Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Bài giảng thực hành hóa đại cương KS trần thị tường vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.89 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ CƠNG NGHỆ SINH HỌC

BÀI GIẢNG

THỰC HÀNH

HĨA ĐẠI CƯƠNG

KS. TRẦN THỊ TƯỜNG VÂN

Dùng cho sinh viên ngành Môi trường
và ngành Công nghệ sinh học
Năm xuất bản 2009


MỤC LỤC
Trang
Bài Mở đầu . ......................................................................................................... 3
Bài 1. Kỹ thuật phịng thí nghiệm . ..................................................................... 8
Bài 2. Pha chế dung dịch - Chuẩn độ . ............................................................. 21
Bài 3. Dung dịch điện li - Chất chỉ thị màu . ................................................... 30
Bài 4. Tốc độ phản ứng - Cân bằng hóa học . .................................................. 36
Bài 5. Phản ứng ơxi hóa-khử - Bậc phản ứng . ............................................... 42

2


BÀI MỞ ĐẦU
Hóa học là mơn khoa học thực nghiệm. Thực hành hóa học giúp sinh viên củng
cố và phát triển những kiến thức đã học được trong lý thuyết. Để biết được phương


pháp nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết trong thực hành hóa học, sinh viên phải có
một số kỹ năng cần thiết. Những kỹ năng này được rèn luyện dần và chủ yếu trong
phịng thí nghiệm.
Để đảm bảo an toàn và đạt kết quả thực nghiệm tốt, mỗi sinh viên phải tuân thủ
nghiêm túc nội quy phòng thí nghiệm.
NỘI QUY PHỊNG THÍ NGHIỆM

1. Tn thủ đúng giờ giấc làm việc, sáng từ 6g45 đến 11g, chiều từ 12g30 đến
16g45. Đến trễ sau 5 phút sinh viên không được phép vào phịng thí nghiệm.
2. Chỉ những sinh viên có lịch học mới được vào phịng thí nghiệm. Khi vào phịng
thí nghiệm phải đeo bảng tên và mặc áo blouse.
3. Trong giờ thực hành phải giữ yên lặng, trật tự. Khơng được hút thuốc và ăn uống
trong phịng thí nghiệm. Khơng được tự ý ra khỏi phịng thí nghiệm mà khơng có
sự cho phép của giáo viên.
4. Khơng được tự ý lấy dụng cụ, hóa chất khơng phải của mình, có ý thức bảo vệ và
giữ gìn tài sản của phịng thí nghiệm.
5. Giữ sạch sẽ trong phịng thí nghiệm, sắp xếp dụng cụ, hóa chất ngăn nắp, lau
dọn vệ sinh phịng thí nghiệm trước khi ra về.
6. Cần tiết kiệm hóa chất thí nghiệm, tránh gây đổ vỡ dụng cụ, hóa chất. Khi làm
hư hỏng tài sản trong phịng thí nghiệm sinh viên phải bồi thường đầy đủ và chịu
mọi hình thức kỷ luật.
7. Dụng cụ thí nghiệm làm xong phải rửa sạch sẽ trước khi trả cho cán bộ phịng thí
nghiệm.
8. Khơng đổ rác thải, giấy lọc vào bồn rửa tránh gây tắc cống.
9. Khi có cháy, nổ, chập điện phải nhanh chóng cắt hết cầu dao điện và tham gia
chữa cháy.
10. Trước khi ra về phải ngắt hết cầu dao máy lạnh, đèn, quạt, rút phích cắm tủ sấy,
tủ hút, bếp điện…khóa van nước và khóa cửa cẩn thận.
3



QUY TẮC AN TỒN PHỊNG THÍ NGHIỆM
1. Cẩn thận khi tiến hành thí nghiệm. Khơng được sử dụng những máy móc, dụng
cụ mà chưa biết cách sử dụng. Phải hiểu rõ tính chất các hóa chất để tránh tai nạn
đáng tiếc.
2. Không được dùng các dụng cụ thủy tinh chưa rửa sạch. Các dụng cụ thủy tinh
bẩn phải để riêng hoặc rửa ngay sau khi dùng.
3. Tất cả các chai lọ đựng hóa chất phải có ghi nhãn. Khi dùng hóa chất phải đọc kỹ
nhãn hiệu, dùng xong phải để lại chỗ cũ. Nhãn ghi hóa chất bằng tiếng nước ngịai
thì phải xem xét cẩn thận chỗ nào chưa rõ phải tra cứu tài liệu, khơng được đóan.
Hóa chất chưa dùng ngay phải ghi lại để tránh nhầm lẫn. Trên thực tế phần lớn các
hóa chất là chất độc nên phải hết sức cẩn thận.
4. Khi hút hóa chất bằng ống hút (pipet) phải sử dụng bóp cao su.
5. Khi theo dõi dung dịch đang sôi hoặc tinh thể đang chảy không được để mặt gần.
Khi đổ một chất lỏng vào cốc phải để xa mặt. Nên dùng kính bảo hộ lao động.
6. Làm gì nguy hiểm phải chú ý cả người đứng bên cạnh. Đun một chất lỏng trong
ống nghiệm phải để miệng ống quay về phía khơng có người. Lúc đun không được
giữ ống nghiệm đứng yên mà phải lắc đều, đun toàn bộ bề mặt ống nghiệm ở phần
chứa chất lỏng.
7. Khi làm việc với chất dễ cháy thì tuyệt đối:
-

Khơng dùng lửa ngọn

-

Khơng làm việc bên cạnh lửa ngọn

-


Không để chất dễ cháy bên cạnh nguồn sinh nhiệt.

8. Khi làm việc với chất dễ nổ như nitrat, clorat, pemanganat, bicromat, peoxyt…
thì phải cẩn thận và đúng qui cách.
9. Khi làm việc với các acid và bazơ mạnh:
- Khơng để đổ ra ngồi.
-

Đổ acid hay bazơ vào nước khi pha lỗng chúng (khơng được đổ nước vào
acid hay bazơ).

-

Sang chai phải dùng phễu (khi rót phải quay nhãn lên phía trên, chai kia phải
để trên bàn, tuyệt đối không cầm trên tay).

-

Không hút acid hay baz khi trong chai cịn q ít.

-

Khi đun sơi phải cho đá bọt hoặc bi thủy tinh… để điều hòa, tránh để bắn
hay trào ra ngoài.

10. Khi làm việc với dụng cụ thủy tinh:
4


-


Tránh đỗ vỡ.

-

Dụng cụ loại nào dùng cho việc đó, chỉ được đun với dụng cụ thủy tinh chịu
nhiệt và dùng cho chân không những dụng cụ đặc biệt dùng trong chân
không.

11. Khi làm việc với dụng cụ điện:
- Tay phải thật khô, chỗ làm việc cũng phải khô.
-

Cẩn thận khi dùng điện có điện thế 220 Vol.

12. Khi tham gia chữa cháy, cần lưu ý:
- Nếu cháy do các chất hữu cơ: axetat ethyl, benzen, toluen… phải dùng cát.
-

Nếu cháy do điện: trước tiên phải cắt cầu dao điện rồi dùng cát hoặc bình
phun CO2.

