Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Áp dụng pháp luật tố cáo và giải quyết tố cáo thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.99 KB, 19 trang )

Áp dụng pháp luật tố cáo và giải
quyết tố cáo: Thực trạng và
hướng hoàn thiện


Lãnh đạo TP.HCM trong một lần đối thoại với người dân về đền
bù đất đai. Ảnh: ST

Dự án Luật Tố cáo đã được đưa vào Chương trình chính thức
thuộc Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2010 của
Quốc hội (Nghị quyết số 31/2009/QH12 ngày 17/6/2009).

Dự án Luật Tố cáo đã được đưa vào Chương trình chính thức
thuộc Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2010 của
Quốc hội (Nghị quyết số 31/2009/QH12 ngày 17/6/2009). Đây là
văn bản trụ cột của hệ thống pháp luật tố cáo và giải quyết tố cáo.
Tuy nhiên, việc triển khai Dự án này cũng gặp nhiều vấn đề
vướng mắc liên quan đến định hướng cần quy định trong Luật Tố
cáo. Trên cơ sở khái quát thực trạng thi hành pháp luật tố cáo và
giải quyết tố cáo, bài viết đề xuất một số phương hướng và nội
dung cơ bản để tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố cáo và giải quyết
tố cáo, trong đó có việc triển khai Dự án Luật Tố cáo.
1. Khái quát thực trạng thi hành pháp luật tố cáo và giải
quyết tố cáo
Từ 1/1/1999, Luật Khiếu nại, tố cáo có hiệu lực (1). Sau gần 10
năm thực hiện, Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã đóng vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
khuyến khích người dân tích cực tham gia phát hiện các hành vi
vi phạm pháp luật, tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước
trong giải quyết tố cáo (2). Tuy nhiên, tình hình tố cáo diễn biến



hết sức phức tạp. Số lượng các vụ việc tố cáo qua các năm vẫn
còn nhiều (3). Tình hình tố cáo gay gắt, phức tạp thường xảy ra
tại các thời điểm trước bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân, đại hội Đảng hoặc liên quan đến việc bổ nhiệm
cán bộ cấp cơ sở. ở một số địa phương xảy ra những vụ khiếu nại,
tố cáo đông người, diễn ra trên địa bàn nhiều xã rất phức tạp, kéo
dài. Nội dung tố cáo chủ yếu là về một số cán bộ đảng viên lợi
dụng chức vụ quyền hạn để tham ô, nhận hối lộ, cố ý làm trái
chính sách pháp luật trong quá trình quản lý, sử dụng đất đai;
trong sản xuất kinh doanh và cả trong quá trình xem xét, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp tay cho buôn lậu, làm ăn phi pháp;
bao che, không xử lý vi phạm của cấp dưới; ngoài ra là các tố cáo
về mất dân chủ, không công bằng trong thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là trong công
tác cán bộ, về lối sống sa đọa, tham nhũng của một số cán bộ,
đảng viên sa sút phẩm chất đạo đức.
Trong những năm vừa qua, Chính phủ đã tăng cường hướng dẫn
đôn đốc, chỉ đạo công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo;
đã ban hành nhiều nghị định, chỉ thị và nhiều công điện về vấn đề
này. Lãnh đạo một số bộ, ngành và địa phương đã quan tâm hơn
đến công tác giải quyết tố cáo. Nhìn chung, các bộ, ngành, địa
phương đã quan tâm triển khai và thu được nhiều kết quả đáng
ghi nhận. Nhiều đơn vị triển khai thực hiện có hiệu quả; một số
tỉnh tập trung rà soát và xem xét, giải quyết được các vụ việc tồn
đọng thuộc thẩm quyền của địa phương. Các bộ, ngành trung


