Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Chuyên đề quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội TS hoàng văn long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.36 KB, 50 trang )

Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Phần 1.
BẢN CHẤT CỦA QUY HOẠCH TỔNG THỀ PHÁT KINH TỀ - XÃ HỘI
1. Khái luận về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
Quy hoạch là việc lựa chọn phương án phát triển và tổ chức không gian các đối tượng
kinh tế - xã hội và môi trường cho thời kỳ dài hạn trên lãnh thổ xác định, có tính tới các điều
kiện của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ở Việt Nam, khái niệm quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đã được sử dụng
rộng rãi và thống nhất trong lĩnh vực kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Thực tế cho thấy ở
nước ta khái niệm quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng (gọi tắt là Quy hoạch
vùng) rất gần với khái niệm tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội ở các nước phương Tây.
Trên thế giới các nước sử dựng những thuật ngữ “tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội”
không giống nhau.
- Các nhà khoa học thuộc Liên Xô trước đây cho rằng: Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã
hội được thực hiện trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác nhau, phổ biến là trên các
vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chính tỉnh. Họ coi tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội
là sự sắp xếp, phân bố và phối hợp các đối tượng gây ảnh hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại
giữa các hệ thống dân cư, nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị
trí kinh tế - xã hội để đạt hiệu quả kinh tế cao và nâng cao mức sống dân cư của lãnh thổ đó.
Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội được xem như việc tổ chức sự phối hợp giữa các
ngành sản xuất, các quá trình và các cơ sở sản xuất trong một phạm vi lãnh thổ nhất định.
- Các nhà khoa học của các quốc gia phát triển ở phương Tây theo hướng kinh tế thị
trường lại sử dụng phổ biến thuật ngữ “Tổ chức không gian kinh tế - xã hội”, tổ chức không
gian ra đời từ cuối thế kỷ XIX và đã trở thành một khoa học kinh tế lãnh thổ. Họ cho rằng: tổ
chức không gian được xem như là lựa chọn nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn
và có hiệu quả (theo Jean Pean, Paul De Gaudemar năm 1992). Nhiệm vụ chủ yếu của tổ
chức không gian là tìm kiếm một tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển kinh tế - xã hội giữa
các ngành trong một vùng, giữa các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng hoặc giữa các
vùng trong một quốc gia và trên mức độ nhất định có xét đến mối liên kết giữa các quốc gia


với nhau; tạo ra một giá trị mới nhờ có sự sắp xếp theo trật tự và hài hoà giữa các đơn vị lãnh
thổ khác nhau trong cùng một vùng đó. Nói một cách khái quát hoá “tổ chức không gian kinh
tế - xã hội” là sự tìm kiếm trong khung cảnh địa lý quốc gia, sự phân bố tốt nhất các hoạt
động kinh tế - xã hội của con người. Tổ chức không gian kinh tế - xã hội là nội dung cụ thể
của một chính sách kinh tế phát triển theo lãnh thổ dài hạn nhằm cải thiện môi trường trong
đó diễn ra cuộc sống và các hoạt động của con người. Tổ chức không gian kinh tế - xã hội ở
góc độ địa lý học xem như là một hành động hướng tới sự công bằng về mặt không gian ảnh
hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân đối giữa khu vực nông thôn và khu
vực thành thị, bảo vệ môi trường sống.
Từ các quan niệm nêu trên có thể hiểu tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là sự “sắp
xếp” và phối hợp các đối tượng trong mối liên hệ đa ngành, đa lĩnh vực và đa lãnh thổ trong
một vùng cụ thể nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lý
kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất kỹ thuật đã và sẽ được tạo dựng để đem lại hiệu quả kinh tế
- xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo sự phát triển bền vững của vùng đó.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Như vậy, tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là việc sắp xếp các đối tượng (các xí
nghiệp, công trình, các ngành, lĩnh vực, các điểm dân cư và kết cấu hạ tầng...). Việc tổ chức
được tiến hành trên một lãnh thổ xác định theo yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Chủ
thể tổ chức cũng là chủ thể quản lý phát triển vùng, đó là những cơ quan Nhà nước được quy
định trong Hiến pháp và luật pháp hiện hành của quốc gia.
Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội có 3 đặc tính cơ bản. Đó là: tính kết cấu hệ thống;
tính lãnh thổ và tính đa phương án.
Tính kết cấu hệ thống: Tổ chức là sắp xếp các đối tượng đa dạng, luôn luôn vận động

và phát triển, chúng độc lập tương đối và có tác động qua lại. Hệ thống lãnh thổ có giới hạn,
sức chứa của nó quy định tính chất và trình độ phát triển. Tính kết cấu hệ thống thế hiện ở sự
đa dạng trong việc sắp xếp và định hướng các đối tượng. Tính định hướng thể hiện ở việc làm
cho các phần tử phát triển hài hoà, nhịp nhàng với nhau.
Tính lãnh thổ: Tính lãnh thổ thể hiện ở sự đa dạng không gian. Trong một vùng có
nhiều tiểu vùng với các điều kiện không thật giống nhau làm cho việc phân bố các đối tượng
có sự đa dạng linh hoạt nên tổ chức phải có những xem xét liên lãnh thổ và đề ra một “biên
độ” thay đổi sau đó.
Tính đa phương án: Khi nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội do thiếu thông
tin, thiếu căn cứ cần thiết, đồng thời việc dự báo các nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức lãnh thổ
kinh tế - xã hội trong tương lai cũng bị nhiều giới hạn bởi các nhân tố dự báo đều thay đổi
khó lường, nên khi xây dựng phương hướng tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội cần phải tính
toán nhiều phương án, trong đó có một phương án chủ đạo được lựa chọn để thực hiện.
Các đối tượng của tổ chức lãnh thổ có liên hệ chặt chẽ với nhau theo cả chiều ngang
và chiều dọc, theo cả thời gian và không gian, chúng liên kết chặt chẽ với nhau trong sự vận
động không ngừng trong một hệ thống bao gồm mối liên hệ địa lý, liên hệ kỹ thuật và liên hệ
kinh tế.
Đối với hệ thống kinh tế - xã hội lãnh thổ, cơ cấu kinh tế là thuộc tính quan trọng
nhất. Các ngành liên kết với nhau tạo nên cơ cấu kinh tế ngành quyết định tính chất, trình độ
của hệ thống kinh tế - xã hội lãnh thổ. Trên cơ sở phân công lao động theo ngành, cơ cấu
ngành của hệ thống lãnh thổ kinh tế - xã hội được hình thành và phát triển. Thực chất của tổ
chức lãnh thổ kinh tế - xã hội chính là tìm ra phương án hợp lý nhất về kiến thiết lãnh thổ làm
sao cho trong quá trình phát triển của các ngành, lĩnh vực vận động theo cùng hướng và liên
hệ mật thiết với nhau tạo ra tính chất nhất quán cần thiết mà đó là đòi hỏi của hoạt động kinh
tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao và có được sự phát triển bền vững cho lãnh thổ
và cho cả hệ thống lớn hơn.
Quy hoạch phát triển là bản luận chứng khoa học về kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và tổ chức không gian hợp lý về phát triển kinh tế, xã hội (hay bố trí hợp lý kinh tế, xã
hội) theo lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển bao gồm những nội dung cơ bản:

- Tổng kết quá trình phát triển 10 - 15 năm của thời kỳ trước khi quy hoạch;
- Phân tích, dự báo các yếu tố và nguồn lực phát triển;
- Xác định quan điểm, mục tiêu phát triển:

Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

- Xây dựng các phương án phát triển và tổ chức không gian (bao gồm các chương
trình, dự án ưu tiên);
- Các giải pháp thực hiện.
Quy hoạch phát triển tập trung vào những vấn đề then chốt: quan điểm, mục tiêu và
định hướng phát triển, các giải pháp về cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện; các chương
trình và dự án đầu tư quan trọng.
Mục đích và lợi ích của quy hoạch phát triển là tìm ra phương án, giải pháp khai thác
các tiềm năng, nguồn lực và sử dụng có hiệu quả lãnh thổ nhằm phát triển bền vững. Đối
tượng của quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là các ngành, lĩnh vực, lãnh thổ và toàn bộ
nền kinh tế - xã hội của quốc gia.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội bao gồm các quy hoạch thành phần chủ yếu sau:
Quy hoạch phát triển xã hội: đề ra các phương hướng và các chỉ tiêu phát triển về
tổng dân số, tỷ lệ tăng dân số, phân bố dân cư, tỷ lệ dân đô thị, mật độ dân cư ở nông thôn và
đô thị, mức thu nhập của người dân, diện tích nhà ở trên đầu ngườỉ, tỷ lệ số dân được cấp
nước sạch, trình độ văn hoá và sức khỏe cộng đồng, chỉ tiêu phát triển giáo dục, văn hoá và
các cơ sở phục vụ sức khoẻ.
Quy hoạch sử dụng đất: bố trí, phân chia các khu đất theo các yêu cầu sử dụng khác
nhau (đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất phát triển công nghiệp, đất giao thông, đất ở, đất

chuyên dùng...)
Quy hoạch phát triển đô thị: phân bố và quy mô phát triển các đô thị hình thành mạng
lưới các đô thị trong vùng, xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, phân khu chức năng địa bàn các đô
thị...
Quy hoạch phát triển và sử dụng năng lượng: nhiệt điện, thuỷ điện và các dạng năng
lượng khác.
Quy hoạch sử dụng tài nguyên nước: nguồn nước (chất lượng và lưu lượng), mặt
nước, nước ngầm, lượng nước sử dụng cho dân sinh, cho nông nghiệp, cho năng lượng, công
nghiệp và dùng cho các mục đích khác.
Quy hoạch phát triển công nghiệp: bố trí các khu công nghiệp (vị trí và diện tích), chỉ
tiêu phát triển đối với các ngành công nghiệp chính (sản lượng và mức tăng trưởng), dự báo
xác định tổng sản lượng chất thải khí, chất thải nước, chất thải rắn,...
Quy hoạch phát triển nông nghiệp: phân bố các vùng nông nghiệp (diện tích, vị trí,
loại cây trồng, vật nuôi, sản lượng và mức tăng trưởng).
Quy hoạch phát triển giao thông vận tải: quy hoạch phát triển giao thông đường bộ,
đường thuỷ, đường hàng không (quy hoạch mạng lưới và tổng diện tích đất sử dụng, phương
tiện giao thông, hàng hoá vận chuyển, tổng số hành khách,...)
Quy hoạch phát triển du lịch: phát triển các khu du lịch, các danh lam thắng cảnh, các
công trình lịch sử văn hoá, bảo tàng, tổng lượng khách du lịch mỗi năm,...
Quy hoạch phát triển thương mại và dịch vụ: phát triển các trung tâm thương mại
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Những luận cứ trên cho chúng ta thấy về nội dung và mức độ quản lý kinh tế vĩ mô
“Quy hoạch phát triển” thực chất có thể coi là “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội”.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH


Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là việc luận chứng phát triển kinh tế xã hội và tổ chức không gian các hoạt động kinh tế, xã hội hợp lý (hay bố trí hợp lý kinh tế,
xã hội) theo ngành và lãnh thổ để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia.
Quy hoạch phát triển bao gồm quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực và quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ bao gồm : quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước (gọi tắt là quy hoạch cả nước), quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ (gọi tắt là quy hoạch lãnh thổ).
Quy hoạch lãnh thổ bao gồm quy hoạch vùng kinh tế - xã hội (hay còn gọi là vùng
lớn), các vùng kinh tế trọng điểm, các lãnh thổ đặc biệt; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (gọi tắt là tỉnh) và huyện, quận, thị xã (gọi tắt là huyện).
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cả nước là bước cụ thể hoá của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia nhằm khai thác, phát huy có hiệu quả các điều kiện
và đặc điểm của từng vùng lãnh thổ.
Quy hoạch ngành bao gồm các quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật, quy hoạch sản
phẩm, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, các sản phẩm chủ lực do Thủ tướng
Chỉnh phủ quy định (danh mục do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp yêu cầu của các Bộ quản
lý ngành và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định); quy hoạch phát triển hệ thống đô thị; quy
hoạch phát triển các ngành thuộc kết cấu hạ tầng; quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch hệ
thống các vùng cây trồng, vùng chăn nuôi tập trung; quy hoạch hệ thống khu công nghiệp tập trung.
Quy hoạch phát triển các ngành thuộc kết cấu hạ tầng (gồm cả kết cấu hạ tầng kinh tế
và kết cấu hạ tầng xã hội) có thời gian định hướng quy hoạch là 20 năm hoặc xa hơn. Quy
hoạch các ngành kết cấu hạ tầng kinh tế được định vị và có tính ổn định.
Quy hoạch phát triển các ngành sản xuất kinh doanh là quy hoạch có tính chất định
hướng phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường.
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, các cơ quan được Chính
phủ giao tiến hành lập các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, quy
hoạch các vùng lãnh thổ và các quy hoạch ngành. Trong trường hợp khi chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước chưa bao quát tầm nhìn dài hạn thì các cơ quan nhà nước phải

xây dựng định hướng chiến lược phát triển để làm căn cứ cho việc lập quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, quy hoạch vùng lãnh thổ và quy hoạch ngành.
Quy hoạch cả nước, quy hoạch các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành được lập trước để
làm cơ sở tiến hành quy hoạch các tỉnh, quy hoạch tỉnh phải được làm trước để làm cơ sở cho
quy hoạch huyện… Quy hoạch ngành trên lãnh thổ tỉnh là việc cụ thể hoá định hướng phát
triển quy hoạch ngành của cả nước trên địa bàn có tính tới đặc điểm của tỉnh. Mối quan hệ
giữa quy hoạch cả nước, quy hoạch các vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh là
mối quan hệ trên xuống dưới lên, vừa là cơ sở, vừa là căn cứ bổ sung lẫn nhau.
Quy hoạch cả nước giữ vai trò chủ đạo, đồng thời quy hoạch vùng lãnh thổ, quy
hoạch ngành là cơ sở pháp lý để tiến hành lập các quy hoạch cụ thể và quy hoạch xây dựng.
Quy hoạch cụ thể và quy hoạch xây dựng khi được lập là cơ sở để thực thi các phương án của
quy hoạch vùng lãnh thổ và quy hoạch ngành, đồng thời còn là căn cứ bổ sung, điều chỉnh
quy hoạch cả nước, quy hoạch vùng lãnh thổ và quy hoạch ngành.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Quy hoạch tổng thể được xây dựng theo các định hướng, mục tiêu và thời đoạn kế
hoạch của chiến lược, nó thể hiện các mục tiêu đó theo thời đoạn kế hoạch của chiến lược
trên phạm vi không gian lãnh thổ của quốc gia, của khu vực hoặc của tỉnh, huyện, nó là căn
cứ cho các quy hoạch ngành. Bởi vậy, quy hoạch tổng thể cần được làm trước. Tất cả các quy
hoạch ngành hoặc quy hoạch chi tiết hơn nên được làm sau trên cơ sở căn cứ vào các mục
tiêu của quy hoạch tổng thể và đưa vào tình hình cụ thể của ngành mà xây dựng quy hoạch
ngành cho thích hợp, có hiệu quả.
2. Bản chất của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
Quy hoạch là một công cụ để quản lý sự phát triển đất nước, thể hiện tầm nhìn, bố trí