13. Khi bị vỡ đường ống dẫn nước trong phịng thí nghiệm, phải nhanh chóng khóa
van của đường ống dẫn nước chính.
QUY TẮC BẢO HIỂM KHI LÀM THÍ NGHIỆM
1. Thí nghiệm với chất độc
Trong phịng thí nghiệm có nhiều chất dễ gây ngộ độc như: asen, thủy ngân,
chì… và những hợp chất của chúng. Nhiều chất ảnh hưởng tới đường hô hấp như:
hơi các halogen, khí cacbon oxit, khí hydro sunfua, nitơ peoxit…Vì vậy phải thận
trọng khi sử dụng các chất này.

Thí nghiệm với các khí độc phải tiến hành trong tủ hút hoặc nơi thống gió, mở
rộng cửa phịng. Chỉ nên lấy lượng hóa chất vừa đủ để làm được nhanh, giảm bớt
khí độc bay ra. Khi ngửi các hóa chất, khơng để mũi gần miệng lọ, mà dùng tay
phẩy nhẹ. Khi làm việc với khí độc cần có khẩu trang.
2. Thí nghiệm với các chất dễ ăn da và gây bỏng
Các axit đặc, kiềm đặc, phốt pho trắng, brom lỏng…dễ ăn da, gây bỏng nặng.
Khi dùng chúng phải cẩn thận, không để rơi vào người, đặc biệt là mắt, khơng dính
vào quần áo, sách vở, tài liệu, khi quan sát cần có kính che mắt.
Pha loãng axit H2SO4 phải đổ axit vào nước, rót chậm từng lượng nhỏ và khuấy
đều, tuyện đối khơng được đổ nước vào axit. Khi đun dung dịch các chất dễ ăn da,
gây bỏng phải thực hiện theo đúng cách đun hóa chất.
3. Thí nghiệm với các chất dễ cháy, dễ nổ
Nhiều chất dễ cháy như: dầu hỏa, xăng, benzen, cồn, ete… dễ gây hỏa hoạn lớn
phải được để xa lửa và dùng lượng vừa phải. Khi cần đun nóng chúng, khơng đun
trực tiếp mà phải đun cách thủy.
5


Làm thí nghiệm với các chất dễ cháy nổ phải thận trọng và theo đúng hướng
dẫn trong tài liệu, cần có phương tiện bảo hiểm đầy đủ.
CÁCH SƠ CỨU KHI GẶP TAI NẠN
1. Khi bị thương
Khi bị đứt tay, chảy máu nhẹ dùng bông thấm máu vết thương rồi bôi thuốc sát
trùng (cồn 900, thuốc tím lỗng, cồn iot…). Vết thương động mạch, dùng dây cao
su hay khăn tay buộc chặt phía trên vết thương, giữ vết thương khỏi nhiễm trùng,
dùng bông sạch phủ lên vết thương rồi băng lại, nếu máu ra nhiều phải đưa đến
trạm y tế.
2. Khi bị bỏng
Bị bỏng vật nóng (thủy tinh, kim loại, nước sôi…) không rửa nước, không làm
vỡ những nốt phồng trên vết bỏng. Sau đó bơi vadơlin và băng vết bỏng lại. Có thể

dụng axit picric hoặc tananh 2% bơi lên vết bỏng.
Bị bỏng axit đặc (H2SO4 đặc…), kiềm đặc phải rửa bằng vòi nước máy cho
chảy mạnh từ 3 – 5 phút. Sau đó rửa lại vết thương do axit bằng dung dịch
NaHCO3 2%, vết thương do kiềm bằng dung dịch CH3COOH 2%.
Khi bị axit bắn vào mắt, dùng bình cầu tia, rửa mắt nhiều lần bằng nước, sau
rửa bằng dung dịch borac 2%. Nếu là kiềm, rửa bằng dung dịch axit acetic hoặc
axit boric 2%.
Bị bỏng bởi phôt pho phải ngâm lâu trong dung dịch thuốc tím hoặc dung dịch
CuSO4 5%, sau đó nhúng băng trước khi buộc vết thương bằng dung dịch CuSO4
5% rồi đưa đến trạm y tế để lấy hết phơt pho cịn lại trong vết bỏng. Khơng bơi
vadơlin lên vêt bỏng vì phơt pho hịa tan trong chất này.
Brom lỏng rơi lên da phải rửa lại nhiều lần bằng benzen hoặc dung dịch natri
thiosunfat 5%, thấm khô, bôi vadơlin, băng lại và đưa đến trạm y tế.
3. Khi bị ngộ độc
Hít phải khí độc như H2S, Cl2, Br2, CO, NO2…đưa ngay nạn nhân ra chỗ
thoáng khí. Nếu cần dùng bình oxy để thở.
Ăn uống phải chất độc như asen, thủy ngân, chì và các hợp chất của chúng,
nhanh chóng cho nạn nhân nơn ra, rồi đưa đến trạm y tế cấp cứu.

6


4. Khi bị cháy
Quần áo đang mặc trên người bị cháy với diện tích lớn, tuyệt đơi khơng được
chạy hoặc ra chỗ có gió, phải nằm xuống đất mà lăn, cháy ở diện tích bé, dùng khăn
ướt, nước để dập tắt.
Nếu xảy ra cháy lớn trong phịng thí nghiệm, phải dùng bình chữa cháy. Khi
cháy các hóa chất, tùy loại mà dùng các phương pháp chữa cháy thích hợp.

7



BÀI 1. KỸ THUẬT PHỊNG THÍ NGHIỆM
1. Một số dụng cụ thí nghiệm
1.1.

Dụng cụ thủy tinh

Trong phịng thí nghiệm có nhiều loại dụng cụ thủy tinh, theo công dụng của
chúng, có thể chia thành 3 loại:
- Dụng cụ thủy tinh khơng chia độ: ống nghiệm, bình cầu, bình hình nón, phễu…
- Dụng cụ thủy tinh có chia độ: ống đo, cốc, ống chuẩn độ, ống hút, bình định
mức…
- Dụng cụ thủy tinh có tác dụng đặc biệt: bình hút ẩm, ống sinh hàn, nhiệt kế…
1.1.1. Dụng cụ thủy tinh không chia độ
Ống nghiệm
Ống nghiệm có nhiều loại với các kích thước khác nhau. Để giữ ống nghiệm
trong khi làm việc, thường để chúng trên các giá đựng.
Ống nghiệm chủ yếu được dùng làm các thí nghiệm với lượng nhỏ. Chất phản
ứng đựng trong ống nghiệm phải là lượng ít, vào khoảng 1/4, có khi chỉ là 1/8,
dung tích ống nghiệm.
Muốn lắc ống nghiệm thì tay trái cầm ống nghiệm bằng
ngón cái và ngón trỏ, cầm gần miệng ống nghiệm và đỡ ống
nghiệm bằng ngón giữa, dùng ngón trỏ tay phải búng nhẹ vào
phía dưới ống nghiệm. Nếu chất lỏng quá ½ ống nghiệm thì phải
khuấy bằng đũa thủy tinh, đưa lên đưa xuống nhẹ nhàng tránh
làm thủng đáy. Không được lấy ngón tay bịt ống nghiệm để lắc,
làm như vậy khơng những đưa thêm chất lạ từ ngón tay vào ống
nghiệm làm sai lệch kết quả thí nghiệm mà đơi khi cịn gây tai
nạn đến ngón tay.