ương và tỉnh, thành phố đề ra các biện pháp cụ thể chấn chỉnh
nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố

cáo.
Trong 10 năm qua (từ 1999 đến 2008), các cơ quan hành chính có
thẩm quyền đã thụ lý 129.321 vụ việc tố cáo và đã giải quyết
được 95.971 vụ việc (đạt tỷ lệ 74,21%)(4). Bên cạnh kết quả đạt
được, thì một số vụ việc tố cáo chưa được giải quyết đúng pháp
luật, vi phạm quyền và lợi ích của công dân, tổ chức. Việc xử lý
không nghiêm túc, có trường hợp bao che người bị tố cáo. Nhiều
tố cáo không được giải quyết đúng thời hạn quy định của pháp
luật làm cho vụ tố cáo bị kéo dài. Công tác thanh tra, kiểm tra
trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc thực
hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo ở nhiều nơi chưa được quan tâm
đúng mức. Việc xử lý đơn tố cáo nặc danh, mạo danh ở các địa
phương còn khác nhau, còn nhầm lẫn giữa đơn tố cáo và đơn
khiếu nại. Việc tiếp nhận, giải quyết đơn tố cáo chưa phản ánh
đúng tình hình vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức. Khi xử
lý còn nể nang, thiếu kiên quyết, nặng về xử lý nội bộ, xử lý
không nghiêm, không công bằng, làm giảm lòng tin của vào cơ
quan nhà nước và tính nghiêm minh của pháp luật.
2. Một số bất cập của quy định pháp luật về tố cáo và giải
quyết tố cáo
2.1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo
Nguyên tắc và thẩm quyền giải quyết tố cáo đã được quy định cụ
thể trong Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định số 136/2006/NĐ-


CP(5). Điều 61 Luật Khiếu nại, tố cáo đã quy định trách nhiệm
giải quyết tố cáo thuộc về người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Điều
34, 35 Nghị định số 136/2006/NĐ-CP quy định rất rõ về trách
nhiệm giải quyết tố cáo thuộc về thủ trưởng của cơ quan nhà
nước cũng như quy định về cơ quan chuyên trách giúp thủ trưởng

cơ quan nhà nước trong việc thẩm tra, xác minh. Trên thực tế, các
hành vi bị tố cáo rất đa dạng có tính chất và mức độ nguy hiểm
khác nhau nên việc giải quyết các tố cáo thuộc thẩm quyền của
nhiều loại cơ quan, tố chức. Tuy nhiên, Luật Khiếu nại, tố cáo
chưa quy định cụ thể trách nhiệm giải quyết của các cơ quan
hành chính đối với các hành vi vi phạm xảy ra trong lĩnh vực với
từng loại đối tượng như chưa quy định thẩm quyền giải quyết tố
cáo đối với hành vi vi phạm hành chính của các tổ chức, cá nhân
chưa đến mức xử lý hình sự (việc giải quyết tố cáo này đã được
quy định và đang được thực hiện như trong Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như
một số văn bản pháp luật quản lý trong các lĩnh vực); thẩm quyền
giải quyết tố cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng được quy định
trong Bộ Luật Tố tụng hình sự, tuy nhiên đối với hành vi vi phạm
pháp luật của cán bộ, công chức, những chức danh tư pháp trong
thực hiện nhiệm vụ, công vụ ngoài hoạt động tố tụng cũng như
một số cơ quan tuy là cơ quan hành chính nhưng tham gia một số
hoạt động tố tụng như Hải quan, Kiểm lâm... thì việc giải quyết tố
cáo cũng cần phải được quy định thực hiện trên cơ sở của Luật
khiếu nại, tố cáo; các tố cáo đối với cán bộ, công chức ở các cơ


quan nhà nước như Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc
hội cũng chưa được quy định trong Luật khiếu nại, tố cáo làm cơ
sở cho việc giải quyết; chưa quy định thẩm quyền giải quyết tố
cáo trong tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế; chưa quy định mối quan hệ phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan nhà nước với tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội trong việc xử lý các đối tượng thuộc
quyền quản lý của mình cũng như trách nhiệm của thanh tra các