chiến lược về thời gian và không gian phát triển một ngành hay một vùng lãnh thổ.
QHTTPTKTXH là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển, làm cơ sở định hướng cho
kế hoạch 5 năm và hàng năm.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội có 2
nội dung cơ bản là:
- Dự báo về mặt phát triển, nghĩa là dự báo phát triển đối với các ngành, lĩnh vực trên
phạm vi lãnh thổ nghiên cứu, nó trả lời cho câu hỏi: làm cái gì? Làm cho ai và làm bao nhiêu.
- Luận chứng các phương án tổ chức kinh tế - xã hội theo lãnh thổ, nó trả lời cho câu
hỏi: Làm ở đâu?
Hai nội dung trên gắn kết chặt chẽ với nhau, chúng phải được trả lời một cách thoả
đáng, chính xác và rõ ràng. Những vấn đề giải quyết theo hai nội dung này được thể hiện ra
sao trong các phương án kiến thiết của quy hoạch ngành và QHTTPTKTXH lãnh thổ?
Để góp phần đổi mới công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, Chính
phủ rất quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành triển khai thực hiện công tác quy hoạch, ban hành
các văn bản như Chỉ thị 32/1998/CT-Ttg ngày 23/9/1998 của Chính phủ về công tác quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội thời kỳ đến năm 2010. Thông tư số 05/2003/TT-BKH
ngày 22/7/2003 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về nội dung và trình tự lập,
thẩm định và quản lý các dự án phát triển ngành và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội. Ngày 7/9/2006 Chính phủ ra Nghị định số 92/2006/NĐ - CP về lập, phê duyệt và quản lý
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
Tại điều 4 của Nghị định 92/2006/NĐ - CP của chính phủ ngày 7/9/2006, xác định
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội bao gồm:
(1) Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước;
(2) Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, vùng kinh tế trọng điểm; quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cấp tỉnh; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội cấp huyện;
(3) Quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực cấp quốc gia, quy hoạch phát triển các
sản phẩm chủ yếu cấp tỉnh.
Dưới đây trình bày chi tiết hơn một số vấn đề về phân loại và nội dung chủ yếu của
hai loại quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ.

2.1. Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực (gọi tắt là quy hoạch ngành) là việc luận chứng,
lựa chọn phương án phát triển và phân bố ngành hợp lý trên phạm vi cả nước và trên vùng
lãnh thổ với sự tham gia của các thành phần kinh tế.
a. Các loại ngành, lĩnh vực sau đây cần phải lập quy hoạch
- Quy hoạch các ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật: mạng lưới giao thông,
vận tải; mạng lưới bưu chính viễn thông; hệ thống thuỷ lợi và sử dụng tổng hợp nước (cấp
nước, thoát nước); mạng lưới điện.
- Quy hoạch các ngành thuộc kết cấu hạ tầng xã hội: giáo dục - đào tạo; y tế và chăm
sóc sức khoẻ; văn hoá; thông tin; thể dục thể thao.
- Quy hoạch các ngành thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh: xây dựng; công nghiệp;
nông nghiệp; lâm nghiệp; thuỷ sản; thương mại; tài chính - tín dụng; du lịch.
- Quy hoạch các ngành thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường:
khoa học và công nghệ; bảo vệ môi trường.
- Quy hoạch các ngành thuộc lĩnh vực khác: quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch các
khu công nghiệp; quy hoạch các công trình quốc phòng; quy hoạch bảo vệ an ninh.
- Quy hoạch phát triển các ngành sản phẩm chủ lực.
b. Một số nội dung chủ yếu của quy hoạch ngành, lĩnh vực
Nội dung chủ yếu của quy hoạch ngành sản xuất kinh doanh.
- Phân tích, dự báo đầy đủ yếu tố thị trường và yêu cầu về năng lực cạnh tranh của sản
phẩm và dịch vụ.
- Phân tích, đánh giá hiện trạng phát triển và phân bố ngành trên các vùng lãnh thổ.

Phân tích cơ cấu ngành, sản phẩm chủ lực, đầu tư, công nghệ, lao động, tổ chức sản xuất.
- Xác định vị trí, vai trò của ngành với nền kinh tế quốc dân và các mục tiêu phát triển
của ngành. Phân tích cung cầu trên thế giới và khu vực; phân tích tình hình cạnh tranh trên
thế giới và trong nước.
- Luận chứng các phương án phát triển cơ cấu ngành, sản phẩm chủ lực và các điều
kiện chủ yếu đảm bảo mục tiêu quy hoạch được thực hiện (đầu tư, công nghệ, lao động)
- Luận chứng phương án phân bố ngành trên các vùng lãnh thổ, nhất là đối với các
công trình then chốt và phương án bảo vệ môi trường.
- Xác định các giải pháp về cơ chế, chính sách và đề xuất các phương án thực hiện.
- Xây dựng danh mục công trình, dự án đầu tư trọng điểm, trong đó có chia ra bước đi
cho 5 năm đầu tiên; tổ chức thực hiện quy hoạch.
- Thể hiện các phương án quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực trên bản đồ quy hoạch.
Nội dung chủ yếu của quy hoạch các ngành thuộc kết cấu hạ tầng.
- Xác định nhu cầu của phát triển kinh tế - xã hội về cơ sở hạ tầng từng giai đoạn lịch
sử cụ thể.

Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

- Dự báo tiến bộ khoa học, công nghệ và phát triển kết cấu hạ tầng của khu vục tác
động tới phát triển kết cấu hạ tầng của đất nước trong thời kỳ quy hoạch trên phạm vi cả nước
và các vùng lãnh thổ.
- Luận chứng các giải pháp, công trình đầu tư ưu tiên và tổ chức thực hiện.
Nội dung chủ yếu của quy hoạch sản phẩm chủ lực
- Xác định vai trò, nhu cầu tiêu dùng nội địa và khả năng thị trường nước ngoài của

sản phẩm.
- Phân tích hiện trạng phát triển và tiêu thụ sản phẩm.
- Dự báo khả năng công nghệ và sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Luận chứng các phương án phát triển và khuyến nghị phương án phân bố sản xuất
trên các vùng và các tỉnh.
- Xác định các giải pháp, cơ chế, chính sách, phương hướng hợp tác quốc tế.
- Thể hiện các phương án phát triển ngành trên bản đồ quy hoạch.
2.2. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là việc luận chứng phát triển kinh tế xã hội và tổ chức không gian các hoạt động kinh tế xã hội hợp lý theo ngành và lãnh thổ xác
định.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ, bao gồm
- Quy hoạch tổng thể phát triển các vùng kinh tế của cả nước.
- Quy hoạch tổng thể phát triển các vùng kinh tế - xã hội, các vùng kinh tế trọng điểm,
các lãnh thổ đặc biệt (gọi chung là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế vùng, gọi tắt là quy
hoạch vùng)
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (gọi chung là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cấp tỉnh)
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố, thị xã và huyện, quận thuộc
tỉnh (gọi chung là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cấp huyện).
Quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Quy hoạch phát triển ngành trên phạm vi cả nước được lập
trước, làm cơ sở cho quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lãnh thổ.
Các nội dung chủ yếu của quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội lãnh thổ được quy định
tại các Điều 12, Điều 16, Điều 22 trong Nghị định 92/2006/NĐ- CP.
3. Phương pháp tiếp cận quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường
Đây là một trong những vấn đề lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong
lĩnh vực quy hoạch phát triển. Thực tiễn và lý luận cho phép khái quát phương pháp tiếp cận
một cách thống nhất.


Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

- Nghiên cứu các nhân tố phát triển (thị trường, sự tác động của nhân tố chính trị hợp tác quốc tế, các nguồn lực nội sinh, các cơ chế, chính sách hiện hành, các yếu tố ngoại
sinh…) trong mối quan hệ động và có so sánh.
- Nghiên cứu, luận chứng các mục tiêu phát triển (xác định quan điểm, luận chứng các
khả năng phát triển phản ánh các mục tiêu phát triển về kinh tế, xã hội, về môi trường, về giữ
vững an ninh quốc phòng).
- Nghiên cứu các giải pháp đảm bảo các mục tiêu được thực hiện trong đó quan trọng
nhất là các giải pháp về hình thành cơ cấu kinh tế, lựa chọn phát triển ngành mũi nhọn, phát
triển các lĩnh vực; chính sách đầu tư; chính sách phát triển nguồn nhân lực; vấn đề chỉ đạo và
điều hành; vấn đề hợp tác liên ngành, liên vùng…
Một số cách tiếp cận nghiên cứu quy hoạch phát triển và quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh được thể hiện trong các sơ đồ 1.2 và 1.3.