Cốc thủy tinh
Cốc thủy tinh có dạng cao, thấp, rộng, hẹp với dung tích
khác nhau từ 50ml đến 1 hoặc 2 lít. Có 2 loại cốc: cốc có mỏ và
cốc khơng mỏ. Thơng dụng nhất là cốc có mỏ, vì dễ dàng cho
việc rót chất lỏng hơn.
Cốc thường làm bằng thủy tinh chịu nhiệt, dùng đựng hóa
chất và để thực hiện các phản ứng như dùng ống nghiệm nhưng
với lượng hóa chất nhiều hơn.
8


Bình hình nón
Bình hình nón có thành mỏng đều, đáy bằng, miệng hẹp,
cũng có thể đun được như cốc thủy tinh. Do hình dạng của bình
nên nó lắc quay trịn dễ, cho phép trộn nhanh hóa chất đựng
trong bình, vì vậy bình hình nón thường được sử dụng để chuẩn
độ. Cũng nhờ hình dạng của bình mà ta có thể dùng đũa thủy tinh
chạm vào một điểm bất kỳ của bình, do đó dễ dàng hơn khi làm
sạch bình cũng như lấy hết các cặn dính ở thành bình.
Bình cầu
Bình cầu có nhiều cỡ khác nhau và nhiều loại
khác nhau như bình cầu đáy bằng, bình cầu đáy trịn;
bình cầu cổ ngắn hay cổ dài, cổ rộng hay cổ hẹp, cổ
nhám hay không nhám; loại chịu nhiệt hoặc không chịu
nhiệt; loại có nhánh hoặc khơng có nhánh…
- Bình cầu đáy bằng dùng để đựng và pha hóa chất,
hoặc để đun nóng các chất lỏng…
- Bình cầu đáy trịn dùng để cất, đun sơi hoặc làm
những thí nghiệm cần đun nóng. Khi đun nên dùng
kẹp mắc trên giá mà cặp cổ bình cầu và phải lót lưới

amiăng. Bình cầu đáy trịn phải có giá để.
Phễu
Phễu dùng để lọc và rót chất lỏng. Phễu thủy tinh có kích
thước khác nhau, thường có đường kính 6cm – 10cm. Hình dạng
chung của các phễu là cuống dài, gốc phễu bằng 600, nhờ vậy sẽ
giúp cho tốc độ chảy nhanh.
Khi dùng, người ta thường đặt phễu lên giá đỡ. Giá đỡ gồm
giá sắt và vòng phễu sắt, tùy lọai phễu dùng lớn hay nhỏ mà chọn
vịng phễu thích hợp để mắc. Cũng có khi người ta đặt phễu trực
tiếp lên các dụng cụ hứng: chai, lọ, bình cầu, bình hình nón…
Khi rót chất lỏng, mức chất lỏng trong phễu phải thấp hơn miệng phễu 15mm.
Không nên rót chất lỏng thắng vào phễu mà nên dùng đũa thủy tinh dẫn chất lỏng
vào thành phễu.

9


1.1.2. Dụng cụ thủy tinh có chia độ
Ống đo hình trụ
Ống đo hình trụ được chia độ thành 1 ml hoặc 1/10 ml. Các
ống đo hình trụ có dung tích từ 3ml, 5ml đến 1 lít. Khi dùng các ống
đo cần chú ý độ chính xác phép đo thể tích phụ thuộc vào đường
kính ống đo, ống đo càng rộng thì mức chính xác càng kém. Khơng
được dùng những ống đo lớn để đo thể tích nhỏ.
Khi đong chất lỏng trong suốt, rót chất lỏng vào ống đo sao cho
đáy dưới vòm khum của bề mặt chất lỏng ngang với vạch chia độ
của ống đo, vạch đó sẽ chỉ thể tích chất lỏng. Đối với chất lỏng đục
hoặc có màu, xác định thể tích theo mặt trên của vịm khum.
Khơng được đun nóng ống đo cũng như khơng được đo chất lỏng đang nóng.
Bình định mức

Bình định mức là loại dụng cụ có thể tích chính xác chun
dùng để pha chế những dung dịch có nồng độ xác định. Bình
định mức là hình cầu đáy bằng, cổ dài, có ngấn và nút nhám.
Ngấn ở cổ bình xác định dung tích chất lỏng chứa trong bình ở
200C. Bình định mức thường dùng có dung tích 100, 250, 500
ml…
Khi pha dung dịch có nồng độ xác định từ chất rắn, cần
thực hiện như sau: Trước tiên cân chính xác chất định pha, đổ
vào cốc ngịai rồi cho vào đó một ít dung mơi để hịa tan, sau đó
mới đổ vào bình định mức, tiếp tục đổ thêm dung môi cho tới
vạch.
- Trước khi đổ dung môi cho tới vạch phải lắc dung dịch trong bình thật đều, dùng
hai bàn tay đỡ đáy và nút bình định mức lắc cẩn thận khơng để dung dịch bắn
lên miệng bình.
- Việc hịa tan thường làm giảm hoặc tăng nhiệt độ của dung dịch, nên phải chờ
cho đến khi nhiệt độ của dung dịch trong bình và nhiệt độ trong phịng thí
nghiệm bằng nhau rồi mới cho thêm dung dịch cho tới vạch.
- Khi đổ dung mơi cho tới vạch thì những giọt dung mơi sau cùng phải đổ chính
xác, nếu cần thì dùng pipet để nhỏ giọt từ từ, sau khi nhỏ một giọt ta phải chờ 1
đến 2 phút để dung mơi có thời gian trơi xuống vì nó dính thành bình.
- Khi xác định vịm khum cần để mắt nhìn ngang với ngấn.
- Chú ý cầm cổ bình phía trên ngấn, khơng cầm ở bầu trịn của bình để tránh làm
tăng nhiệt độ chất lỏng trong bình.
10


Ống hút (Pipet)
Pipet dùng để lấy một lượng chính xác chất lỏng. Pipet là một ống thủy tinh
nhỏ, ở giữa có bầu hoặc khơng. Pipet thường có dung tích 1, 2, 3, 5, 10, 20, 25,
50ml. Ngoài ra, người ta cịn sử dụng micro pipet để lấy những thể tích nhỏ chất

