quả, bền vững ……………………………………30
2.2.2.2. Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ phát triển sản xuất,
kinh doanh, làm giàu chính đáng...……………………………33
2.2.2.3. Tăng cường đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho
phụ nữ…………………………………………………………35
2.2.2.4. Phát triển bền vững hoạt động tín dụng tiết kiệm
của Hội theo Luật định ………………………………………36
2.2.3. Kết quả triển khai thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” tại thị xã
Tân Châu, tỉnh An Giang từ năm 2007 đến năm 2010……………….37
2.2.3.1. Thành tựu trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ
“Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm,
tăng thu nhập” tại thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang
từ năm 2007 đến năm 2010………………………………….37
2.2.3.2. Hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” tại thị xã
Tân Châu, tỉnh An Giang từ năm 2007 đến năm 2010………40
2.2.3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế

trong thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” tại thị xã
Tân Châu, tỉnh An Giang từ năm 2007 đến năm 2010……….40
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ
“Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập”
tại thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang trong những năm sắp tới………………..43


2.3.1. Tăng cường công tác giúp phụ nữ thoát nghèo và chống
tái nghèo của Hội phụ nữ các cấp thị xã Tân Châu…………………..43
2.3.2. Xây dựng và củng cố mạng lưới dạy nghề thuộc
hệ thống Hội và tăng cường tổ chức các hoạt động
dạy nghề, giới thiệu việc làm cho phụ nữ ……………………………43
2.3.3. Bồi dưỡng kiến thức, và kĩ năng quản lí kinh tế hộ;
chuyển giao khoa học kỹ thuật; phát triển các
nghề phi nông nghiệp cho phụ nữ nông thôn…………………………44
PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………………….45


Trang 1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Mở đầu trang sử đấu tranh chống phong kiến phương Bắc là khởi nghĩa
Hai Bà Trưng vào mùa xuân năm 40, chống Đông Hán, giành quyền tự chủ
cho đất nước. Tiếp theo là cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (Triệu Thị Trinh), bà
đã chỉ huy binh sĩ chiến đấu rất dũng cảm chống quân Ngô, quân thù khiếp sợ,
gọi bà là “Vua Bà”. Tiếp khí thế oai hùng đó, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị
Sáu…là những nữ chiến sĩ anh dũng sẵn sàng hi sinh giữ khí tiết, thể hiện lòng
yêu nước thiết tha, ý chí căm thù giặc sâu sắc, khẳng định vai trò to lớn của

người phụ nữ trong chiến đấu, hình thành truyền thống đấu tranh kiên cường
bất khuất chống ngoại xâm của phụ nữ Việt Nam.
Trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, những người đàn ông trong gia
đình phải ra mặt trận chống ngoại xâm. Gia đình chỉ còn lại cha mẹ già, vợ và
con thơ, vai trò của người vợ lúc này vô cùng quan trọng. Người phụ nữ vừa là
lao động chính cho cả gia đình, vừa là hậu phương vững chắc đóng góp lương
thực cho chiến đấu. Giáo dục con cái là một nhiệm vụ không thể thiếu của
người mẹ trong gia đình, thông qua sự dạy dỗ của người mẹ đối với con cái
mà các giá trị văn hóa của dân tộc từ lới nói, cách ăn mặc, văn hóa giao
tiếp…được giữ gìn và phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Và trong lịch
sử Việt Nam đã xuất hiện những người phụ nữ là người sáng tạo ra các giá trị
văn hóa, nghệ thuật như: bà Ỷ Lan Nguyên Phi (thời Lý). Đến thế kỉ XVIII, có
các nhà thơ nổi tiếng như: Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị
Điểm…
Ngày nay, các chị em phụ nữ tiếp nối tinh thần đó và phát huy hơn nữa sức
mạnh truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Bước vào thời kì đổi mới đất nước,
cả nước ta đang cùng nhau phấn đấu để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới đất nước là một tất
yếu khách quan theo tiến trình phát triển xã hội để tiến lên xã hội xã hội chủ
nghĩa. Người phụ nữ có điều kiện hoàn thành tốt vai trò của người mẹ, người
vợ trong gia đình, tham tích cực các hoạt động xã hội. Phụ nữ có mặt trong
hầu hết các công việc và nắm giữ nhiều vị trí quan trọng. Ngày càng nhiều phụ
nữ trở thành chính trị gia, các nhà khoa học, những nhà quản lí năng động.
Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặt của người phụ nữ là không thể thiếu như:
ngành dệt, công nghiệp, dịch vụ, may mặc… Đôi khi chính những người phụ
nữ làm cho nam giới phải “ghen tị” về những thành công mà họ đạt được.

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo



Trang 2

Tám mươi năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày càng xứng đáng là tổ
chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ
nữ Việt Nam. Đại hội Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam toàn quốc lần thứ IX
nhiệm kì (2002 - 2007) đã xác định mục tiêu phong trào phụ nữ hướng tới đó
là sự thay đổi tích cực chính bản thân người phụ nữ, nâng cao chất lượng cuộc
sống của phụ nữ và bình đẳng giới trong xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, Đại
hội đã xác định sáu chương trình trọng tâm của công tác Hội. Đến Đại hội Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam toàn quốc lần thứ X nhiệm kì (2007 – 2012) trên
cơ sở kế thừa từ Đại hội IX được nâng tầm về qui mô và chất lượng, thay đổi
từ sáu chương trình thành sáu nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ III “ Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” được xem là nhiệm vụ thiết
thực góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho chị em phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ “ Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập”
đã có được những thành quả to lớn, góp phần phát triển kinh tế, tạo việc làm,
tăng thêm thu nhập cải thiện đời sống cho chị em phụ nữ trong thị xã. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã gặp một số khó khăn nhất định,
nhiệm vụ chưa bao quát hết được phụ nữ trong thị xã do hạn chế về nguồn
vốn; một số phụ nữ chưa có việc làm ổn định và hạn chế về trình độ học vấn.
Trong thời gian qua, nghiên cứu về hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ và
phong trào phụ nữ đã có nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu như: bài viết “Những
kết quả đáng ghi nhận từ phong trào thi đua phụ nữ tích cực học tập, lao động
sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc”, đề tài khoa học “ Công tác vận động
phụ nữ trong tình hình mới của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang” của tác
giả Nguyễn Thị Minh Nguyệt, “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ

Mới, tỉnh An Giang triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế” của tác giả Trần Phan Như Ý. Tuy nhiên các bài viết, đề tài nghiên
cứu chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ,
trong việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể ở địa phương như thị xã Tân Châu, tỉnh
An Giang.
Từ yêu cầu về mặt lí luận cũng như thực tiễn, hơn nữa góp phần cho chị
em phụ nữ có cuộc sống tốt hơn là một vấn đề mà tôi luôn mong muốn được
nghiên cứu. Tôi được sinh ra trên quê hương Tân Châu là một thị xã vùng biên
giới của tỉnh An Giang, một bộ phận phụ nữ còn thiếu việc làm, khó khăn về
kinh tế. Chính vì thế, tôi quyết định chọn đề tài cho khóa luận của mình là Vai

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 3

trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang triển khai
thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng
thu nhập” từ năm 2007 đến năm 2010.
2. Mục đích và nhiệm vụ
2.1.Mục đích
Nghiên cứu vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân Châu, tỉnh An
Giang với nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu
nhập” từ năm 2007 đến năm 2010.
Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” ở thị xã Tân
Châu, tỉnh An Giang trong những năm sắp tới.
2.2.Nhiệm vụ

Nghiên cứu lí luận về phụ nữ và vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ với
phong trào phụ nữ.
Nghiên cứu thực tế triển khai thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” của Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân
Châu, tỉnh An Giang từ năm 2007 đến năm 2010 để làm rõ những đóng góp
tích cực của nhiệm vụ đối với đời sống các tầng lớp phụ nữ trong thị xã.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hoạt động
của Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang thực hiện nhiệm vụ
“Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” ở thị xã Tân
Châu, tỉnh An Giang trong những năm sắp tới.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ triển khai thực hiện nhiệm
vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân Châu, tỉnh An
Giang trong triển khai thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế,
tạo việc làm, tăng thu nhập” từ năm 2007 đến năm 2010.

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 4

4.Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội khoa học, kết hợp với phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp logic, lịch sử, khảo sát thực tiễn, thống kê,

so sánh.
5.Đóng góp của khoá luận
Kết quả nghiên cứu có thể làm nguồn tư liệu cho Hội phụ nữ các cấp
tham khảo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh
tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” tại địa phương.
Góp phần cung cấp những cơ sở khoa học cho Đảng bộ và chính quyền
các cấp tham khảo trong lãnh đạo, quản lí để có những chủ trương và tạo điều
kiện thuận lợi cho Hội Liên hiệp Phụ nữ thực hiện có hiệu quả hơn trong
nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập”
6.Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá
luận gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VỚI
PHONG TRÀO PHỤ NỮ
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt
Nam về phong trào phụ nữ
1.2. Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ với nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập
Chương 2 : VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THỊ XÃ TÂN
CHÂU, TỈNH AN GIANG TRONG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NHIỆM
VỤ “HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, TẠO VIỆC LÀM,
TĂNG THU NHẬP” TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010
2.1. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang với phong trào phụ nữ
trong 35 năm xây dựng và phát triển (từ năm 1975 – 2010)
2.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ thị xã Tân Châu, tỉnh An
Giang trong triển khai thực hiện nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập” từ năm 2007
đến năm 2010

Khóa luận tốt nghiệp đại học


SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 5

2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ
“Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu
nhập” tại thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang trong những năm
sắp tới.

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VỚI
PHONG TRÀO PHỤ NỮ
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về
phong trào phụ nữ
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về phong trào phụ nữ
Trước đây, chưa có ai chỉ ra được căn nguyên thật sự đã gây ra sự không
bình đẳng giữa nam và nữ người ta thường nhắc đến những quan niệm lỗi thời,
những tư tưởng lạc hậu, những phong tục tập quán cổ hủ là những nguyên cớ
dẫn đến sự khinh miệt và đối xử không bình đẳng với phụ nữ.
Những người đầu tiên đã đưa ra những giải đáp đúng đắn, khoa học về
vấn đề này là các lãnh tụ vô sản C.Mác, Ph.Ăngghen. Căn cứ vào những tài