Cơ cấu kinh tế, ngành
mũi nhọn: phát triển
lĩnh vực

Thị trường

Chính trị hợp tác quốc
tế
Các nguồn lực nội
sinh


Các
nhân tố
phát
triển

Mục
tiêu
phát
triển
(các
khả
năng)

Các giải
pháp đảm
bảo các
mục tiêu
được thực
hiện

Chính sách đầu tư

Nguồn nhân lực

Chỉ đạo và điều hành

Cơ chế chính sách
hiện hành


Hợp tác

Sơ đồ 1.2. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu quy hoạch phát triển

Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ
PHÁT TRIỂN

Vị trí của tỉnh trong
tổng thể vùng và
cả nước.
Vị trí địa lý.
Điều kiện tự nhiên
Đánh giá các loại
tài nguyên thiên
nhiên (Đất, thuỷ
văn, rừng,
khoáng sản,
biển…)
Các mạng lưới kết
cấu hạ tầng.
Đặc điểm đô thị

Đặc điểm dân số và

nguồn nhân lực

Tình hình và định
hướng phát triển của
vùng, cả nước và các
yếu tố quốc tế tác
động đến phát triển
KT-XH của tỉnh

LUẬN CHỨNG PHÁT TRIỂN

QUAN ĐIỂM - MỤC TIÊU PHÁT
TRIỂN
Xác
định
những
lợi thế
so
sánh,
thời cơ,
khó
khăn,
hạn
chế,
thách
thức
đối với
sự phát
triển
của tỉnh

trước
mắt
cũng
như lâu
dài

Thực trạng KT-XH
của tỉnh

XÁC ĐỊNH PHƯƠNG HƯỚNG
CHUNG VÀ CƠ CẤU KINH TẾ

LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN PHÁT
TRIỂN VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ

QUY HOẠCH PHÁT
TRIỂN CÁC NGÀNH
KINH TẾ

Công
nghiệp
TTCN
Xây
dựng

Thương
mại du
lịch và
dịch vụ


Nông
lâm
ngư
nghiệp

XÁC ĐỊNH
PHƯƠNG
HƯỚNG
PHÁT
TRIỂN
CÁC LĨNH
VỰC VĂN
HÓA XÃ
HỘI

PHƯƠNG HƯỚNG TỔ CHỨC KHÔNG GIAN
LÃNH THỔ

BƯỚC ĐI ĐẾN NĂM 2005 VÀ 2010, CÁC
CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN, CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ

GIẢI PHÁP

Huy động
vốn đầu
tư phát
triển hạ
tầng.
Khuyến

khích
đầu tư
tạo việc
làm.
Quản lý kinh
tế.
Đào tạo
nghề.
Phát huy
nguồn
lực của
các
thành
phần
kinh tế.

Tổ chức
thực hiện
quy hoạch

Kiến nghị
với TW và
phối hợp
hành động
với các tỉnh
khác

Sơ đồ 1.3. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
4. Phương pháp tiếp cận quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng
4.1. Vùng lãnh thổ - phương pháp tiếp cận

Tất cả các ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu về quy hoạch quản lý và phát triển
vùng đều thống nhất cho rằng vùng là một bộ phận lãnh thổ quốc gia. Sự tồn tại và phát triển
của nó gắn bó chặt chẽ với các bộ phận khác. Vùng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Là một đơn vị lãnh thổ có ranh giới xác định (hoặc mang tính pháp lý hoặc mang
tính ước lệ);
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

- Tồn tại các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mạng lưới giao thông, cơ sở
vật chất, kỹ thuật mà con người đã tạo dựng và các điểm dân cư.
- Có tính đồng nhất ở một mức độ nhất định về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Như vậy, trong thực tế tồn tại các loại vùng với những nội dung khác nhau như vùng
tự nhiên, vùng kinh tế, vùng dân tộc …. Vùng để làm đối tượng cho công tác quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội đề cập ở đây là vùng chứa đựng nhiều nội dung nêu ở trên, có
thể gọi là vùng quy hoạch. Trong điều kiện Việt Nam, có thể hiểu vùng với một số nội dung
và chức năng cần tiếp cận sau:
a. Vùng - đối tượng của quy hoạch phát triển
Vùng là đối tượng để quản lý và xây dựng kế hoạch. Vùng có ý nghĩa về mặt pháp lý
là vùng hành chính kinh tế. Lãnh thổ cấp tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), huyện
(quận) là đối tượng của quy hoạch phát triển có ranh giới xác định về mặt pháp lý. Các vùng
lớn hơn cấp tỉnh được xác định ranh giới có tính ước lệ, trong đó có cả ranh giới hành chính
và ranh giới phi hành chính.
Trong công tác quy hoạch, để giải quyết những vấn đề trên quy mô rộng (liên tỉnh) đã
tồn tại khái niệm vùng lớn. Quy mô và số lượng vùng phụ thuộc vào yêu cầu của việc tổ chức
theo lãnh thổ nền kinh tế - xã hội của đất nước. Số lượng vùng có thể thay đổi theo các giai

đoạn phát triển. Ở Việt Nam đã có nhiều lần phân chia lãnh thổ thành vùng khác nhau nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng thời kỳ:
- Thời kỳ 1976 - 1980: Việt Nam được chia thành 7 vùng, với nội dung chính là các
vùng sinh thái nông lâm nghiệp bao gồm: Trung du và miền núi Bắc bộ, Đồng bằng sông
Hồng, Khu IV cũ (nay là Bắc Trung bộ), Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam
Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
- Thời kỳ 1981 - 1985: Việt Nam được chia thành 4 vùng, với mục đích chính là lập
tổng sơ đồ phát triển cho các vùng lớn: Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
- Thời kỳ 1986 - 2000: Cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và đổi mới
công tác kế hoạch hoá và quản lý, Việt Nam được chia thành 8 vùng lớn với mục đích chính
là xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cho các vùng: Đông Bắc, Tây Bắc, Đồng
bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và
Đồng bằng sông Cửu Long.
- Thời kỳ 2001 đến nay: Việt Nam phân vùng cho phù hợp với điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế chia làm 6 vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc
Trung Bộ - Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long.
Xét về mặt lý luận và phương pháp luận của Viện Phân vùng quy hoạch Trung ương,
việc phân chia thành các vùng nêu trên có cơ sở khoa học nhất định, song chưa được luận
chứng và tổng kết đầy đủ.
b. Vùng - đối tượng trọng điểm đầu tư phát triển
Nhìn chung các quốc gia đang phát triển đều gặp phải mâu thuẫn ít vốn mà lại muốn
tạo ra vùng động lực trong phát triển đi đôi với phát triển từng bước các vùng nông thôn
nghèo khó (nơi tập trung phần lớn dân cư của cả nước). Nhiều nước tập trung vào việc hình
thành cấu trúc cơ bản của bộ khung nền kinh tế quốc gia, phát triển các địa bàn được coi là
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50



Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

trọng điểm phát triển, các trung tâm, các hành lang, các trục tăng trưởng có khả năng phát
huy hiệu quả sớm, đồng thời có khả năng tạo lực kích thích, thúc đẩy các vùng khác tăng
trưởng nhanh. Sau đó tìm các giải pháp cải biến các vùng khó khăn, lạc hậu, chủ yếu là vùng
nông thôn, miền núi...
Tuỳ theo yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước và chỉ đạo của
Chính phủ mà xác định các lãnh thổ - địa bàn giữ vai trò động lực hoặc những lãnh thổ còn
trong tình trạng trì, yếu kém cần sự hỗ trợ để phát triển. Chính phủ Việt Nam xác định 3 vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ, vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung và phát triển kinh
tế trọng điểm phía Nam.
c. Vùng - Đối tượng hỗ trợ
Cùng với lý do như được trình bày ở trên, Việt Nam tồn tại các vùng khó khăn, các
vùng này chủ yếu tập trung ở khu vực miền núi. Đặc điểm của các vùng này là trình độ dân
trí thấp (nhiều nơi là vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống), GDP bình quân đầu
người thấp kết cấu hạ tầng kém phát triển, các loại hình dịch vụ chưa phát triển... cần được
Nhà nước hỗ trợ.
4.2. Quan niệm về quản lý vùng ở Việt Nam
a. Các luận điểm chủ yếu về quản lý phát triển vùng ở Việt Nam
- Luận điểm cơ bản về quản lý vùng là tìm ra các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển
của các vùng trên cơ sở sử dụng một hệ thống cơ chế, chính sách và các quy định pháp quy.
- Luận điểm vùng là đối tượng của quản lý nhấn mạnh việc quản lý các tài nguyên
thiên nhiên, dân cư và các hoạt động của cư dân, các hoạt động kinh tế, xã hội, bảo vệ môi
trường, an ninh quốc phòng.
- Luận điểm vùng là công cụ của quản lý nghĩa là phải tạo lập các kế hoạch phát triển,
hệ thống các cơ chế chính sách và hệ thống các quy định pháp quy của từng vùng.
- Luận điểm về chủ thể quản lý vùng được hiểu là các cấp chính quyền từ Trung ương,
cấp tỉnh cấp huyện và cấp xã, trong đó cấp huyện là cấp quản lý tương đối trực tiếp.
Chính quyền Trung ương, tỉnh, huyện và sự phân cấp quản lý này đã được phản ánh

trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
b. Thực trạng về phân vùng và quản lý quy hoạch vùng ở Việt Nam
Kết quả phân chia hành chính vùng mang tính pháp lý ở Việt Nam cho đến nay là 63
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ranh giới xác định. Dưới đơn vị tỉnh (thành phố
trực thuộc Trung ương) có sự phân chia đơn vị hành chính thành các cấp huyện (quận) và xã
(phường).
Đến năm 2000 Việt Nam có tổng số là 61 tỉnh, thành. Trong đó có 4 thành phố trực
thuộc Trung ương là Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng và thành phố
Hồ Chí Minh. Do đặc điểm của địa hình cũng như truyền thống văn hoá lâu đời mà các tỉnh,
thành phố ở Việt Nam có quy mô rất khác nhau. Hầu hết các tỉnh miền núi có diện tích lớn
hơn các tỉnh đồng bằng và lớn hơn diện tích ở mức trung bình của cả nước (11 tỉnh), trong
khi đó có tới 28 tỉnh đồng bằng có diện tích nhỏ hơn diện tích ở mức trung bình của cả nước.
Tỉnh miền núi có quy mô diện tích lớn nhất là Đăk Lắc, với diện tích lớn gấp 21 lần điện tích
của một tỉnh đồng bằng nhỏ nhất. Song ngược lại, đa số các tỉnh đồng bằng lại có số dân
cũng như mật độ dân số cao hơn hẳn mức trung bình của cả nước (34 tỉnh, thành phố).
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Hiện nay, Việt Nam có 63 tỉnh và thành phố trực thuộc TW. Trong đó có 5 thành phố
trực thuộc Trung ương là Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng và thành
phố Hồ Chí Minh và TP Cần Thơ. Về sự tồn tại và quản lý của các đơn vị hành chính nói trên
đều đã được Hiến pháp và luật pháp quy định và cụ thể hoá trong các luật. Ở Việt Nam tồn
tại 4 cấp quản lý hành chính.
- Cấp Trung ương: quản lý toàn diện, rộng lớn.
- Cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương): quản lý kinh tế và quản lý hành chính

trên lãnh thổ tỉnh (thành phố) là cấp có ngân sách.
- Cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh): quản lý hành chính là chủ
yếu cũng có ngân sách.
- Cấp xã (xã phường, thị trấn): quản lý hành chính là chủ yếu, việc quản lý kinh tế tập
trung vào các hợp tác xã, tập đoàn doanh nghiệp và hộ gia đình.
c. Sự phân vùng lãnh thổ ở Việt Nam
Vùng là hệ thống đơn vị lãnh thổ có những đặc điểm tương đồng và các mối liên kết với
nhau theo một số quy định đặc thù tuỳ theo mục tiêu của hệ thống phân vùng.
Vùng kinh tế mang tính khách quan, được hình thành do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Việc phân chia đất nước thành các vùng kinh tế
là sản phẩm chủ quan, nó mang tính lịch sử và xã hội nhất định.
Năm 2003, Chính phủ có Nghị định phân chia tách 3 tỉnh, đó là Đăklăc thành tỉnh
Đắk Nông và Đắk lắc, tỉnh Lai Châu thành tỉnh Điện Biên và tỉnh Lai Châu, tỉnh Cần Thơ
thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ đưa tổng số tỉnh và thành phố trực thuộc Trung
ương của Việt Nam từ 61 lên 64 đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Đến Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam, hệ thống phân vùng được xác định là 6
vùng. Trên cơ sở 8 vùng của thời kỳ trước năm 2000, hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc được
nhập lại thành vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam
Trung Bộ nhập lại thành vùng Duyên hải miền Trung, các vùng còn lại giữ nguyên.
Các yếu tố đặc trưng của vùng Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng,
Bắc Trung Bộ - Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long như sau:
(1)- Vùng Trung du miền núi phía bắc, gồm 14 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La,
Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,
Lạng Sơn, Phú Thọ và Bắc Giang: về cơ bản sản xuất hàng hoá và kết cấu hạ tầng chưa phát
triển, một bộ phận đáng kể dân số có trình độ dân trí thấp, nhiều tỉnh còn phải nhận trợ cấp
ngân sách của Trung ương. Sản xuất nông nghiệp chưa có định hướng cụ thể trong điều kiện
kinh tế thị trường. Diện tích đất trống, đồi núi trọc còn nhiều và vai trò của ngành lâm nghiệp
vốn có tiềm năng nhưng rất hạn chế.
(2)- Vùng Đồng bằng sông Hồng, gồm 11 tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải

Dương, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh là
vùng đất chật người đông, có nhu cầu lớn về giải quyết việc làm. Vùng có tiềm lực kinh tế
lớn, tập trung tiềm năng chất xám của quốc gia, hội tụ nhiều yếu tố tăng trưởng, nhưng phát
triển chưa tương xứng với vị trí vai trò và lợi thế của vùng.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

(3)- Vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung, gồm 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Địa hình dốc và bị chia cắt, ít
khoáng sản, thiếu năng lượng và vật liệu xây dựng, sông suối ngắn, nơi hội tụ những điều
kiện bất lợi của thời tiết, khí hậu. Đây là vùng kinh tế chưa phát triển, đời sống dân cư còn
gặp nhiêu khó khăn. Tuy nhiên, vùng có cả biển, đồng bằng, trung du, miền núi cho phép
phát triển nền kinh tế đa dạng, có điều kiện phát triển cảng biển quy mô lớn. Nhìn chung
vùng đang tiềm ẩn những yếu tố tăng cường nhanh.
(4)- Vùng Tây Nguyên, gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm
Đồng: Là vùng có diện tích rừng nhiều, trữ lượng gỗ lớn, đất đai chủ yếu là đất bazan, quặng
bôxít và trữ năng thuỷ điện lớn mang ý nghĩa cả nước. Vùng có nhiêu đồng bào dân tộc ít
người sinh sống; công nghiệp và điều kiện kết cấu hạ tầng chưa phát triển. Dân trí và mức
sống của đại bộ phân dân cư còn thấp.
(5)- Vùng Đông Nam Bộ, gồm 7 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước, Tây
Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An. Hiện đang là vùng phát triền
năng động nhất Việt Nam. Đây là vùng có nhiều tiềm năng còn có thể phát huy hơn. Có thể
xây dựng Đông Nam Bộ thành vùng động lực mạnh, làm đầu tàu thúc đẩy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá cho cả nước nói chung và Nam Bộ nói riêng