lỏng với độ chính xác cao hơn.
Phân loại pipet: pipet một vạch và pipet hai vạch, pipet chia độ và pipet có
dung tích cố định (pipet bầu).
- Đối với pipet một vạch thì khi ta hút chất lỏng đến vạch trên và thả tay
cho chất lỏng chảy ra hết là đã lấy được đúng thể tích ghi trên pipet.
- Đối với pipet hai vạch thì thể tích ghi trên pipet là thể tích chứa giữa hai
vạch đó. Vì vậy đối với pipet hai vạch này, khi ta hút chất lỏng đến vạch
trên và thả tay cho chất lỏng chảy ra đến vạch dưới thì dừng lại, lúc đó sẽ
lấy được đúng thể tích ghi trên pipet.
- Pipet chia độ là loại pipet tại phần giữa có các vạch chia độ.
- Pipet bầu là loại pipet thường có bầu ở giữa, dùng để đo một thể tích
chính xác do pipet quy định.
Muốn lấy chất lỏng vào pipet phải dùng quả bóp cao su.
- Trước hết dùng tay phải bóp quả cao su để tạo ra sự chênh lệch áp suất, tay trái
cầm pipet, chú ý ngón trỏ của tay trái để gần miệng trên pipet có thể sẵn sàng bịt
lại khi đã lấy xong chất lỏng.
- Đặt đầu hở quả cao su vào miệng pipet. Nhúng pipet vào chất lỏng và thả lỏng từ
từ tay phải để chất lỏng vào pipet cho tới quá vạch trên của pipet một chút. Dùng
ngón trỏ tay trái bịt lại.
- Nhấc pipet ra khỏi bề mặt chất lỏng, dùng giấy lau khô chất lỏng bên ngồi
pipet. Sau đó nâng vạch của pipet lên ngang mắt, hé mở ngón trỏ để chất lỏng
chảy từng giọt cho tới khi vòm khum khớp với vạch chia độ.
- Đưa pipet sang bình đựng, mở ngón trỏ cho chất lỏng chảy vào bình. Nếu pipet
có vạch ở phía dưới thì dùng ngón trỏ điều chỉnh cho vịm khum chất lỏng cịn
lại khớp với vạch dưới pipet. Nếu pipet khơng có vạch dưới thì để chất lỏng chảy
ra hết, khơng dùng miệng thổi xuống giọt chất lỏng cịn dính lại đầu cuối pipet.

11



Ống chuẩn độ (Buret)
Buret dùng để đo một lượng nhỏ dung dịch. Buret là
một ống thủy tinh đầu dưới vuốt nhỏ lại, trên thành ngoài
dọc theo chiều dài của buret có khắc vạch chia ra ml và
0,1ml, vạch số 0 ở phía trên. Buret dùng để chuẩn độ
thường có dung tích 10ml, 25ml và 50ml.
Thường buret có hai loại: loại có khóa nhám và loại
ống cao su. Buret có khóa nhám có thể sử dụng cho các hóa
chất trừ dung dịch kiềm. Đối với dung dịch kiềm thì ta nên
dùng buret ống cao su.
Ngồi 2 loại buret nói trên, trong phịng thí nghiệm
cịn dùng microburet. Microburet khác với buret thường ở
chỗ nó khơng chia độ theo 0,1ml mà theo 0,01ml, vì vậy nó
chính xác hơn.
Khi sử dụng buret để chuẩn độ, cần thực hiện theo các động tác sau:
Phần chuẩn bị:
- Rửa sạch buret trước khi sử dụng. Buret sạch là khi ta rót dung dịch thì dung
dịch chảy từ từ theo thành bên trong của buret và khơng dính giọt nào trên thành
buret. Khi sử dụng mà buret còn ướt thì ta phải tráng buret vài lần bằng dung
dịch chuẩn độ.
- Rót dung dịch chuẩn độ vào buret: dùng loại phễu nhỏ có cuống ngắn, cuống
phễu khơng được chạm tới vạch số 0. Trước khi rót ta phải xem lại đã khóa buret
chưa. Sau đó mở khóa để dung dịch chảy xuống chiếm đầy phần buret nằm dưới
khóa đến tận đầu cùng của ống vuốt. Dung dịch rót vào phải cao hơn vạch số 0
khoảng 3 – 4cm. Chú ý để cho phần dưới buret khơng có bọt khí, vì nếu có bọt
khí thì khi chuẩn độ ta khơng thể đọc đúng thể tích hóa chất đã sử dụng. Trường
hợp có bọt khí thì ta mở khóa cho chất lỏng chảy mạnh xuống cốc hứng để bọt
khí theo ra.
- Cứ mỗi lần chuẩn độ ta phải rót dung dịch vào buret cho đến vạch số 0.
Phần định lượng:

- Dùng tay trái cẩn thận mở khóa cho dung dịch chảy từ từ tới vạch số 0; nhìn
ngang tầm mắt thấy mặt khum tiếp xúc với vạch số 0 thì dừng.
- Khi định lượng, dung dịch chảy trong buret không được nhanh q vì khi chảy
nhanh dung dịch khơng kịp xuống hết, vì vậy kết quả thực nghiệm sẽ sai.
- Mỗi lần chuẩn độ nên xuất phát từ vạch số 0.
12


Khi tiến hành xong thí nghiệm, buret phải được rửa sạch bằng nước thường và
tráng lại bằng nước cất, cặp nó vào giá và quay đầu hở xuống để bụi khơng rơi vào
buret. Đối với loại buret có khóa nhám thì cần lấy khóa ra bọc khóa bằng giấy lọc
sạch rồi lại đặt khóa vào buret, làm như vậy thì phần nhám được bảo vệ ít bị hỏng
và cũng khơng bị dị chảy. Bình thường ta có thể bơi khóa buret bằng một lớp
vadơlin mỏng rồi xoay qua lại để lớp vaselin phân bố đều trước khi sử dụng.
1.1.3. Dụng cụ thủy tinh có tác dụng đặc biệt
Bình hút ẩm
Bình hút ẩm là bình làm bằng thủy tinh dầy, phía dưới
hình nón cụt, phía trên hình trụ, nắp đậy bằng thủy tinh có gờ
mài nhám cho kín. Bình hút ẩm dùng làm khô từ từ các chất,
bảo vệ các chất dễ hút ẩm trong khơng khí.
Có 2 loại bình: bình hút ẩm thường, bình hút ẩm chân
khơng.
Ở đáy bình để các chất hút ẩm: CaCl2 khan, NaOH rắn, H2SO4 đặc, P2O5,
silicagel…Những chất cần làm khô đựng trong cốc. chén sứ, mặt kính đồng
hồ…đặt vào bình, trên khay sứ. Miệng bình và nắp thủy tinh mài nhám luôn bôi lớp
vadơlin mỏng. Khi mở bình phải đẩy nắp trượt về một bên theo chiều ngang, không
được nhấc nắp theo chiều thẳng đứng. Khi đậy nắp, đẩy nắp trượt từ bên cạnh dần
vào khít với miệng bình. Muốn di chuyển bình hút ẩm, dùng hai ngón tay cái giữ
lấy nắp bình vì nó dễ bị trượt.
Trong trường hợp đặt chén nung nóng vào bình sau khi đậy nắp, phải đẩy nắp

qua lại vài lần để khơng khí nóng thốt ra ngồi, sau đó mới đậy nắp cố định, để khi
nguội áp suất trong bình giảm, nắp được giữ chặt.
Ống sinh hàn
Ống sinh hàn dùng để ngưng tụ các chất hơi. Tùy theo chức năng mà ống sinh
hàn có hình dạng và tên gọi khác nhau.
Ống sinh hàn thẳng dùng cất nước hay cất chất lỏng, để
phân ly các chất lỏng hòa tan lẫn nhau. Ống sinh hàn thẳng có
hình dạng một ống thủy tinh dài và một đầu rộng ra, bao quanh
ống này là một bao bằng thủy tinh.
Ống sinh hàn bầu và ống sinh hàn xoắn là loại ống sinh hàn
ngược chủ yếu dùng để ngưng lại các chất dễ bay hơi trong bình
phản ứng. Cũng có thể dùng loại này để cất chất lỏng nhưng khi
dùng phải lắp đứng, nếu lắp nghiêng chất lỏng sẽ đọng lại trong
13