cấp, các ngành trong việc giúp thủ trưởng cùng cấp giải quyết tố
cáo; gây khó khăn trong việc tiếp nhận và xử lý tố cáo. Vì vậy,
trong quá trình thực hiện đã xuất hiện tình trạng trùng lặp về
thẩm quyền, không xác định được cơ quan nào có thẩm quyền
giải quyết đối với đối tượng nhất định khi thực hiện một loại
hành vi vi phạm cũng như hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm giải
quyết đối với những vụ tố cáo có tính chất phức tạp, nhạy cảm.
Đồng thời, theo quy định hiện hành thì không có điểm dừng trong
tiếp nhận và xử lý tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.2. Thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo
Luật Khiếu nại, tố cáo chỉ quy định các trình tự, thủ tục về phía
cơ quan có trách nhiệm giải quyết tố cáo (6), chưa quy định thủ
tục cho công dân khi họ thực hiện quyền tố cáo, do vậy làm hạn
chế việc tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật.
Một vấn đề luôn được đặt ra trong nhiều cuộc hội thảo khoa học
liên quan đến khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng là tại sao
pháp luật đã quy định không giải quyết đối với tố cáo không rõ


họ tên, địa chỉ người tố cáo (7), song thực tế thì số lượng đơn tố
cáo loại này vẫn chiếm số lượng lớn. Nhiều vụ việc tố cáo không
rõ họ tên, địa chỉ, bút tích người tố cáo nhưng mang nội dung rõ
ràng, có cơ sở để xác minh thì vẫn được một số cơ quan xem xét,
giải quyết, ở một số nước lại không xem xét vì lý do thực hiện
đúng quy định pháp luật. Thực tiễn trên gây ra sự thiếu thống
nhất trong hoạt động áp dụng pháp luật.Việc người tố cáo không
nêu rõ thông tin thật về họ tên, địa chỉ thường thể hiện dưới hai
dạng chủ yếu là không đề tên, địa chỉ hoặc mạo tên, mạo danh,
mạo địa chỉ của người khác để thực hiện việc tố cáo. Đây là vấn
đề phức tạp và ít nhiều đã gây khó khăn cho việc giải quyết tố

cáo của các cơ quan nhà nước hữu trách. Như vậy, tố cáo không
rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo về bản chất vẫn là tố cáo theo định
nghĩa trong pháp luật, song so với khái niệm tố cáo nêu trên thì
người tố cáo đã không tuân thủ triệt để các quy định pháp luật khi
thực hiện hành vi này. Với quy định không xem xét, giải quyết
những tố cáo giấu tên, không rõ địa chỉ thì vô hình trung, chúng
đã hạn chế vai trò của công dân trong việc phát hiện những hành
vi vi phạm pháp luật và như vậy cũng có nghĩa là các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sẽ bỏ sót, không phát hiện và xử lý kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật. Xuất phát từ việc bảo vệ lợi
ích Nhà nước, tập thể và công dân, cho nên trên thực tế nhiều tố
cáo không ghi rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Chúng ta thường thấy
trường hợp này xảy ra đối với việc tố cáo về những hành vi nguy


hiểm cho xã hội và có dấu hiệu tội phạm hoặc những vụ việc có
nội dung rõ ràng và người tố cáo đã cung cấp những thông tin rất
cụ thể và xác thực. Thực tế hiện nay, tố cáo nặc danh nhưng có
sự việc thật như tố cáo chiếm tỷ lệ lớn, nhưng do nhiều nguyên
nhân, người tố cáo không muốn nêu rõ tên, địa chỉ của mình, đặc
biệt là những trường hợp người bị tố cáo là người có chức vụ,
quyền hạn, có thế lực khác trong xã hội, do vậy, họ sợ bị trù dập,
trả thù, mặc dù đã có quy định về bảo vệ người tố cáo nhưng hiệu
lực thực tế của quy định này cũng là vấn đề mà chúng ta cần phải
suy nghĩ. Đối với thư nặc danh, mạo danh cần tránh 2 khuynh
hướng: quá tin vào nội dung tố cáo, bị áp lực của tố cáo, sức ép
của dư luận chi phối làm mất tính khách quan, nảy sinh định kiến
hoặc khi nhận thấy một số nội dung tố cáo đã chuyển sang dấu
hiệu vu cáo, lại vội vàng bác bỏ toàn bộ nội dung đơn thư mà