(6)- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, gồm 12 tỉnh: Đồng Tháp, An Giang, Tiền
Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Hậu Giang, Thành phố Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Đây là vùng có tiềm năng lớn nhất để phát triển nông nghiệp, thuỷ
sản của Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay công nghiệp và kết cấu hạ tầng chưa phát triển, các
tiềm năng này chưa được phát huy có hiệu quả. Một bộ phận đáng kể dân cư có cuộc sống
khó khăn. Trong tương lai đây là vùng có nhiều vấn đề đặt ra cho chiến lược phát triển vùng
ở Việt Nam.
Để cụ thể hoá thêm một bước và triển khai thực hiện chiến lược phát triển lãnh thổ,
đồng thời để tạo động lực cho quá trình phát triển, Chính phủ đã xác định 3 vùng phát triển
kinh tế trọng điểm: vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng phát triển kinh tế trọng
điểm miền Trung và vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam.
- Vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Bao gồm Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải
Phòng và các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, đến năm 2004 bổ sung thêm Hà Tây,
Vĩnh Phúc và Bắc Ninh với các cảng biển và sân bay lớn của cả nước ở phía Bắc. Tại đây tập
trung lớn về tiềm lực kinh tế, nhiều xí nghiệp công nghiệp đầu đàn, nhiều cơ sở thương mại,
tài chính - ngân hàng, du lịch, y tế, đào tạo mang ý nghĩa vùng vả cả nước; cửa ngõ giao lưu
quốc tế. Phát triển các địa bàn nhằm hạn chế sự phân bổ công nghiệp quá tập trung ở tuyến
đường quốc lộ 5, chuyển hướng bố trí không gian kinh tế về phía đường quốc lộ số 18 .
- Vùng phát triền kinh tế trọng điểm phía Nam: Bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, các
tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương, đến năm 2004 bổ sung thêm Tây Ninh,
Bình Phước và Long An, là trung tâm và đầu mối giao lưu bằng cả đường bộ, đường biển,
đường sông và đường hàng không rất thuận lợi cho các tỉnh phía Nam với cả nước và quốc tế.
Sẽ mở rộng không gian đô thị và công nghiệp ra phía đường 51, tránh phân bố tập trung công
nghiệp vào thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Vũng Tàu.
- Vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung: Bao gồm Thừa Thiên Huế, thành
phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngài, đến năm 2004 bổ sung thêm Bình Định.
Bờ biển có nhiều địa điểm thuận lợi đề hình thành cảng nước sâu (Liên Chiểu, Chân Mây,
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50



Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Tiên Sa, Dung Quất, Quy Nhơn). Hệ thống cảng của vùng không chỉ là cửa ngõ ra biển của
miền Tnmg, Tây Nguyên mà tương lai còn là những của khẩu quan trọng của hệ thống đường
xuyên Á và có khả năng hình thành một cảng trung chuyển quốc tế của khu vực Đông Nam Á.
4.3. Định hướng phát triển các vùng
Các vùng, khu vực đều phát huy lợi thế để phát triển, tạo nên thế mạnh của mình theo
cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước tiếp tục
thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời
tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn. Thống nhất quy hoạch phát
triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất,
thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật và nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ dân trí và đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng và khu vực. Gắn chặt
phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng, an ninh, coi trọng
chiến lược phát triển các vùng biên giới.
Khu vực đô thị: phát huy vai trò của các trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá trên
từng vùng và địa phương, đi nhanh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
mạnh công nghiệp và dịch vụ, đi đầu trong việc phát triển kinh tế tri thức. Tạo vành đai nông
nghiệp hiện đại ở các thành phố lớn.
Quy hoạch mạng lưới đô thị với một số ít thành phố lớn, nhiều thành phố vừa và hệ
thống đô thị nhỏ phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị ở miền núi. Xây
dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng đồng bộ theo quy hoạch. Đưa việc quy hoạch và quản lý đô
thị vào nền nếp, ngày càng xanh, sạch đẹp, văn minh. Hoàn thiện quy hoạch giao thông lâu
dài, hợp lý ở tất cả các đô thị; khắc phục tình trạng ách tắc giao thông ở các đô thị lớn. Cung
cấp đủ nước sạch, thoát nước và xử lý chất thải; xoá nhà tạm bợ. Đẩy lùi các tệ nạn xã hội,
xây dựng đời sống văn hoá, tinh thần linh mạnh.
Khu vực nông thôn đồng bằng: Phát triển nông nghiệp sinh thái đa dạng trên nền cây

lúa, cây rau, quả, chăn nuôi, thủy sản và ứng dụng phổ biến các tiến bộ khoa học, công nghệ
trong sản xuất chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Hoàn thành điện khí hoá và thực hiện
cơ giới hoá ở những khâu cần thiết. Nâng cao nhanh thu nhập trên một đơn vị diện tích nông
nghiệp. Chuyển dịch lao động sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Phát triển mạnh tiểu, thủ
công nghiệp, các làng nghề, mạng lưới công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các dịch
vụ.
Khu vực nông thôn trung du, miền núi: Phát triển mạnh cây dài ngày, chăn nuôi đại
gia súc và công nghiệp chế biến. Bảo vệ và phát triển vốn rừng. Hoàn thành và ổn định vững
chắc định canh, định cư. Bố trí lại dân cư, lao động và đất đai theo quy hoạch đi đôi với xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Phát triển
kinh tế trang trại. Giảm bớt khoảng cách phát triển với nông thôn đồng bằng. Có chính sách
đặc biệt để phát triển kinh tế xã hội ở các vùng sâu vùng xa, biên giới, cửa khẩu.
Khu vực biển và hải đảo: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát
huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa. Tăng cương điều tra cơ bàn làm cơ sở
cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh nuôi, trồng, khai thác, chế
biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu, thuyền và vận tải
biển; mở mang du lịch; bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát
triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng
để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số
đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Trong những năm tới, phát triển từng vùng lớn tập trung vào những định hướng quan
trọng như sau:

(1)- Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đưa nhiều lao động nông nghiệp
sang các ngành công nghiệp, dịch vụ và đi lập nghiệp nơi khác.
Phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng. Cùng với lương thực, đưa vụ đông thành
một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, cây ăn quả thịt, hoa; mở rộng nuôi,
trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và cơ khí phục vụ nông nghiệp, các
cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ và làng nghề ở nông thôn.
Trong vùng kinh tế trọng điểm, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao,
công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp điện tử, thông tin và một số cơ sở cơ khí đóng tàu, luyện
kim, phân bón; các dịch vụ có hàm lượng tri thức cao; các trung tâm mạnh của vùng và cả
nước về đào tạo khoa học và công nghệ, thương mại, y tế, văn hoá, du lịch.
Hoàn thiện và nâng cấp kết cấu hạ tầng, trước hết là các tuyến trục quốc lộ, các cảng
khu vực Hải Phòng, Cái Lân, các sân bay.
(2)- Miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Hình thành và phát huy vai trò các trung tâm thương mại, xuất khẩu, viễn thông, du
lịch, tài chính, ngân hàng, khoa học và công nghệ, văn hoá, đào tạo đối với khu vực phía
Nam và cả nước. Hoàn chỉnh và nâng cấp các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao. Mở mang công nghiệp ở các tỉnh, không tập rung quá mức vào các đô thị lớn.
Phát triển mạnh cây công nghiệp (cao su, cà phê, điều, mía đường, bông...), cây ăn
quả, chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, hình thành các vùng chuyên canh tập
trung gắn với công nghiệp chế biến, tạo điều kiện thu hút thêm lao động từ đông bằng sông Cửu
Long.
Nâng cấp các tuyến quốc lộ nối với các vùng và quốc tế, nâng cấp và xây dựng mới
một cảng biển, sân bay. Xây dựng đô thị trên các trục phát triển gàn với khu công nghiệp.
Giải quyết tốt hệ thống giao thông đô thị, cấp và thoát nước, khắc phục ô nhiễm môi trường.
(3)- Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Phát huy lợi thế biển và ven biển, khai thác có hiệu quả các tuyến đường trục Bắc Nam, các tuyến đường ngang, các tuyến đường xuyên Á, các cảng biển. Hình thành các khu
công nghiệp ven biển, các khu công nghiệp - thương mại tổng hợp và phát triển kinh tế trên
các cửa khẩu và hành lang dọc các tuyến đường. Phát triển các ngành công nghiệp lọc, hoá
dầu, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến và chế tạo khác, các loại hình dịch vụ. Xây