ống sinh hàn. Đối với ống sinh hàn ngược, ống ngưng tụ bên trong có thể có dạng
tràng hạt hay xoắn ruột gà. Cấu tạo của ống sinh hàn loại này sẽ làm tăng bề mặt
làm lạnh và như vậy hơi sẽ ngưng tụ tốt hơn.
Nước làm lạnh ống sinh hàn bao giờ cũng cho chảy vào vòi dưới và chảy ra ở
vòi trên. Lắp như vậy để đảm bảo ống sinh hàn luôn luôn đầy nước. Nếu ta lắp
ngược lại thì trong ống sinh hàn sẽ khơng đầy nước, nó làm cho ống sinh hàn nóng
và những chỗ đó sẽ nứt và sự ngưng tụ cũng hạn chế. Thường dùng nước máy để
chạy ống sinh hàn.
Nhiệt kế
Có nhiều loại dụng cụ để đo nhiệt độ: nhiệt kế lỏng, nhiệt kế điện
trở, piromet nhiệt điện, piromet quang học.
Nhiệt kế lỏng là nhiệt kế có chứa chất lỏng. Chất lỏng đựng trong
nhiệt kế thường là rượu màu, thủy ngân, toluen, pentan…Nhiệt kết chứa
pentan đo nhiệt độ thấp đến -2200C. Nhiệt kế thủy ngân đo đến nhiệt độ

cao nhất là 5500C.
Khi đo nhiệt độ một chất lỏng, nhúng ngập bầu thủy ngân của
nhiệt kế vào chất lỏng, không để bầu thủy ngân sát vào thành bình.
Theo dõi đến khi cột thủy ngân không dâng lên nữa mới đọc kết quả, để
mắt ngang với mực thủy ngân.
Sử dụng nhiệt kế phải cẩn thận, tránh va chạm mạnh, rơi vỡ, không để nhiệt
kế thay đổi nhiệt độ đột ngột, không được đo nhiệt độ cao quá nhiệt độ cho phép, sẽ
làm nhiệt kế nứt vỡ. Cần đặc biệt lưu ý thủy ngân và hơi thủy ngân rất độc, nếu
không may nhiệt kế vỡ, dùng mảnh giấy thu gom phần lớn các hạt thủy ngân vào
lọ, khơng được nhặt bằng tay, khử thủy ngân cịn sót bằng bột lưu huỳnh, hoặc tạo
hỗn hống với kẽm…đồng thời làm thay đổi khơng khí trong phịng: mở cửa, quạt
thơng gió…
1.2. Dụng cụ bằng sứ
Dụng cụ bằng sứ cũng được sử dụng rộng rãi trong
phịng thí nghiệm. Dụng cụ bằng sứ bền chắc, ít bị hóa chất
ăn mịn, chịu được sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, đặc biệt
chịu được nhiệt độ cao hơn dụng cụ thủy tinh (có thể tới
12000C). Song có nhược điểm là nặng, khơng trong suốt và
đắt tiền.
Thường dùng là cốc sứ, chén sứ, bát sứ, chày, cối sứ, thìa bay…

14


Chén sứ
Chén sứ dùng để nung các chất, đốt cháy các chất hữu cơ khi xác định tro…
Trong đa số trường hợp, khi nung cần đậy nắp. Khi lấy nắp ra phải dùng kìm để
gắp. Nung xong làm nguội trong bình hút ẩm.
Bát sứ
Bát sứ dùng để cơ các dung dịch, trộn các hóa chất rắn với nhau, đun chảy các

chất…
Có thể đun các bát sứ bằng ngọn lửa trực tiếp nhưng nếu đun qua lưới vẫn tốt
hơn.
Chày, cối sứ
Chày, cối sứ dùng để nghiền hóa chất rắn.
Khi nghiền, lượng chất rắn trong cối khơng q 1/3 thể tích của cối. Đầu tiên
dùng chày cẩn thận giã nhỏ những cục lớn cho đến khi kích thước bằng hạt đậu, sau
đó dùng tay tỳ chày và xoáy mạnh chày vào cối cho chất rắn nhỏ dần. Trong khi
nghiền thỉnh thoảng dừng lại, dùng thìa bay để đảo và dồn chất cần nghiền vào giữa
cối. Khi đạt đến kích thước cần thiết dùng thìa bay cạo sạch chất cần nghiền dính
vào đầu chày và xung quanh thành cối sau đó đổ ra theo mỏ cối. Sau khi nghiền
xong, rửa sạch chày cối ngay.
1.3. Dụng cụ bằng sắt, bằng gỗ, bằng kim loại
Dụng cụ bằng sắt gồm giá sắt, con bọ, cặp sắt,
vòng kiềng, cặp gắp chén nung, lưới amiăng, kẹp
mo…Dụng cụ bằng gỗ có giá để ống nghiệm, cặp
ống nghiệm…
Giá sắt rất cần cho phịng thí nghiệm hóa học. Cùng với giá sắt thường có đủ các
vịng, cặp, con bọ. Khi cặp ống nghiệm hay các loại bình phải có cao su hay giấy
lót nơi tiếp xúc giữa cặp sắt và dụng cụ thủy tinh để tránh nứt vỡ.
Đối với cặp ống nghiệm, khi đã cho ống nghiệm vào cặp rồi, không nên dùng
bàn tay nắm lấy cả 2 nhánh ống nghiệm, chỉ cầm chắc lấy nhánh dài và cho ngón
tay cái gần sát vào phía trong nhánh ngắn. Như vậy sẽ cặp chặt ống nghiệm và
khơng bị rơi.
Phịng thí nghiệm có tủ hút để tiến hành thí nghiệm với chất độc hoặc có mùi
khó chịu như hydro sunfua, hydro clorua, các halogen, nitơ dioxit… Khi khơng thí
nghiệm, tủ hút có thể dùng để cất các hóa chất độc, dễ bay hơi, có mùi khó chịu

15



như brom lỏng, các axit đặc (H2SO4, HNO3, HCl…), các chất dễ cháy như CS2, ete,
benzen…
2. Một số loại máy thông dụng
Để tiến hành đo đạc các số liệu trong q trình thí nghiệm, thường sử dụng một số
loại máy đo đơn giản sau:
Cân
Cân dùng để xác định khối lượng.
Trong phịng thí nghiệm thường phân biệt 2 loại
cân: cân kỹ thuật và cân phân tích.
- Cân kỹ thuật là cân dùng để cân các khối lượng
tương đối lớn (vài trăm gram), khối lượng nhỏ nhất
mà cân kỹ thuật cân được khoảng 0,01g.
- Cân phân tích là cân dùng để cân các khối lượng
nhỏ từ 100g trở xuống đến 0,1mg (0,0001g), do đó
người ta cũng thường gọi cân phân tích là cân có 4
số lẻ.
Khơng nên nhầm lẫn rằng cân phân tích ln chính
xác hơn cân kỹ thuật, nó chỉ chính xác hơn khi cân các
khối lượng nhỏ. Vì vậy khơng dùng cân phân tích để
cân các khối lượng lớn hơn 200g. Trong trường hợp
cân 1 lượng nhỏ 10g, 20g, nếu khơng cần độ chính xác
cao, ta nên dùng cân kỹ thuật để nhanh hơn.
Máy đo pH
Máy đo pH là máy đo được sử dụng để xác định chỉ số hydro (pH) của các dung
dịch.
Máy đo độ dẫn diện
Máy đo độ dẫn diện là loại máy dùng để xác định hàm lượng các muối hịa tan
trong dung dịch thơng qua việc xác định độ dẫn điện của chúng.
Lò nung

Lò nung được sử dụng khi tiến hành các thí nghiệm với chất rắn ở nhiệt độ cao.