không bình tĩnh suy xét, sàng lọc, thẩm định.
Các nhà làm luật khi quy định về việc không xem xét giải quyết
những tố cáo nặc danh, mạo danh này xuất phát từ quan điểm cho
rằng việc giải quyết đối với tố cáo đó gặp nhiều khó khăn cho
quá trình thẩm tra, xác minh, khó khăn trong việc xử lý người cố
tình tố cáo sai sự thật. Tuy nhiên, về mặt khoa học thì đây là điều
mà chúng ta cần phải bàn luận. Khoản 1 Điều 43 Nghị định số
67/1999/NĐ-CP ngày 7/8/1999 (đã hết hiệu lực) đã quy định
"Nếu đơn tố cáo không ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo nhưng
nội dung rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác
minh thì Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định


việc xem xét, xử lý đơn tố cáo đó". Quy định này đã loại trừ được
những trường hợp tố cáo tràn lan, không có căn cứ, đồng thời
không bỏ sót những vụ việc đã có chứng cứ rõ ràng, cần phải xử
lý. Tuy nhiên, pháp luật về tố cáo hiện hành đã lược bỏ quy định
này và quy định không xem xét, giải quyết những tố cáo giấu tên,
mạo tên, không rõ địa chỉ. Theo tôi, việc quy định này là chưa
hợp lý bởi lẽ việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật trước hết thuộc về nhà nước. Hơn nữa, các cơ quan có thẩm
quyền với vị trí và quyền hạn của mình cùng với khả năng sử
dụng các phương tiện hỗ trợ khác thì sẽ thuận lợi trong việc xác
minh vụ việc. Việc quy định không giải quyết tố cáo không rõ họ
tên, địa chỉ thì không đạt được mục đích lớn nhất của việc giải
quyết tố cáo là xác minh sự việc và xử lý người có hành vi vi
phạm pháp luật (nếu có). Nhà nước hoàn toàn có thể hạn chế
những trường hợp cố tình tố cáo sai sự thật như quy định ở Nghị
định số 67/1999/NĐ-CP. Để giải quyết vướng mắc này, đảm bảo
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo thì pháp

luật cần phải xác định cụ thể những trường hợp tố cáo không rõ
họ tên, địa chỉ nào không được xem xét, giải quyết và những
trường hợp nào cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tiếp nhận
giải quyết. Ngoài ra, pháp luật cũng cần có những quy định nhằm
trao cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo quyền lựa chọn,
quyết định thụ lý vụ việc - theo nguyên tắc "không có lợi không
làm" - tức là việc quyết định thụ lý giải quyết tố cáo nặc danh cần
xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi ích công và yêu cầu phòng chống


các hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp luật hiện hành cũng chưa quy định về hình thức văn bản ghi
nhận việc thụ lý tố cáo (pháp luật chỉ quy định phải thụ lý) và các
điều kiện thụ lý tố cáo, cũng như thời hiệu tố cáo. Thực tiễn áp
dụng pháp luật, có cơ quan sử dụng hình thức văn bản là thông
báo về việc thụ lý tố cáo hoặc là quyết định về việc thụ lý tố cáo,
có nơi lại áp dụng quyết định thẩm tra, xác minh để thông báo về
việc thụ lý tố cáo. Điều này gây khó khăn cho công tác xác minh,
kết luận và xử lý trách nhiệm sau này. Thực tế có nhiều tố cáo về
hành vi vi phạm pháp luật đã diễn ra từ lâu, không còn tính nguy
hiểm cho xã hội nhưng cơ quan nhà nước vẫn thụ lý và xem xét,
giải quyết. Điều này gây tốn kém, lãng phí trong quá trình giải
quyết tố cáo, vì pháp luật hiện hành không quy định về thời hiệu
tố cáo trong lĩnh vực hành chính.
Việc xác minh, kết luận nội dung tố cáo rất quan trọng, có ảnh
hưởng quyết định đến hiệu quả của công tác giải quyết tố cáo
từng vụ việc. Luật Khiếu nại, tố cáo đã quy định về thẩm quyền
cho Chánh thanh tra các cấp, Tổng thanh tra trong việc xác minh,
kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo (8).
Tuy nhiên, các thủ tục của việc xác minh, kết luận không được

quy định, do vậy, trên thực tế cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết thực hiện rất khác nhau, làm giảm hiệu quả việc giải
quyết tố cáo. Hơn nữa, nhiều kết luận, kiến nghị của cơ quan
Thanh tra nhà nước không được thủ trưởng các Cơ quan quản lý
xem xét, xử lý nghiêm minh.


Việc xử lý tố cáo là việc quan trọng trong quá trình giải quyết tố
cáo. Tuy nhiên Luật Khiếu nại, tố cáo lại không quy định về vấn
đề này mà Điều 44 Nghị định số 136/2006/NĐ-CP có quy định
về việc xử lý tố cáo. Đối với quyết định xử lý tố cáo thì chưa quy
định về việc công khai quyết định xử lý tố cáo, do đó chưa đáp
ứng được những thay đổi của các văn bản pháp luật có liên quan,
nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng.
2.3. Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người
giải quyết tố cáo
Luật Khiếu nại, tố cáo đã có quy định về quyền, nghĩa vụ của
người tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết tố cáo (9), song
nhìn chung chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong quá
trình thực hiện quyền tố cáo; Theo Luật Khiếu nại, tố cáo thì
công dân có thể tố cáo bằng hình thức gửi đơn hoặc trực tiếp tố
cáo với cơ quan, tố chức, cá nhân có thẩm quyền (10). Như vậy,
pháp luật hiện hành chưa quy định việc tiếp nhận tố cáo thông
qua điện thoại, thư điện tử vì vậy bỏ lọt nhiều thông tin có giá trị
của người dân về việc phát giác các hành vi vi phạm. Kinh
nghiệm của một số nước đã quy định cụ thể các hình thức tố cáo
nhằm tạo thuận lợi cho người dân báo cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cũng như
tham nhũng nói riêng, góp phần tăng hiệu quả công tác đấu tranh
chống các hành vi vi phạm pháp luật; chưa quy định người tố cáo

được nhận thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm
quyền giải quyết; được tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc


giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
không đúng pháp luật hoặc quá thời gian quy định mà tố cáo
không được giải quyết; được trích thưởng (nếu có) v.v.. Luật
Khiếu nại, tố cáo quy định về việc người tố cáo phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật, chứ* chưa xác
định rõ trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi tố
cáo sai sự thật của mình gây ra. Năm 2008, đã phân tích 3278
đơn tố cáo thì có 1206 đơn tố cáo có đúng có sai và 1407 đơn tố
cáo sai (42,8%). Qua đó, khá nhiều đơn tố cáo còn chưa chính
xác. Cá nhân hoặc đơn vị nếu bị tố cáo sai, ở mức độ nhẹ thì chưa
có thiệt hại, nhưng nếu gây ra những hậu quả nghiêm trọng thì rõ
ràng cần phải có hình thức xử lý người tố cáo. Do vậy, pháp luật
tố cáo cần phải quy định cụ thể trách nhiệm pháp luật của người
tố cáo sai sự thật. ở mức độ nhẹ thì xử lý hành chính, nghiêm
trọng hơn là truy tố trước pháp luật (Tội vu khống theo Điều 122
Bộ Luật hình sự). Đây là việc làm cần thiết của các cơ quan chức
năng, góp phần giữ gìn trật tự chung của xã hội.
Quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo được quy định
trước đây đến nay chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, yêu cầu phòng, chống các vi phạm pháp luật. Tương tự như
vậy, đối với người giải quyết tố cáo, Luật Khiếu nại, tố cáo cũng
chưa quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người giải quyết
tố cáo, người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho người giải quyết tố cáo, người được
giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo, kết luận vụ việc tố cáo;