liệu lịch sử, C.Mác, Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình của
chế độ tư hữu và của nhà nước” đã chứng minh rằng: trong lịch sử nhân loại,
việc người đàn ông áp bức người đàn bà nảy sinh cùng với sự ra đời việc
chiếm của riêng, sự hình thành các giai cấp và hiện tượng giai cấp này, áp bức,
bóc lột giai cấp khác, sự áp bức người phụ nữ là sự biểu hiện đầu tiên của áp
bức giai cấp. Bất bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà trong gia đình xuất phát từ
nguyên nhân kinh tế, từ ý đồ nô dịch về kinh tế của đàn ông đối với người đàn
bà, từ sự tập trung của cải lớn vào tay một người- người đàn ông từ ý muốn để
của cải lại cho con cái của người đàn ông. Trước đây, việc tề gia nội trợ được
xem như là chức vụ của phụ nữ đảm nhiệm, người đàn bà trở thành người đầy
tớ chủ chốt và bị gạt ra khỏi sản xuất xã hội. Từ địa vị kinh tế thấp kém, người
đàn bà bị đẩy xuống loại thấp hèn, bị lệ thuộc, bị trói buộc, bị đối xử bất công.
Như vậy, sự bất bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà xuất phát từ nguyên nhân
kinh tế, từ ý đồ xác lập địa vị thống trị của người đàn ông trong gia đình và
ngoài xã hội.
Muốn giải phóng giai cấp, xóa bỏ chế độ bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã
hội thắng lợi thì giai cấp vô sản phải tiến hành giải phóng phụ nữ vì:
Không giải phóng phụ nữ, không huy động được phụ nữ tham gia cách
mạng thì cách mạng không thể thắng lợi.
Phụ nữ là một nửa của nhân loại, nếu phụ nữ chưa được giải phóng, thì sự
nghiệp của giai cấp vô sản chưa được thực hiện.

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 7

Để giải phóng người phụ nữ cả trong gia đình và ngoài xã hội, chủ nghĩa

Mác chỉ rõ, phải giải phóng phụ nữ khỏi áp bức, bất công, mọi ràng buộc bất
bình đẳng mà chế độ áp bức bóc lột đã quàng lên cổ họ. Vấn đề này chỉ có
cách mạng vô sản mới có thể làm được, cách mạng vô sản làm cho không thể
cột chặt người phụ nữ vào công việc gia đình, phải đưa họ tham gia vào nền
sản xuất xã hội. Xã hội cần phải giúp phụ nữ giảm gánh nặng công việc gia
đình, công việc gia đình phải trở thành một bộ phận của công việc xã hội. Chỉ
khi nào phụ nữ không còn phải lựa chọn hoặc tham gia sản xuất, hoặc làm việc
nhà mà họ đồng thời làm tốt cả hai việc đó, thì địa vị của họ mới được khẳng
định.
Để trả lời cho câu hỏi vì sao lập ra phụ nữ quốc tế thì các nhà tư tưởng của
chủ nghĩa xã hội đã trả lời.
“C.Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà
không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm
của đàn bà con gái, thì biết xã hội đó tiến bộ ra thế nào”.V.I.Lênin nói: “Đảng
cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước như
thế cách mệnh mới gọi là thành công”[ 19,42].
Bằng lí luận và chính bằng thực tiễn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
Nga. V.I.Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa
Mác về vấn đề tình yêu - hôn nhân và gia đình của chủ nghĩa tư sản, đồng thời
vạch trần bộ mặt thật của chế độ tư bản và hiến pháp tư sản. “Trên lời nói, chế
độ dân chủ tư sản hứa hẹn bình đẳng và tự do. Trong thực tế, không một nước
cộng sản nào, dù là nước tiên tiến nhất, đã để cho một nửa loài người là nữ
giới được hoàn toàn bình đẳng với nam giới trước pháp luật và giải phóng phụ
nữ khỏi sự bảo trợ và sự áp bức của nam giới”[ 22, 325]. V.I.Lênnin còn cho
rằng, “ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì phụ nữ vẫn bị trói buộc vì
toàn bộ công việc gia đình đều trút lên vai phụ nữ”[22, 321]. Cho nên, ông đã
đưa ra một số giải pháp nhằm giúp cho phụ nữ giảm bớt công việc gia đình, và
dành nhiều thời gian hơn cho việc học tập, lao động ngoài xã hội, cả lĩnh vực
kinh tế. Ông quan niệm rằng, phụ nữ phải được bình đẳng với nam giới trên
mọi phương diện luật pháp, kinh tế, xã hội….trong gia đình cũng như ngoài xã

hội. Vì vậy, cần có một chính sách cụ thể, thiết thực giúp phụ nữ vươn lên
bình đẳng cùng nam giới.
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển tột bậc, nhất là ở nước Mỹ.
Nền kỹ nghệ phát triển, thu hút nhiều phụ nữ và trẻ em vào làm việc trong các

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 8

nhà máy, xí nghiệp. Bọn chủ tư bản lợi dụng sức lực của phụ nữ, trẻ em, trả
lương rẻ mạt làm cho đời sống của phụ nữ và trẻ em cực khổ, điêu đứng. Căm
phẫn trước sự áp bức tàn bạo đó, ngày 8/3/1899, tại hai thành phố Chicago và
Newyork đã nổ ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nữ công nhân ngành dệt may,
đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặc dù bị thẳng tay đàn áp, bắt bớ, đuổi ra khỏi
nhà máy nhưng chị em vẫn đoàn kết, bền bỉ đấu tranh, buộc bọn chủ tư sản
phải nhượng bộ. Thắng lợi đó đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của phụ nữ lao
động Mỹ.
Những cuộc đấu tranh đầu tiên đó của nữ công nhân Mỹ đã có tiếng
vang lớn, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh của phụ nữ lao
động trên toàn thế giới. Trong phong trào đấu tranh lúc bấy giờ, đã xuất hiện 2
nữ chiến sĩ cách mạng lỗi lạc là bà Cơlarezetkin (người Ðức) và bà
Rôdaluyaxămbua (người Ba Lan). Hai bà đã phối hợp với bà Cơrúpxcaia (vợ
của V.I.Lênin) vận động thành lập Ban Thư ký quốc tế phụ nữ để lãnh đạo
phong trào.
Trước sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng của phong trào phụ nữ
trên thế giới. Ngày 26 và 27 tháng 8 năm 1910, đại hội lần thứ 2 của những
người phụ nữ thế giới đã được triệu tập và ngày 8/3 trở thành ngày hội của phụ