dựng theo quy hoạch một số cảng nước sâu với tiến độ hợp lý. Đẩy nhanh việc xây dựng khu
kinh tế Dung Quất - Chu Lai. Phát triền mạnh du lịch biền và ven biển, gắn liền với các khu
di tích, danh lam thắng cảnh của cả vùng, đặc biệt là trên tuyến Huế - Đà Nẵng - Hội An Nha Trang.
Phát triển nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tăng nhanh sản
xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, kết hợp với công nghiệp chế biến,
đẩy mạnh trồng rừng. Có giải pháp hạn chế tác hại của thiên tai lũ lụt, hạn hán nặng, kết hợp
với bố trí lại sản xuất và dân cư. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ và cải thiện môi
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

trường toàn đối ven biển. Khai thác có hiệu quả vùng đất phía Tây, chú ý xây dựng các hồ
chứa nước chống lũ và làm thuỷ điện.
Từng bước tạo điều kiện để vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ liên kết với Tây
Nguyên tham gia có hiệu quả việc hợp tác kinh tế với Lào, Campuchia. nhất là các tỉnh biên giới.
(4)- Trung du và miền núi Bắc Bộ (Tây Bắc và Đông Bắc)
Phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây đặc sản, chăn nuôi
đại gia súc gắn với chế biến. Tạo các vùng rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà, rừng nguyên
liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ.
Phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản, chú trọng
chế biến xuất khẩu. Hình thành một số cơ sở công nghiệp lớn theo tuyến đường 18 gắn với
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phát triển nhanh các loại dịch vụ, chú trọng thương mại.
Nâng cấp các tuyến đường trục từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới, hoàn thành các tuyến đường
vành đai biên giới và các đường nhánh Phát triển thủy lợi nhỏ gắn với thủy điện nhỏ, giải
quyết việc cấp nước sinh hoạt và điện cho đồng bào vùng cao. Phát triển các đô thị trung tâm, các
đô thị gắn với khu công nghiệp. Nâng cấp các cửa khẩu biên giới và phát triển kinh tế cửa khẩu.

Thực hiện tốt chính sách dân tộc, định canh, định cư vững chắc, ổn định và cải thiện
đời sống cho đồng bào dân tộc.
(5)- Tây Nguyên
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của cả nước cả về kinh tế - xã hội và
quốc phòng - an ninh, có lợi thế để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp sản xuất hàng hoá lớn
kết hợp với công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp năng lượng và công nghiệp khai
thác khoáng sản. Có chiến lược và quy hoạch xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững
mạnh vê quốc phòng, an ninh, tiến tới thành vùng kinh tế động lực.
Phát triển nhanh theo hướng thâm canh là chính đối với các cây công nghiệp gắn với
thị trường xuất khẩu (cà phê, cao su, chè, bông...), chăn nuôi đại gia súc, trồng và bảo vệ
rừng, cây dược liệu, cây đặc sản và công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Phát triển thủy điện
lớn và vừa, các hồ chứa nước cho thủy lợi. Khai thác và chế biến quặng bô xít. Phát triển
công nghiệp giấy. Nâng cấp, khai thác tốt các tuyến đường trục và đường ngang nối xuống
vùng Duyên hải. Phát triển sự hợp tác liên kết kinh tế - thương mại - dịch vụ với các nước
láng giềng Lào, Campuchia. Có chính sách thu hút vốn đầu tư, bố trí dân cư và lao động và
đất đai theo quy hoạch, nâng cao dân trí và trình độ công nghệ. Thực hiện tốt chính sách dân
tộc, thật sự cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào dân tộc.
(6)- Đồng bằng sông Cửu Long
Tiếp tục phát huy vai trò của vùng lúa và nông sản, thủy sản xuất khẩu lớn nhất cả
nước; đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng lương thực, rau quả, chăn nuôi, thủy sản
hàng hoá. Phát triển công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các ngành, nghề tiểu,
thủ công nghiệp và các dịch vụ. Triển khai xây dựng các cụm công nghiệp sử dụng khí Tây
Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ.
Hoàn chỉnh mạng lưới đường bộ và mạng giao thông thủy. Nâng cấp và mở rộng quốc
lộ 1A, mở thêm một số tuyến trục để phát triển giao thông phía Tây Nam. Nâng cấp các quốc
lộ đến các tỉnh lỵ. Xây dựng cầu qua sông Hậu và có đủ cầu trên các tuyến này. Phát triển
mạng đường liên huyện và giao thông nông thôn, xây cầu kiên cố thay “cầu khỉ”. Hoàn chỉnh
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50



Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

các cảng sông, nâng cấp các sân bay. Quy hoạch và xây dựng khu dân cư, kết cấu hạ tầng phù
hợp với điều kiện chống lũ hàng năm và ngăn mặn.
5. Đặc điểm chủ yếu của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
5.1. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là văn bản pháp lý
Sau khi được phê duyệt, các văn bản quy hoạch tổng thể trở thành tài sản quý giá cho
các nhà quản lý. Với góc độ là một văn bản có tính pháp lý, Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sử dụng vì nó có các đặc điểm sau:
a. Quy hoạch đảm bảo tính ổn định và tốc độ phát triển của kinh tế, đảm bảo tính cân đối
và nhịp nhàng trong phát triển các khu vực kinh tế, giữa kinh tế và xã hội.
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, khi phát triển kinh tế - xã hội dựa trên cơ sở các
kế hoạch hàng năm và những kế hoạch ngắn hạn, do chưa có những phân tích và đánh giá
một cách cơ bản và toàn diện các nguồn tài nguyên và các nguồn lực, cũng như chưa có
những dự báo phát triển đúng đắn và chưa đầy đủ các căn cứ khoa học cho nên sự phát triển
thường không được tập trung vào các hướng được lựa chọn kỹ càng, do đó rơi vào tình trạng
thiếu ổn định. Nhiều công việc, nhiều dự án không thể thực hiện đến cùng vì thiếu phù hợp
và hài hoà với các công trình, dự án khác. Trong các bản kế hoạch thường không chú ý đến
tốc độ phát triển của nền kinh tế trong một khoảng thời gian dài mà thường căn cứ vào sự
phát triển của năm trước để ấn định mức phát triển cho năm kế hoạch dẫn đến tốc độ phát
triển của nền kinh tế cũng thiếu ổn định.
Trong các kế hoạch hằng năm (và cả kế hoạch 5 năm) chỉ tính đến những cân đối
trong thời kỳ kế hoạch, sự phát triển nhịp nhàng giữa các ngành cũng chỉ tính cho thời gian là
kế hoạch. Trong thực tế, hệ thống kinh tế - xã hội là một hệ thống nhiều thành phần cần có sự
cân đối và nhịp nhàng trong không gian cũng như về thời gian, cho nên cần được tính đến và
xác lập sự cân đối trong những khoảng thời gian tương đối dài với những cấu trúc khá đa
dạng. Vì vậy, cần có quy hoạch để đảm bảo tính cân đối và nhịp nhàng giữa các khu vực kinh tế.