chưa quy định về kết luận nội dung tố cáo.
2.4. Các biện pháp bảo vệ người tố cáo
Luật Khiếu nại, tố cáo chưa có cơ chế bảo vệ người tố cáo khi họ
bị đe dọa, trả thù, trù dập hoặc bị phân biệt đối xử; chưa có quy
định về việc khen thưởng vật chất đối với người có công tố cáo
và giải quyết tố cáo v.v.. mới chỉ ghi nhận một số nguyên tắc bảo
vệ người tố cáo, xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc bảo vệ tính mạng, danh dự, sức khoẻ cho
người tố cáo; thiếu cơ chế tổ chức thực hiện, do vậy làm ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền tố cáo của công dân. Nhiều
người không dám tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền vì
sợ bị trả thù, trù dập, một số khác thì tố cáo giấu tên, giấu địa chỉ
của mình. Mặt khác, cũng có những trường hợp người tố cáo bị
trả thù, trù dập mà người vi phạm không bị xử lý. Bên cạnh đó,
các quy định của Luật khiếu nại, tố cáo về bảo vệ người tố cáo
nằm rải rác trong các điều luật khác nhau (Điều 16, 57, 96), chỉ
mang tính nguyên tắc, chưa có biện pháp chế tài bảo đảm thực
hiện; chỉ quy định quyền của người tố cáo được yêu cầu cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập
nhưng chưa xác định cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo
và chưa quy định rõ biện pháp xử lý khi cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước không thực hiện các biện
pháp bảo vệ người tố cáo, chưa quy định nội dung bảo vệ người
tố cáo; trình tự, thủ tục tiến hành bảo vệ người tố cáo như thế nào
và việc bảo vệ đó được bảo đảm bằng các biện pháp gì, trách


nhiệm của người tiết lộ bí mật liên quan đến người tố cáo... là
những nội dung mà pháp luật về tố cáo còn bỏ ngỏ. Tình trạng đó

đã và đang làm cản trở việc tố cáo và giải quyết tố cáo hiện nay.
Ngoài những bất cập trên thì thực tế công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo, nhiều đơn thư vừa chứa nội dung khiếu nại, vừa chứa
nội dung tố cáo gây khó khăn cho quá trình tiếp nhận, xử lý đơn
thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều trường hợp phát sinh
tranh chấp về thẩm quyền giải quyết, kéo dài thời gian giải quyết
vụ việc. Một phần nguyên nhân là do pháp luật hiện hành quy
định khiếu nại và giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết tố cáo
trong cùng một đạo luật.
3. Hướng hoàn thiện pháp luật tố cáo và giải quyết tố cáo
Một là, rà soát các quy định của pháp luật hiện hành về tố cáo và
giải quyết tố cáo. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực
hiện quyền tố cáo, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan hành chính
nhà nước trong việc giải quyết có hiệu quả các tố cáo hành chính,
thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về
tố cáo và giải quyết tố cáo. Hệ thống các quy định pháp luật này
đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết có hiệu quả các tố cáo
hành chính phát sinh trong thực tế. Mặc dù vậy, quá trình thực
hiện cho thấy các quy định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố
cáo ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Để khắc phục kịp
thời các hạn chế này cần phải tiến hành việc rà soát các quy định
pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo để phát hiện các vướng
mắc, sơ hở đang tồn tại trong pháp luật; kịp thời phát hiện để loại