nữ thế giới, đoàn kết đấu tranh để tự giải phóng, thực hiện quyền nam nữ bình
đẳng và cũng từ đó, phụ nữ tiến bộ khắp năm châu tổ chức ngày 8/3 với những
nội dung và hình thức phong phú.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ, về bình
đẳng nam - nữ đã thâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX, nghĩa là cùng lúc
với việc đồng chí Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam. Lớp chiến sĩ cách mạng tiền bối của Việt Nam tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin nói chung, đồng thời cũng tiếp thu quan điểm giải phóng phụ nữ, thực
hiện bình đẳng nam nữ của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng.
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phong trào phụ
nữ
Đất nước Việt Nam với nền văn minh nông nghiệp lâu đời, chủ yếu là
nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ đã trở thành lực lượng lao
động quan trọng đem lại thu nhập cho gia đình. Bên cạnh đó, là một đất nước
thường xuyên bị kẻ thù xâm lược làm cho đời sống của nhân nhân đa số nghèo
khổ. Từ thực tế đó, đã hình thành nên người phụ nữ Việt Nam có nét đặc trưng
riêng: họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm; là người

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 9

lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc; là những
người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng
của dân tộc anh hùng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Non sông gấm vóc Việt Nam, do
phụ nữ ta trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ ”[17,158].

Cho nên, trong cuộc đời hoạt động cách mạng vô cùng phong phú của mình,
Bác luôn luôn quan tâm tới sự nghiệp giải phóng phụ nữ, coi đó là một nhiệm
vụ rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến một nủa số dân, đến từng gia
đình trong cộng đồng xã hội. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần ở nước ta. Đường lối
cách mạng cơ bản của Đảng ta - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
- nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người bao quát
trong đó nội dung giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam - nữ. Tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân sẽ đi tới mục tiêu triệt để nếu không hoàn thành sự nghiệp giải phóng phụ
nữ, và như thế là mới xây dựng chủ nghĩa xã hội “chỉ một nửa” như Bác Hồ
nói. Hơn nữa nếu như không có sự tham gia của hơn nửa dân số là phụ nữ với
tư cách là những chủ thể tự giác thì không có đầy đủ động lực đưa sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi.
Ở nước ta mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam - nữ
có cơ sở vững chắc từ hệ tư tưởng, đường lối cách mạng của Đảng cầm quyền
và được nhận thức như là một bộ phận hữu cơ trong mục tiêu và động lực của
sự phát triển đất nước. Phong trào phụ nữ là một bộ phận khắng khít của
phong trào cách mạng. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh trong tất
cả các cuộc cách mạng của quần chúng phụ nữ thì cách mạng không thành
công. Vì vậy mọi cuộc cách mạng đều phải vận động phụ nữ tham gia. Bản
thân phụ nữ muốn giải phóng phải tự mình tích cực tham gia vào cuộc cách
mạng của Đảng nhằm mục đích giải phóng giai cấp; giải phóng dân tộc; xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tất cả điều đó đảm bảo cho tiến trình giải
phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam - nữ ở nước ta phát triển liên tục với
sự tham gia của cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ của đông đảo nhân dân. Và
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng phụ nữ Việt Nam tất yếu phải liên kết
với phụ nữ quốc tế trong đấu tranh cách mạng “An - nam cách mệnh cũng phải
có nữ giới tham gia mới thành công, mà nữ giới An- nam muốn cách mệnh thì
phải theo phụ nữ quốc tế chỉ bảo”[16,43].


Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 10

“Mỗi Đảng cộng sản phải có bộ phụ nữ, trực tiếp thuộc về phụ nữ quốc
tế. Những đảng viên đàn bà trong các đảng phải theo lệnh quốc tế, khi phải
làm việc gì dầu khó nhọc nguy hiểm mấy cũng phải làm. Thí dụ: đảng viên A
không phải là làm thợ, nhưng khi quốc tế bảo xen vào làm việc trong lò máy
nào để vận động phụ nữ trong ấy thì tất phải bỏ nghề cũ mà vào làm trong nhà
máy. Nói tóm lại là quy tắc rất nghiêm, hành động rất thống nhất, và việc làm
cũng rất khó, vì phần nhiều đàn bà con gái còn có tư tưởng thủ cựu.” [16,43]
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có thể xây dựng được dân mạnh nước
giàu thì mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có
được kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Cho nên,
nhân dân trước hết phải biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ. “Phụ nữ lại càng
cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc các chị em phải cố gắng để
kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử
và ứng cử” [16,41]. Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “muốn giải phóng người phụ nữ
không chỉ thực hiện một sự phân công mới, bình đẳng giữa vợ và chồng trong
những công việc gia đình, mà cái căn bản là phải có sự phân công, sắp xếp lại
lao động của toàn xã hội, đưa phụ nữ tham gia vào nhiều ngành nghề như nam
giới. Cần tổ chức lại đời sống công nông cũng như sinh hoạt gia đình để phụ
nữ được giảm nhẹ công việc bếp núc, chăm lo con cái, có điều kiện tham gia
sản xuất, học tập nâng cao trình độ mọi mặt. Từ đó, chị em mới có khả năng
làm nhiều công việc chuyên môn và đảm nhiệm được những chức vụ công tác
ngang hàng với nam giới. Đó là một cuộc cách mạng thực sự lớn”[13,30-31].