16


Tủ sấy
Tủ sấy được sử dụng để làm khô các vật liệu, sản phẩm, các dụng cụ và hóa chất
bằng nhiệt.
3. Một số kỹ thuật cơ bản trong phịng thí nghiệm
3.1. Rửa dụng cụ hóa học
Rửa dụng cụ hóa học cần biết tính chất của những chất làm bẩn dụng cụ. Từ đó
chọn phương pháp rửa cũng như dung mơi để rửa.
Có 2 phương pháp rửa: phương pháp cơ học và phương pháp hóa học
Phương pháp cơ học
Dụng cụ rửa là chổi lông. Nếu chất bẩn không phải là chất béo, chất khơng tan
trong nước thì dùng nước nóng hoặc nước lạnh. Nếu chất bẩn khơng tan trong
nước, có thể rửa bằng các dung môi hữu cơ như: ete, axeton, xăng, rượu etylic…
Khi rửa ống nghiệm bằng chổi lông, cần chú ý:
- Một tay cầm chổi, một tay cầm hơi chếch ống nghiệm
- Cho nước vào ống nghiệm, cầm chổi xoay nhẹ để cho lông chổi cọ sát vào đáy
và thành ống, đồng thời kéo chổi lên xuống, vừa kéo vừa xoay để rửa thành ống.
- Không thọc mạnh chổi vào đáy ống sẽ làm ống nghiệm bị vỡ.
- Cần chọn chổi thích hợp với từng loại ống.
Phương pháp hóa học
Thường dùng hỗn hợp sunfocromic, hỗn hợp axit sunfuric với kali ppemanganat,
kiềm đặc…để rửa.
Khi rửa các dụng cụ cần chú ý:
- Dụng cụ phải rửa sạch, tráng bằng nước cất rồi để vào nơi quy định.
- Không dùng giấy lọc, khăn mặt lau thành bên trong các dụng cụ vừa rửa xong.
Có thể làm khơ các dụng cụ trong tủ sấy (trừ các dụng cụ có chia độ).

- Các dung dịch axit, kiềm đặc, chất độc, mùi thối… không được đổ vào chậu rửa.
3.2. Làm khô các dụng cụ
Các dụng cụ có thể làm khơ nguội và sấy khơ nóng.
Để làm khô nguội, dụng cụ sau khi rửa sạch được úp lên các giá đựng. Dụng cụ
đã rửa sạch, cần tránh khơng bị bẩn lại, có thể để trong bình hút ẩm.
Sấy khơ nóng dụng cụ bằng đèn cồn, bếp điện, đèn khí hoặc trong tủ sấy ở nhiệt
độ 800C – 1000C. Với các dụng cụ có chia độ khơng được sấy khơ nóng, nếu cần
làm khơ, tráng dụng cụ bằng rượu, sau bằng ete.
17


3.3. Cách sử dụng hóa chất
Ngay từ đầu, sinh viên phải làm quen với việc dùng lượng hóa chất nhỏ để làm
thí nghiệm.
Lấy hóa chất rắn phải dùng thìa sạch và khơ, khơng bốc hóa chất bằng tay, tránh
bưng cả lọ mà đổ. Nút của lọ hóa chất khi đặt xuống bàn, đặt ngửa nút. Hóa chất rơi
vãi, dùng thừa khơng được vào lọ, trừ trường hợp hóa chất q, đắt tiền. Khi cần
cho hóa chất rắn vào ống nghiệm, gấp băng giấy thành máng, cho hóa chất vào đầu
máng, từ từ đưa xuống đáy ống nghiệm, gõ nhẹ cho hóa chất rơi xuống.
Lấy hóa chất lỏng phải dùng ống nhỏ giọt, không để đầu ống hút chạm vào thành
dụng cụ, khơng để lẫn ống hút của lọ hóa chất này sang lọ hóa chất khác. Nếu có
hướng dẫn lấy một lượng lớn, khi rót dung dịch phải xoay nhãn về phái trên, nếu
dung dịch có rơi rớt ra ngồi khơng làm hỏng nhãn. Khi lấy hóa chất độc và ăn da
không được dùng tay cầm ống nghiệm mà phải dùng cặp. Nên cặp ống nghiệm ở vị
trí cách miệng ống khoảng 1/5 bề dài ống.
3.4. Hòa tan
Để pha chế các thuốc thử trong phịng thí nghiệm thường phải hịa tan chất tan
trong dung môi (chất rắn trong chất lỏng, chất lỏng trong chất lỏng, chất khí trong
chất lỏng).
Nếu là chất rắn phải nghiền nhỏ, khuấy đều, khi cần thiết có thể đun nóng.

Hịa tan 2 chât lỏng cần lắc bình ln để cho dung dịch đồng nhất. Tùy theo
lượng chất hịa tan mà chọn dụng cụ thích hợp. Những dụng cụ hịa tan thường
dùng là ống nghiệm, cốc, bình hình nón, bình định mức… Hịa tan trong ống
nghiệm thì lắc ngang. Hịa tan trong bình cầu, bình định mức, bình tam giác thì lắc
trịn. Hịa tan trong cốc phải khuấy dung dịch bằng đũa thủy tinh có đầu bọc cao su,
nếu khuấy lâu dùng máy khuấy từ hoặc động cơ điện chạy đũa khuấy.
3.5. Lọc
Lọc là phương pháp tách hịan tồn pha rắn ra khỏi pha lỏng. Có nhiều cách lọc:
lọc thường, lọc nóng, lọc dưới áp suất thấp…
Lọc thường
Lọc thường dùng phễu thủy tinh và giấy lọc.
Khi lọc phải chọn giấy lọc phù hợp và vừa kích thước của phễu lọc. Có 2 cách
gấp giấy lọc: giấy lọc gấp hình chóp khi cần lấy kết tủa, giấy lọc nhiều nếp khi cần
lọc nhanh và lấy nước lọc.