bỏ những quy định đã không còn hiệu lực, hoặc không còn phù
hợp với thực tiễn; sửa chữa, bổ sung các quy định cho rõ; hạn chế
tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản.
Hai là, tổng kết thực tiễn việc thực hiện pháp luật về tố cáo và
giải quyết tố cáo. Để phát huy vai trò của pháp luật, bảo đảm các

quy định pháp luật phù hợp với yêu cầu thực tế thì phải tiến hành
tổng kết, đánh giá việc áp dụng các quy định pháp luật trong đời
sống kinh tế - xã hội. Việc tổng kết phải chỉ ra được các ưu điểm,
nhược điểm trong các quy định pháp luật, nhất là các quy định về
trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết tố cáo; trình tự, thủ tục tố cáo
và giải quyết tố cáo... Việc tổng kết cần tập trung làm rõ công tác
chỉ đạo điều hành hoạt động giải quyết tố cáo của các cơ quan
hành chính, từ việc xây dựng, ban hành các văn bản cho đến việc
kiểm tra, đôn đốc cấp dưới thực hiện, đồng thời làm rõ kết quả,
các ưu, nhược điểm trong giải quyết các tố cáo cụ thể. Song song
với việc tổng kết phải tiến hành việc khảo sát thực tế hoạt động
giải quyết tố cáo tại các địa phương, bộ ngành để nắm bắt trình
độ, nhận thức của nhân dân về pháp luật về tố cáo và giải quyết
tố cáo. Những quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo cần phải
được nghiên cứu, xây dựng từ những căn cứ đánh giá đúng yêu
cầu thực sự của thực tiễn trên các phương diện.
Ba là, hoàn thiện quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành
chính thông qua ban hành Luật Tố cáo. Việc hoàn thiện pháp luật
về tố cáo và giải quyết tố cáo hành chính phải bảo đảm tính toàn
diện, đồng bộ, phù hợp, đơn giản, cụ thể và dễ thực hiện. Luật Tố


cáo cần phải đưa ra những nội dung điều chỉnh những vấn đề
đang có vướng mắc trong thực tiễn, cụ thể như:
- Về thẩm quyền giải quyết tố cáo theo hướng quy định theo đối
tượng có hành vi vi phạm, từ đó xác định người có thẩm quyền
giải quyết là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước lĩnh vực cụ
thể hay người đứng đầu cơ quan quản lý đối tượng có hành vi vi
phạm có thẩm quyền giải quyết. Bên cạnh đó, Luật Tố cáo cũng
nên quy định cấp giải quyết tố cáo để tránh tình trạng tố cáo tràn

lan, vượt cấp.
- Cần đa dạng hoá các hình thức tiếp nhận tố cáo cho phù hợp với
tình hình thực tiễn công tác giải quyết tố cáo và sự phát triển của
khoa học công nghệ và cần có quy định chặt chẽ về việc tố cáo
qua điện thoại, qua mạng và thủ tục xử lý đối với loại tố cáo này.
Mặt khác, Luật Tố cáo cũng nên ghi nhận quyền được tố cáo
không cần nêu rõ họ, tên, địa chỉ của người tố cáo để khuyến
khích, động viên, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân nêu
cao ý thức pháp luật, ý thức xây dựng, đấu tranh chống tiêu cực,
tham nhũng. Tuy nhiên phải quy định cụ thể những trường hợp tố
cáo nặc danh nhưng nội dung đơn tố cáo rõ ràng, người tố cáo
cung cấp được chứng cứ xác thực, có cơ sở xác minh thì đủ điều
kiện để thụ lý giải quyết.
- Luật Tố cáo cũng cần phải quy định thời hiệu tố cáo về hành vi
vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ để có sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật
(pháp luật hình sự quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm


hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng có quy định về
thời hiệu xử lý vi phạm hành chính). Thời hiệu tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ có
thể quy định là không quá 5 năm kể từ ngày hành vi vi phạm
pháp luật được phát hiện. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
không xem xét đối với tố cáo đã hết thời hiệu tố cáo.
- Việc giải quyết tố cáo tiếp hiện nay rất nan giải. Vì vậy, nên
quy định rõ hơn về vấn đề này, pháp luật cần quy định đối với
trường hợp người tố cáo cho rằng việc giải quyết tố cáo trước đó
không đúng pháp luật, thiếu khách quan hoặc quá thời hạn quy
định mà không giải quyết thì họ có quyền tố cáo tiếp đến lần thứ

hai, nếu không có chứng cứ mới thì không xem xét, giải quyết.
- Cần làm rõ nguyên tắc bảo vệ cho người tố cáo, trong đó xác
định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm cho người tố
cáo. Đồng thời, quy định cụ thể cơ chế tổ chức thực hiện, biện
pháp chế tài xử lý.
- Đa dạng hoá hình thức công khai, mở rộng hình thức công khai
như niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ
quan đã có kết luận vụ việc tố cáo, quyết định xử lý tố cáo; thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức công bố công
khai.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, thì cũng cần phải hoàn thiện quy
định pháp luật về quản lý công tác giải quyết tố cáo; giám sát
công tác giải quyết tố cáo để nâng cao chất lượng giải quyết các


vụ việc tố cáo, nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội, đoàn thể và các cơ quan đại diện.
Bốn là, nâng cao chất lượng, trình độ xây dựng pháp luật về tố
cáo và giải quyết tố cáo. Để nâng cao chất lượng văn bản pháp
luật thì cần phải đổi mới công tác xây dựng văn bản, trong đó các
cơ quan nhà nước khi soạn thảo các văn bản có quy định về tố
cáo và giải quyết tố cáo phải chú trọng tăng cường tính công
khai, minh bạch, dân chủ trong quá trình xây dựng. Triệt để tuân
thủ các nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật đã được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2008; chú trọng vai trò chuyên gia, các nhà khoa
học trong việc xây dựng Luật Tố cáo. Nâng cao năng lực của các
chuyên gia và các chuyên viên soạn thảo văn bản. Đẩy mạnh
công tác phối hợp với các Bộ, ngành để bảo đảm tính đồng bộ,

nhất quán. Mở rộng sự tham gia đông đảo của xã hội, nhất là các
cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn, các
đối tượng bị điều chỉnh để Luật Tố cáo sát với thực tế, bảo đảm
tính khả thi, hiệu quả.
Năm là, nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm với các nước về giải
quyết tố cáo hành chính. Chúng ta cần phải tổ chức khảo sát pháp
luật về tố cáo và giải quyết tố cáo hành chính của các nước, đồng
thời tham khảo ý kiến của các chuyên gia nước ngoài về giải
quyết tố cáo hành chính trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các
quy định pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo ở Việt Nam
nhằm góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đảng và Nhà


nước ta đã đề ra trong quá trình hội nhập quốc tế.
(1) Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2004, 2005. Tuy nhiên, các quy định về tố cáo và giải quyết
tố cáo không có thay đổi.
(2) Tố cáo nói ở đây là Tố cáo trong lĩnh vực hành chính.
(3) Theo Báo cáo tổng kết ngành Thanh tra, năm 1999 có 16.216
vụ tố cáo; năm 2000 có 25.132 vụ; năm 2001 có 13.385 vụ; năm
2002 có 12.128 vụ; năm 2003 có 11.496 vụ; năm 2004 có 11.153
vụ; năm 2005 có 8.841 vụ; năm 2006 có 11.798 vụ; năm 2007 có
9.860 vụ; năm 2008 có 9.312 vô.
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 155-thang-102009 ngày 10/10/2009) Hồ Thị Thu An - Thanh tra viên Vụ Pháp
chế, Thanh tra Chính phủ.



×