Nhấn mạnh đến tính chất của phong trào phụ nữ, Hồ Chủ tịch hết sức
coi trọng việc tập hợp đoàn kết rộng rãi quần chúng phụ nữ thành một lực
lượng thống nhất, đấu tranh cho mục tiêu chung là độc lập dân tộc và quyền
bình đẳng nam nữ. Muốn thâu phục cho được hết các phần tử phụ nữ thì ngoài
sự công tác trong phụ nữ công nông ra, Đảng lại cần tổ chức ra các đoàn thể
phụ nữ “phụ nữ hiệp hội” mục đích là mưu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ
nữ triệt để giải phóng.
Đảng ta và Hồ chủ tịch luôn nhắc nhở phụ nữ rằng : Lập ra các Hội phụ
nữ không phải cốt để cổ động chống đàn ông mà là để bênh vực quyền lợi
chung cho các tầng lớp nhân dân trước hết của công nông và quyền lợi riêng
của phụ nữ.
Đường lối vận động phụ nữ của Đảng là làm cho phụ nữ nhận thức
được sự gắn bó chặt chẽ quyền lợi của mình với quyền lợi của dân tộc, của

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 11

công nông, kiên quyết đấu tranh cho cả hai mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Dưới sự chỉ đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong công tác vận động phụ nữ, Đảng ta rất quan tâm
đến việc giác ngộ phụ nữ công nông, coi đó là chỗ dựa, là nòng cốt của phong
trào phụ nữ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm nhắc nhở các cán bộ đảng viên
quan tâm đến việc giác ngộ cho phụ nữ về ý thức giai cấp và tinh thần yêu
nước. Phải làm cho quần chúng phụ nữ lao khổ tham gia vào những cuộc đấu
tranh cách mạng của công nông, đó là điều cốt yếu nhất, nếu phụ nữ đứng

ngoài cuộc đấu tranh của công nông thì không bao giờ đạt mục đích phụ nữ
giải phóng được. Muốn cho phụ nữ tham gia vào các cuộc đấu tranh cách
mạng thì trước hết cần phải đánh đổ hết thảy những cái phong tục thuộc về tôn
giáo hoặc luân lý. Phải huấn luyện chính trị cho phụ nữ công nông, làm cho họ
thêm giác ngộ giai cấp, để kéo họ vào những đoàn thể vô sản giai cấp.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập, Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là lực
lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ
nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ.
Đảng đặt ra: Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông
hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ
tham gia cách mạng. Chính vì vậy mà ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ
chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của
Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối
với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Từ khi ra đời đến nay, dưới sự lãnh đạo dìu
dắt của Đảng, tổ chức Hội phụ nữ được rèn luyện, trưởng thành qua từng thời
kỳ cách mạng gắn liền với sự lớn mạnh và phát triển của cách mạng Việt Nam,
với nhiều tên gọi khác nhau cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đó là:
Hội phụ nữ giải phóng (1930-1931); Hội phụ nữ dân chủ (1936-1939); Hội
phụ nữ Phản đế (1939-1941); Đoàn phụ nữ Cứu quốc (1941-1945); Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam (từ 1946 đến nay). Từ đây phụ nữ Việt Nam đã có tổ
chức của riêng mình, có vị thế trong lịch sử dân tộc.
Ngay sau khi ra đời tổ chức Hội phụ nữ đã tuyên truyền giác ngộ quần
chúng, xây dựng cơ sở Đảng, làm giao thông liên lạc từng bước phát động chị
em tham gia đấu tranh chống bọn chủ bóc lột, đòi quyền lợi hàng ngày, tham
gia rải truyền đơn, diễn thuyết, cắm cờ cách mạng, tiến lên khởi nghĩa cướp
chính quyền góp phần to lớn làm nên cuộc cách mạng Tháng 8/1945 thành

Khóa luận tốt nghiệp đại học


SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 12

công. Từ đây mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho toàn dân tộc, đem đến sự đổi
mới cho phụ nữ từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ xã hội phát huy tài
năng tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội...
Những chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong suốt 30 năm đấu
tranh gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mãi mãi là thiên
anh hùng ca bất diệt trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Trong đó có công lao đóng góp to lớn của phụ nữ. Trang sử dân tộc mãi mãi
còn ghi những chiến công vang dội của các đội nữ dân quân du kích, biệt động
nội thành, các đội pháo binh... giáp mặt với quân thù, linh hoạt mưu trí giáng
cho địch những đòn bất ngờ, bắn rơi máy bay, bắn cháy tàu chiến Mỹ, các đội
dân công hỏa tuyến, các đội nữ thanh niên xung phong dũng cảm, xẻ dọc
trường sơn đi cứu nước, hàng chục vạn nữ chiến sĩ đã cống hiến cả tuổi thanh
xuân cho sự nghiệp kháng chiến cứu nước vĩ đại. Lịch sử còn ghi những kỳ
tích lẫy lừng của hàng triệu các má, các chị ở tuyến đầu với "Đội quân tóc dài"
nổi tiếng trong thế trận 3 mũi giáp công chống phá ấp chiến lược.
Non sông gấm vóc ngàn năm vẫn tô thắm những hình ảnh sáng ngời
chủ nghĩa anh hùng cách mạng của hàng triệu phụ nữ "5 tốt" ở miền Nam, "Ba
đảm đang" ở miền Bắc, vừa lao động xây dựng đất nước, vừa chi viện sức
người sức của cho tiền tuyến, gánh vác việc nước, đảm đang việc nhà để
chồng con yên tâm đánh giặc, nhiều bà mẹ đã hiến tặng cả đàn con thân yêu
cho độc lập tự do của Tổ quốc, tất cả sự hy sinh gian khổ đó đã hun đúc nên
những người phụ nữ Việt Nam kiên cường xứng đáng với 8 chữ vàng Bác Hồ
kính yêu trao tặng "Anh hùng bất khuất, trung hậu, đảm đang".
Từ sau khi đất được hoàn toàn độc lập, Bắc Nam thống nhất một nhà,
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tháng 3/1978 Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt

Nam phát động phong trào "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc",
phong trào đã giáo dục động viên phụ nữ cả nước làm tốt nghĩa vụ công dân
và trách nhiệm làm mẹ, đồng thời bồi dưỡng cho phụ nữ ý thức phấn đấu thực
hiện nam nữ bình đẳng, đưa sự nghiệp giải phóng tiến lên một bước quan
trọng.
Năm 1986 đứng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế, trước sự khủng hoảng
tài chính khu vực đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của nước ta,
Đảng ta đã quyết định đưa nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Những người phụ nữ lại bừng lên với khí thế cách mạng, hòa mình trên

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 13

con đường phát triển của dân tộc gắn liền với những nhiệm vụ, chủ trương đổi
mới của Đảng.
Từ ngày thành lập đến nay Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã trải qua
10 kỳ đại hội, ở mỗi kỳ đại hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đều lấy nhiệm
vụ, chủ trương của Đảng trong mỗi giai đoạn làm cơ sở để định hướng nhiệm
vụ cho tổ chức mình.
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VI (1987) đã quyết định chuyển
hướng hoạt động của Hội vì sự bình đẳng phát triển của phụ nữ vừa chăm lo
thiết thực lợi ích của phụ nữ, vừa động viên các tầng lớp phụ nữ thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Đại hội đề ra nhiệm vụ: Tăng
cường giáo dục xây dựng phụ nữ mới, động viên các tầng lớp phụ nữ thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng trọng tâm là 3 chương trình kinh tế lớn.
Chăm lo quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Hướng dẫn và giúp đỡ phụ nữ xây dựng

gia đình văn hóa mới, tăng cường đoàn kết với phụ nữ thế giới, đấu tranh vì
độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
đổi mới phương thức hoạt động của Hội.
Trên cơ sở tổng kết phong trào "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc", năm 1988 Ban chấp hành Trung ương Hội phát động 2 cuộc vận
động "Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình" và "Nuôi dạy con tốt, góp phần
hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học".
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ VII (1992) đã đề ra phương hướng
nhiệm vụ bồi dưỡng và phát huy tiềm năng của phụ nữ trên các lĩnh vực hoạt
động, nhằm giúp phụ nữ thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng
và Nhà nước, tiếp tục thực hiện 2 cuộc vận động lớn của Hội, xây dựng củng
cố các cấp Hội theo hướng tinh gọn, chất lượng, đa dạng hóa các hình thức tập
hợp phụ nữ, chú trọng đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội, đổi mới phương thức
hoạt động của Hội, liên kết với các ngành đoàn thể để giải quyết vấn đề giới,
tăng cường và mở rộng hoạt động hữu nghị hợp tác và hòa bình, bình đẳng và
phát triển của phụ nữ. Đại hội đã định ra 5 chương trình công tác trọng tâm.
Mỗi chương trình đều có mục tiêu, nội dung và biện pháp cụ thể.
Đến năm 1997 Đại hội VIII Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã khẳng
định đó là Đại hội đoàn kết, đổi mới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình, vì sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đất nước. Đại hội đã ra 5
chương trình công tác trọng tâm với những nội dung được bổ sung mới và
quyết định phát động 2 phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 14


sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" và "Giúp nhau phát triển kinh tế gia
đình".
Tháng 5/2002 Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã quyết
định bổ sung và nâng tầm cao hơn của 5 chương trình công tác thành 6 chương
trình công tác trọng tâm và phát động phong trào thi đua " Phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" trong gần 20 năm đổi
mới, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu, các chương trình công tác trọng tâm và các cuộc vận động, các phong
trào thi đua đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng tình cảm và đã trở thành hành
động cách mạng sôi nổi của mọi tầng lớp phụ nữ cả nước góp phần xứng đáng
công sức của mình cùng toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10/2007, Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X nhiệm kỳ
(2007- 2012) được diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa quan trọng. Đại hội đề
ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ 2007 – 2012 với các chỉ tiêu cơ bản
của nhiệm kỳ là 6 nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động Hội cụ thể như sau:
1. Nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của phụ nữ đáp ứng yêu cầu
tình hình mới, xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, tri thức
kĩ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng
nhân hậu.
2. Tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật
pháp, chính sách về bình đẳng giới.
3. Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập.
4. Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
5. Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh.
6. Mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế vì bình đẳng, phát triển và hòa
bình.
Đại hội quyết định tiếp tục phát động phong trào thi đua “ Phụ nữ tích cực
học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Các cấp Hội đã
tích cực vận động phụ nữ và các tầng lớp phụ nữ sôi nổi hưởng ứng thực hiện

phong trào thi đua yêu nước “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh phúc” gắn với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ
xây dựng “Mái ấm tình thương cho phụ nữ nghèo”. Với sự giúp đỡ thiết thực