18


Cách lọc được tiến hành như sau:
- Trước tiên đặt giấy lọc vào phễu, mép giấy lọc cách miệng phễu khoảng 5 –
10mm, tẩm ướt giấy lọc bằng dung môi sạch rồi dùng ngón tay trỏ ấn nhẹ để
giấy lọc ép sát vào thành phễu đẩy hết bọt khí giữa phễu và giấy lọc ra ngoài.
Như vậy khi lọc cuống phễu sẽ đầy nước lọc. Cột chất lỏng có tác dụng như bơm
hút, kéo chất lỏng trong phễu chảy nhanh hơn.
- Sau đó đặt phễu trên giá lọc có lỗ trịn vừa phễu, phía dưới đặt cốc sao cho
cuống phễu chạm vào thành cốc để tạo dòng chảy liên tục. Khi rót, dùng đũa
thủy tinh đặt sát mỏ cốc để tránh rơi vãi. Chất lỏng chỉ được đổ cách mép phễu 8
– 10mm. Nên lọc phần chất lỏng trong nước, chất lỏng cịn ít mới khuấy kết tủa
lên và đổ tất cả vào phễu lọc.
Lọc dưới áp suất thấp

Lọc dưới áp suất thấp được sử dụng khi cần lọc nhanh và muốn thu được kết tủa
khơ.
Lọc nóng
Lọc nóng được sử dụng khi lọc những chất dễ kết tinh.
3.6. Đun nóng, chưng và nung
3.6.1. Đun nóng
Trong phịng thí nghiệm thường đun nóng bằng đèn cồn, đèn khí, bếp điện…
Đun chất lỏng trong bình cầu, cốc, bình hình nón…phải đặt trên giá sắt có
lưới amiăng, cần thiết phải cặp vào giá bằng cặp sắt có lót. Sau khi đun xong khơng
để bình cầu, cốc, bình hình nón…vào chỗ lạnh, nên để trên gỗ, giấy khô để khỏi vỡ.
Đun chất lỏng trong ống nghiệm dùng cặp gỗ, cặp cách miệng ống 1/5 chiều
dài, cầm hơi nghiêng, miệng ống khơng hướng về phía có người. Lúc đầu hơ nhẹ
19


toàn thể ống nghiệm, vừa đun, vừa lắc để tránh hiện tượng chậm sôi, không nên
đun ngọn lửa thẳng vào đáy ống nghiệm, nếu khơng thì dung dịch có thể vì sơi
bùng lên mà trào và bắn ra ngồi. Khi bọt khí bắt đầu xuất hiện, đưa ống sang bên
để gần hay bên trên ngọn lửa, tiếp tục đun bằng khơng khí nóng.
3.6.2. Chưng
Chưng là phương pháp đun sơi ở nhiệt độ khơng đổi. Tùy theo u cầu của thí
nghiệm mà dùng phương pháp thích hợp: Chưng cách thủy, cách cát…
Chưng cách thủy
Chưng cách thủy ở nhiệt độ khoảng 1000C. Dụng cụ chuyên dùng đốt nóng
bằng điện, có nắp hợp thành các vịng kim loại có thể đặt bình phản ứng to nhỏ
khác nhau, bên cạnh bình có ống thủy tinh nhỏ thông với bên trong để báo mực
nước. Nếu khơng có bình cách thủy chun dụng có thể dùng đèn cồn, đèn khí hay
bếp điện chưng cách thủy bằng cách đặt bình phản ứng hay ống nghiệm vào cốc
trên giá tròn ngập trong nước.
Chưng cách cát

Chưng cách cát ở nhiệt độ khoảng 400-5000C, dụng cụ là bếp cách cát,
phương pháp chưng tương tự như trên.
3.6.3. Nung
Nung là đun nóng ở nhiệt độ cao, thường dùng lò nung đạt từ 1000 – 12000C.
Dụng cụ nung nóng thường bằng sứ, thạch anh hay thủy tinh chịu nhiệt.

20


BÀI 2. PHA CHẾ DUNG DỊCH - CHUẨN ĐỘ
1. Mục đích
- Pha chế một số dung dịch từ hóa chất gốc.
- Xác định nồng độ dung dịch bằng phù kế và bằng phương pháp chuẩn độ.
2. Nguyên tắc
2.1. Dung dịch và nồng độ dung dịch
Dung dịch là một hệ đồng nhất giữa chất tan và dung môi.
Nồng độ là một đại lượng đặc trưng cho dung dịch, thể hiện quan hệ về lượng
giữa chất tan và dung môi. Nồng độ rất đa dạng, trong hóa học thường sử dụng các
loại nồng độ sau:
- Nồng độ mol: cho biết số mol chất tan có trong 1 lít dung dịch.
số mol chất tan
CM = thể tích dung dịch (l)
- Nồng độ đương lượng: cho biết số đương lượng chất tan có trong 1 lít dung
dịch.
số đương lượng
CN = thể tích dung dịch(l)
Số đương lượng chất tan = Số mol chất tan x Hệ số đương lượng
Hệ số đương lượng (z): phụ thuộc vào bản chất của chất đó và phản ứng
mà chất đó tham gia.
+ Nếu phản ứng là phản ứng axit - bazơ: z là số ion H+ hay ion OH- mà một

phân tử, ion của chất đó tác dụng vừa đủ.
+ Nếu phản ứng là phản ứng ơxi hóa - khử: z là số electron mà một phân
tử, ion của chất đó cho hay nhận.
- Nồng độ khối lượng trên thể tích: cho biết khối lượng chất tan (thường là g
hay mg) có trong 1 đơn vị thể tích dung dịch (thường là l hay ml).
C (g/l, mg/l, hay mg/ml) =

khối lượng chất tan (g hay mg)
thể tích dung dịch (l hay ml)

Lưu ý: 1g/l = 1mg/ml = 1000mg/l. Không sử dụng nồng độ g/ml.
- Nồng độ phần trăm về khối lượng: cho biết tỉ lệ về phần trăm giữa khối lượng
của chất tan và khối lượng của dung dịch.
21


khối lượng chất tan
C%= khối lượng dung dịch x 100%
Mối quan hệ giữa các loại nồng độ:
C(g/l)
- Mối quan hệ giữa C(g/l) và C%: C% = 10.d
d (g/ml): khối lượng riêng của dung dịch.
Đối với dung dịch loãng: d ≈ 1g/ml, khi đó 1 % ≈ 10g/l.
C(g/l)
- Mối quan hệ giữa C(g/l) và CM: CM = M
- Mối quan hệ giữa CM và CN: CN = CM x z
Người ta thường ký hiệu một cách đơn giản CM là M và CN là N.
2.2. Pha chế dung dịch
2.2.1. Công thức tính pha chế dung dịch theo các nồng độ
Pha chế từ chất rắn

- Pha theo nồng độ mol CM:
mct =

C M .M A .VPha . 100
1000
P

Trong đó:
+ mct khối lượng mẫu cần cân pha, g.
+ CM nồng độ mol dung dịch cần pha, M.
+ MA phân tử gam của chất cần pha, g/mol.
+ VPha thể tích dung dịch cần pha, ml.
+ P là độ tinh khiết của hoá chất, %.
- Pha theo nồng độ đương lượng CN:
mct =

C N .Ñ .V Pha 100
1000
P

Trong đó:
+ mct khối lượng mẫu cần cân pha, g.
+ CN nồng độ đương lượng dung dịch cần pha, N.
+ Đ đương lượng gam của chất cần pha, g/đương lượng. (Đ = M/z)
+ VPha thể tích dung dịch cần pha, ml.
+ P là độ tinh khiết của hoá chất, %.