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 15

có hàng triệu phụ nữ được cung cấp kỹ năng và hàng chục nghìn tỉ đồng vốn
để chị em vay phát triển sản xuất, tạo việc làm để cuộc sống thêm no ấm, hạnh
phúc.
Tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một nhiệm vụ quan trọng của công
cuộc đổi mới. Mục tiêu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ là phát triển toàn
diện người phụ nữ, nâng cao đời sống, bồi dưỡng sức khỏe, nâng cao kiến
thức văn hóa, khoa học kỹ thuật. Có như vậy mới phát huy tiềm năng của phụ
nữ vào sự phát triển của xã hội.
Trải qua 81 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh của Đảng, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam ngày càng xứng đáng là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ Việt Nam. Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam đã giữ vai trò nòng cốt trong phong trào phụ nữ, không
ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm phát huy mọi tiềm
năng, sức sáng tạo của các tầng lớp phụ nữ, đóng góp quan trọng trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội đáp ứng thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước và hội nhập
quốc tế.
1.2. Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ với nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ phát

triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập
1.2.1. Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội là chỗ dựa đáng tin cậy về tinh
thần, tình cảm của phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, được Đảng tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Ngay từ khi
mới ra đời Đảng đã khẳng định vai trò của phụ nữ Việt Nam, Đảng đã giác
ngộ và lãnh đạo lực lượng phụ nữ là một bộ phận khắng khít của phong trào
cách mạng của Đảng. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn là lực lượng cách
mạng hùng hậu, trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần to lớn
thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và đổi mới đất nước.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên
đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 16

Hội các nước Đông Nam Á). Hội tham gia tích cực các hoạt động vì hòa bình,
đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
“Đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp chính đáng
của phụ nữ, tham gia quản lí Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Đoàn kết,
vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa”[12, 39]
Đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng
của phụ nữ, tham gia quản lí Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng.
Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn khẳng định vai trò đại
diện, sâu sát nắm tâm tư, nguyện vọng và những vấn đề bức xúc khi quyền
bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ bị vi phạm. Tổ
chức Hội kịp thời giải quyết những vấn đề trong khả năng thẩm quyền, còn
những vấn đề vượt quá thẩm quyền giải quyết phải phản ánh lên cơ quan chức
năng và cấp có thẩm quyền giải quyết.
Hệ thống tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ động tăng cường
hoạt động phối hợp với các ban ngành, đoàn thể cùng chăm lo bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp chính đáng của phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam còn thể hiện vai trò đại diện trong việc
tham gia quản lí Nhà nước theo Nghị định 19 của Chính phủ “tham gia hoạt
động quản lí Nhà nước theo qui định của pháp luật về các vấn đề liên quan đến
quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em”. Cơ quan hành chính Nhà nước mời đại
diện của Hội phụ nữ cùng cấp tham gia góp ý kiến vào các văn bản quy phạm
pháp luật; là thành viên chính thức trong các tổ chức tư vấn cho cơ quan hành
chính Nhà nước cùng cấp (Hội đồng tư vấn, Ban chỉ đạo, Ban quản lí…); kiểm
tra những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em.
Hội phụ nữ các cấp có trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng thể hiện
trong hoạt động đảng viên nữ, nguồn cán bộ nữ, và mỗi hội viên phụ nữ có
trách nhiệm đóng góp ý kiến xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo



Trang 17

Tăng cường hoạt động đoàn kết, tuyên truyền vận động và tổ chức,
hướng dẫn cụ thể phù hợp với đặc thù của các tầng lớp phụ nữ nhằm giúp chị
em nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, hiểu và có ý thức làm theo pháp
luật, chính sách của Nhà nước.
Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là nơi qui tụ sức mạnh đoàn
kết của mọi đối tượng phụ nữ, trong đó quan tâm đến việc tổ chức vận động
lực lượng lao động nữ mọi ngành nghề, vùng miền, tham gia tích cực trong
mọi lĩnh vực phát huy tiềm năng trí tuệ góp phần vào công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hai vai trò của Hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam các cấp thực hiện được vế thứ nhất sẽ là cơ sở để thực hiện
vế thứ hai và ngược lại. Đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lí Nhà nước và xây dựng Đảng tốt sẽ
tác động thúc đẩy mọi tầng lớp phụ nữ đoàn kết, tổng hợp sức mạnh thực hiện
chủ trương, pháp luật, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Phụ nữ Việt Nam có kiến thức mọi mặt, hiểu và có ý thức chấp
hành chủ trương, đường lối và luật pháp của Đảng và Nhà nước thì sẽ tham
gia hiệu quả vào hoạt động quản lí Nhà nước, xây dựng Đảng vững mạnh.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay tác động vào các tầng lớp phụ
nữ, hoạt động của Hội phải đổi mới hoà nhập xu thế phát triển chung. Hội
tham gia tích cực nhiều hoạt động của phụ nữ quốc tế và tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn của phụ nữ quốc tế đối với phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh đó, Hội
còn là trường học nâng cao năng lực, kiến thức mọi mặt của phụ nữ, giúp cho
chị em tiếp cận kiến thức thông tin thời đại mới, từ đó có quyền năng về chính
trị, kinh tế, khẳng định vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Hội
các cấp thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng

giới không chỉ cho hội viên mà còn cho cả nam giới, các nhà hoạch định chính
sách địa phương nhằm giúp cho phụ nữ tham gia vào quá trình phát triển.
1.2.2. Vai trò của Hội liên hiệp Phụ nữ với nhiệm vụ hỗ trợ phụ nữ
phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập
Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập là một
trong sáu nhiệm vụ trọng tâm do Đại hội Phụ nữ lần thứ X xác định, giúp phụ
nữ xóa đói giảm nghèo, đảm bảo thu nhập để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu. Thiết
thực nhất, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia tổ chức Hội. Tác động mạnh mẽ
đến hội viên phụ nữ, đến mọi thành viên trong gia đình hội viên đến các

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 18

chương trình xóa đói giảm nghèo, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, của quốc gia.
Nhiệm vụ “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu
nhập” là hỗ trợ phụ nữ chủ động tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, việc
làm, góp phần xây dựng người phụ nữ Việt Nam có tri thức, kĩ năng nghề
nghiệp, năng động sáng tạo. Hội là cầu nối giữa quần chúng với Đảng, giữa
hội viên với Hội cấp trên. Trực tiếp chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của phụ nữ. Thực hiện luật pháp chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng
thời kiểm tra giám sát đề xuất các chế độ chính sách có liên quan đến phụ nữ,
trẻ em. Phát hiện, giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho các cấp lãnh đạo. Hội phụ
nữ cơ sở có vai trò quan trọng trong hệ thống tổ chức Hội. Cơ sở mạnh hay
yếu có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của cả hệ thống Hội.