22



- Pha theo nồng độ phần trăm C(%):
mct =

C (%).V pha d 100
.
100
P

Trong đó:
+ mct khối lượng mẫu cần cân pha, g.
+ C% nồng độ phần trăm dung dịch cần pha, %.
+ Vpha thể tích dung dịch cần pha, ml.
+ d là khối lượng riêng của dung dịch cần pha, g/ml.
+ P độ tinh khiết của hoá chất, %.
Pha chế từ chất lỏng
- Pha theo nồng độ mol CM:
Vđđ =

C M .M .VPha
P.10.d

Trong đó:
+ Vđđ thể tích hố chất đậm đặc cần hút để pha, ml.
+ CM nồng độ mol hố chất cần pha, M.
+ M phân tử gam hóa chất cần pha, g/mol.
+ VPha thể tích mẫu cần pha, ml.
+ P độ tinh khiết của hoá chất, %.
+ d là khối lượng riêng của dung dịch cần pha, g/ml.
- Pha theo nồng độ đương lượng CN:
C N .Đ.VPha

Vđđ = P.10.d

Trong đó:
+ Vđđ thể tích hố chất đậm đặc cần hút để pha, ml.
+ CN nồng độ đương lượng hoá chất cần pha, N.
+ Đ đương lượng gam hóa chất cần pha, g/đương lượng.
+ VPha thể tích mẫu cần pha, ml.
+ P độ tinh khiết của hoá chất, %.
+ d là khối lượng riêng của dung dịch cần pha, g/ml.
- Pha theo nồng độ phần trăm C(%):

C2 d 2
V pha
Vđđ =
C1d1
23


Trong đó:
+ Vđđ thể tích dung dịch có nồng độ cao ban đầu, ml.
+ Vpha thể tích dung dịch cần pha, ml.
+ C1 nồng độ phần trăm của dung dịch có nồng độ cao ban đầu, %.
+ C2 nồng độ phần trăm của dung dịch cần pha, %.
+ d1 là khối lượng riêng của dung dịch có nồng độ cao ban đầu, g/ml.
+ d2 là khối lượng riêng của dung dịch cần pha, g/ml.
+ Với các dung dịch có nồng độ xấp xỉ nhau, có thể xem d1 ≈ d2
2.2.2. Cách pha chế dung dịch
Pha chế dung dịch chuẩn
Nếu có chất gốc thì cân một lượng đã tính trên cân phân tích, hịa tan trong
bình định mức rồi thêm nước tới vạch ngấn. Khi khơng có chất gốc, trước hết pha

dung dịch có nồng độ gần đúng, sau đó dùng dung dịch chất gốc khác để xác định
lại nồng độ dung dịch vừa pha. Ví dụ: dùng dung dịch axit oxalic chuẩn để xác định
lại nồng độ của dung dịch natri hydroxit vừa pha.
Để điều chế các dung dịch chuẩn độ, trong thực hành thường dùng “chất tiêu
chuẩn”. Những chất đó là lượng của những chất rắn khác nhau được cân chính xác
hoặc là những thể tích của các dung dịch chuẩn độ được đo chính xác cần thiết để
pha 1 lít dung dịch 0,1N, đều được bỏ vào một ống thủy tinh nhỏ đã hàn kín (gọi là
fixanan). Tiến hành pha chế dung dịch chuẩn độ bằng “chất tiêu chuẩn” như sau:
Đục thủng lỗ thủy tinh, cho dần lượng chất hoặc lượng dung dịch trong ống đó vào
bình định mức 1 lít rồi hịa tan và pha lỗng dung dịch thu được bằng nước cất đến
vạch ngấn.
Pha chế dung dịch từ dung dịch có nồng độ khác
Pha lỗng dung dịch
Pha loãng dung dịch là thêm nước vào để dung dịch có nồng độ nhỏ hơn. Gọi
C1, C2 và V1, V2 là nồng độ và thể tích dung dịch trước và sau khi pha lỗng, vì
lượng chất tan khơng đổi nên C1V1 = C2V2. Nếu Vn là thể tích nước dùng pha lỗng
thì V2 = V1 + Vn và biểu thức trên có dạng:
C1V1 = (V1 + Vn)C2
Pha trộn dung dịch
Giả sử trộn V1 ml dung dịch có nồng độ C1 với V2 ml dung dịch chất đó có
nồng độ C2 thu được V = (V1 + V2) ml dung dịch chất đó có nồng độ C, và biểu
thức trên có dạng:
C1V1 + C2V2 = CV
24


2.3. Xác định nồng độ dung dịch
2.3.1. Xác định nồng độ dung dịch bằng phù kế
Tỷ khối của dung dịch thay đổi theo nồng độ, nếu biết nồng độ của dung dịch
có thể suy ra tỷ khối và ngược lại, dựa vào bảng tỷ khối có sẵn.

Tỷ khối thường được xác định bằng phù kế. Phù kế là dụng cụ riêng để đo
nhanh tỷ khối của chất lỏng, là một phao rỗng bằng thủy tinh. Phần trên có bảng
chia độ tương ứng với các giá trị của tỷ khối đã được hiệu chỉnh ở nhiệt độ xác định
có ghi trong bảng, phần dưới là bầu chứa đầy hạt chì giữ cho phù kế ở vị trí thẳng
đứng khi nhúng vào dung dịch.
Thường phù kế được dùng để đo tỷ khối trong khoảng 0.2 – 0.4 đơn vị. Ví dụ.
có phù kế chia độ từ 1.000 – 1.200 hoặc 1.400; từ 1.400 – 1.600…nên thường dùng
một bộ gồm nhiều phù kế khác nhau để đo tỷ lệ trong một khoảng rộng.
Cách xác định nồng độ dung dịch bằng phù kế:
Đổ chất lỏng nghiên cứu vào bình có dạng như ống đo nhưng
khơng chia độ, có thể tích phù hợp và đã làm khơ. Mức chất lỏng
phải thấp hơn miệng bình. Thả phù kế sạch và khô vào chất lỏng.
Phù kế phải ở giữa bình khơng được chạm vào thành bình. Để mắt
trên cùng một mặt phẳng với mức chất lỏng, đọc giá trị tỷ khối theo
vạch của thang chia độ khớp với bề mặt chất lỏng. Biết được tỷ khối
tra bảng sẽ có nồng độ của dung dịch. Trong trường hợp giá trị tỷ
khối tìm được từ thực nghiệm khơng có trong bảng thì tính nồng độ
theo phép nội suy. Trước khi đo, có thể đưa chất lỏng về nhiệt độ
xác định bằng cách để chúng vào bình điều nhiệt. Khi đo xong, bỏ
phù kế ra, rửa sạch, lau khô, đặt vào hộp, cất vào nơi quy định.

Xác định nồng độ
dung dịch bằng
phù kế: 1. Phù kế,
2. Ống đo

2.3.2. Xác định nồng độ dung dịch bằng phương pháp chuẩn độ
Chuẩn độ là phương pháp xác định nồng độ chưa biết của một dung dịch theo
nồng độ đã biết của một dung dịch khác bằng cách đo thể tích của các dung dịch
tương tác.

Vì các chất phản ứng với nhau theo đương lượng nên nồng độ của các dung
dịch trong phép chuẩn độ thường dùng là nồng độ đương lượng.
A + B

→ C + D

Định luật đương lượng phát biểu như sau: nếu 2 chất tác dụng với nhau vừa đủ
thì số đương lượng tương ứng của 2 chất là bằng nhau.
Số đương lượng chất A = Số đương lượng chất B
hay NA.VA = NB.VB
25


×