Hội tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách
của Nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ; tham
mưu, đề xuất chính sách với Đảng, Nhà nước nhằm tạo điều kiện để phụ nữ
thực hiện bình đẳng và phát triển.
Hội phải khảo sát và xác định đối tượng thực hiện vào đầu năm và kết
hợp chặt chẽ với Hội cơ sở ở địa phương, Ban tự quản khóm, ấp để rà soát lại
danh sách được hỗ trợ vay vốn. Chú trọng giúp hộ nghèo do phụ nữ làm chủ.
Trên cơ sở xác định danh sách, Hội đề ra kế hoạch hỗ trợ. Kế hoạch hỗ
trợ bao gồm: mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp giúp đỡ cụ thể đối với từng hộ.
Về mục tiêu, chỉ tiêu cần xác định rõ số lượng hộ cần được Hội giúp
đỡ, trong đó phát triển kinh tế có việc làm là bao nhiêu hộ.
Về biện pháp dựa trên nguyên nhân, nhu cầu thực tế, điều kiện tiếp
nhận của từng hộ và khả năng của Hội để lựa chọn những gải pháp hỗ trợ phù
hợp và có hiệu quả.
Về nguồn lực phải tranh thủ sự hỗ trợ của chính quyền, sự phối hợp của
ban ngành, đoàn thể địa phương và các chương trình dự án của các tổ chức
trong và ngoài nước.
Công tác hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập
bao gồm: định hướng hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam; hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế của Hội
Liên hiệp Phụ nữ cấp cơ sở: khai thác sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, hỗ trợ

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


Trang 19

phụ nữ phát triển doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ, phối hợp dạy nghề và dịch vụ

việc làm, xây dựng và mở rộng các mô hình phát triển kinh tế.
Tiếp tục duy trì các phong trào phụ nữ giúp nhau xóa đói giảm nghèo.
Tiếp tục vận động phụ nữ thực hiện các phong trào “ phụ nữ giúp nhau phát
triển kinh tế”, “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”…Vận động phụ nữ, cộng
đồng hưởng ứng phong trào “ Giúp phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”
phù hợp với điều kiện của địa phương, đơn vị.
Hội phải hướng dẫn hoạt động nhóm phụ nữ tiết kiệm - tín dụng.
Hội phải tuyên truyền cho hội viên hiểu về tiết kiệm là sự giảm bớt
những hao phí không cần thiết trong sản xuất, sinh hoạt hoặc là khoản dành
dụm được trước, trong và sau quá trình chi dùng. Theo quan niệm cũ, tiết kiệm
là phần tiền hay hiện vật còn lại sau khi tiêu dùng, người nghèo không thể tiết
kiệm được vì thu nhập của họ thường thấp (chi tiêu luôn lớn hơn thu nhập).
Đối với quan niệm mới, tiết kiệm là phần tiền hoặc hiện vật dành ra trước khi
chi tiêu, người nghèo hoàn toàn có thể tiết kiệm được nếu họ có cơ hội để tiết
kiệm, có ý thức, có thói quen tiết kiệm.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tiết kiệm như là: ý thức, thói quen tiết kiệm,
thu nhập của gia đình, khả năng quản lí và hạch toán kinh tế gia đình, chính
sách về tiết kiệm (lãi suất tiết kiệm, các ưu tiên khác…), sự thuận tiện (địa chỉ
gửi và rút tiết kiệm…), độ tin cậy của cơ sở nhận giữ tiền gửi tiết kiệm.
Cho nên, Hội vận động hướng dẫn phụ nữ xây dựng nhóm phụ nữ tiết
kiệm là tạo cơ hội, thói quen và tạo điều kiện thuận lợi cho chị em phụ nữ
tham gia tiết kiệm tại cộng đồng.
Tín dụng là nguồn bằng tiền hay hiện vật do một người hay một tổ chức
này cho một người hay một tổ chức khác vay trong một thời gian nhất định.
Khoản vay thường có các điều khoản và điều kiện kèm theo như: số tiền vay,
hình thức trả nợ, lãi suất, mục đích sử dụng vốn vay hoặc lệ phí phải trả.
Nhóm phụ nữ tiết kiệm – tín dụng là một tập hợp người liên kết với
nhau bởi một dấu hiệu chung nào đó theo giá trị hoặc mục đích hoạt động của
các thành viên. Trên tinh thần tự nguyện tham gia vào nhóm, cùng cam kết
thực hiện qui chế nhóm nhằm hỗ trợ giúp đỡ nhau nâng cao chất lượng cuộc

sống thông qua hoạt động tăng thu nhập.
Vận động các thành viên trong nhóm thực hành tiết kiệm làm quỹ tự có
trong làng, xã và làm quen với hoạt động tín dụng cũng như nâng cao kĩ năng

Khóa luận tốt nghiệp đại học

SVTH: Huỳnh Thị Mai Thảo


×