b. Trong cơ chế thị trường, Quy hoạch tổng thể là bộ khung cho các lực lượng thị trường phát
triển.
Cơ chế thị trường chỉ có thể phát triển trong những điều kiện nhất định. Các điều kiện
đó bao gồm: hành lang pháp luật, các chính sách, các cơ sở hạ tầng, thị trường vốn, thị trường
lao động, thị trường khoa học công nghệ…
Trong các văn bản quy hoạch các yếu tố đã nêu trên đây cần được đề cập đến một
cách cụ thể và khi quy hoạch được phê duyệt có nghĩa là Nhà nước đã chấp nhận cho thực thi thì
những điều kiện nêu ra trong quy hoạch trở thành những điều bắt buộc đối với các cấp, các
ngành.
Quy hoạch không những tạo ra môi trường cho các lực lượng thị trường phát triển mà
còn đề ra các định hướng, các giới hạn cho sự phát triển đó. Định hướng xã hội chủ nghĩa
được thể hiện một cách cụ thể thành những hành lang pháp lý, những giới hạn cho sự phát
triển của cơ chế thị trường. Đây là điểm khác biệt giữa phương pháp luận quy hoạch của cơ
chế thị trường tự do với phương pháp luận quy hoạch của cơ chế thị trường phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Quy hoạch không kìm hãm sự phát triển của lực lượng thị trường mà trái lại thúc đẩy
sự phát triển của các lực lượng này bởi vì quy hoạch tạo sự an toàn, lòng tin cho các nhà đầu
tư mạnh dạn bỏ vốn ra kinh doanh.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

c. Quy hoạch tạo nên tính chủ động trong phát triển kinh tế, thúc đẩy tính sáng tạo của
các cấp trong xây dựng kinh tế - xã hội.
Với định hướng phát triển, những cân đối đã được tính toán kỹ và đề ra trong văn bản
quy hoạch, các nhà quản lý và lãnh đạo các cấp có điều kiện thuận lợi, có cơ sở để chủ động

tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội. Họ có điều kiện sắp xếp bố trí công việc trong khung
các định hướng đã được xác định mà không còn những lo ngại phát triển chệch hướng hoặc
không ăn khớp với các hoạt động khác.
Các nhà quản lý ở các cấp cũng có điều kiện để phát huy tính sáng tạo của mình trong
các phạm vi và giới hạn đã được xác định trong quy hoạch. Hoạt động trong điều kiện không
có quy hoạch, các nhà quản lý thường thụ động chờ đợi sự phân công hoặc điều hành từ các
cấp quản lý cấp trên, vì họ không thấy được những việc họ phải làm, những giới hạn dành
cho phạm vi hoạt động của họ. Quy hoạch tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh các định hướng,
các nội dung, các cấp độ, các mối liên hệ. Trong hệ thống chung đó, các hệ thống bậc thấp có
độ tự do cần thiết và được hoạt động chủ động trong các giới hạn đã được xác định cho hoạt
động của mình.
d. Quy hoạch đảm bảo sự phát triển theo đúng tốc độ được lựa chọn đồng thời phát triển
bền vững trên cả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường.
Việc đảm bảo tốc độ phát triển của một nền kinh tế đòi hỏi sự phát triển hài hòa và
đồng bộ của các ngành, các bộ phận. Quy hoạch nghiên cứu và tìm giải pháp tối ưu để tạo
nên tính đồng bộ và sự hài hòa này.
Thiếu quy hoạch không thể đảm bảo sự phát triển đồng bộ và bền vững cả 3 mặt: kinh
tế, xã hội và môi trường. Trong thực tế sự phát triển của nhiều nền kinh tế, khi không tạo
được sự phát triển xã hội tương ứng làm nảy sinh nhiều trở ngại, thậm chí kìm hãm sự phát
triển với tốc độ nhanh, thường tạo ra những tác động tiêu cực, tác động có hại lên môi trường,
thậm chí làm huỷ hoại môi trường. Vì vậy, chỉ có thể phát triển bền vững không những riêng
đối với từng lĩnh vực mà chung cho cả 3 lĩnh vực trong hệ thống kinh tế - xã hội - môi trường
khi có một quy hoạch được xây dựng hợp lý với đầy đủ các căn cứ khoa học và thực tiễn.
Chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Việc đảm bảo phát triển đúng tốc độ dự kiến và
phát triển bền vững cả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường là một vấn đề có ý nghĩa to lớn và
mang tính quyết định. Vì vậy việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội môi trường cho từng vùng, từng đơn vị hành chính là việc làm không thể thiếu.
e. Quy hoạch là biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, quy hoạch tạo lòng tin và tâm
lý ổn định cho người đầu tư.
Chúng ta đang thiếu vốn để phát triển kinh tế. Nhu cầu vốn đầu tư lại càng cao khi

chúng ta dự kiến phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, đồng bộ và hài hòa với phát triển xã hội
và môi trường. Bên cạnh việc phát huy nội lực mà nhà nước ta đã có chủ trương thúc đẩy
mạnh thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Quy hoạch dự kiến trên cơ sở cân nhắc và tính toán một cách kỹ lưỡng và toàn diện
các mặt, những lĩnh vực, những trọng điểm cần thu hút vốn đâu tư nước ngoài. Trên cơ sở
quy hoạch được xây dựng và phê duyệt, các cấp quản lý có điều kiện để chủ động giới thiệu
với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài những lĩnh vực, những công trình cần thiết có
sự tham gia đầu tư.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Các nhà đầu tư nước ngoài khi xem xét việc bỏ vốn đầu tư vào từng lĩnh vực, từng
công trình cụ thể, nếu thấy các công trình đó, các lĩnh vực đó đã được xem xét và đưa vào
quy hoạch, họ sẽ an tâm đầu tư mà không e ngại về những thay đổi có thể xảy ra sau này
trong chủ trương phát triển. Các công trình, các dự án, các lĩnh vực khi đã đưa vào quy hoạch
là những vấn đề đã được tính toán và cân nhắc kỹ, vì vậy chắc chắn sẽ được thực hiện. Điều
này tạo nên sự tin tưởng và tâm lý ổn địch cho các nhà đầu tư.
Chính vì lẽ đó, mà ở những nơi đã có quy hoạch và đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt thường dễ thu hút các nhà đầu tư hơn những địa phương chưa có quy hoạch. Mặt khác,
việc xây dựng quy hoạch đối với các địa phương chưa có là một yêu cầu cấp bách. Việc bổ
sung, hoàn chỉnh quy hoạch ở những nơi đã có quy hoạch là yêu cầu thường xuyên. Song
không có nghĩa là thay đổi thường xuyên một cách tuỳ tiện thiếu cơ sở và thiếu căn cứ, bởi vì
nếu quy hoạch thường xuyên bị thay đổi một cách tuỳ tiện thì quy hoạch không còn ý nghĩa
nữa và không thể tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, kể cả trong nước và ngoài nước. Bổ sung và
hoàn thiện quy hoạch chính là hoạt động cụ thể hoá thêm một bước, chính xác hoá thêm các định

hướng, các công trình đã được dự kiến.
Bổ sung và hoàn thiện quy hoạch là việc làm thường xuyên. Bên cạnh đó, trong quá
trình phát triển khi có những yếu tố mới, quan trọng, có tác động to lớn đến toàn bộ nền kinh
tế hoặc khi có những điều chỉnh lớn trong đường lối kinh tế - xã hội của Nhà nước… thì cần
thiết có sự điều chỉnh quy hoạch. Việc điều chỉnh quy hoạch kéo theo những bổ sung cần
thiết và sau đó là những hoàn thiện mới đối với quy hoạch. Tuy nhiên, việc điều chỉnh quy
hoạch cần làm rất thận trọng, cẩn thận, tỷ mỷ để tránh gây ra những đảo lộn, xáo trộn không
cần thiết làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư.
5.2 Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là một công cụ của công tác
quản lý nhà nước
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội là một văn bản khoa học, là kết quả
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là tập hợp những
kiến thức được tích luỹ trong quá trình hoạt động và phát triển của địa bàn trong nhiều năm
qua kết hợp với việc vận dụng sáng tạo các lý thuyết về tự nhiên, kỹ thuật, quản lý, kinh tế,
xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của địa bàn, đồng thời vận dụng các kiến thức khoa học để dự
báo cho tương lai.
Do đó, quy hoạch tổng thể là một hệ thống tương đối hoàn chỉnh các định hướng phát
triển, các nội dung hoạt động, các giải pháp chủ yếu giúp cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản
lý và những người trực tiếp sản xuất kinh doanh thấy rõ những việc cần làm, những hướng
cần phát triển.
Quy hoạch không phải là một văn bản mang tính khái quát chung mà là một văn bản
chỉ đạo hành động. Do đó quy hoạch có giá trị thiết thực rất lớn. Quy hoạch giúp ta mạnh dạn
hoạt động mà không có e ngại chệch hướng, không hài hoà với các hoạt động khác.
Quy hoạch là một tài sản lớn đối với các cấp quản lý. Đó là tài sản trí tuệ vô giá. Quy
hoạch một khi được xây dựng tốt và triển khai thực hiện nghiêm túc sẽ giúp tiết kiệm được
nhiều thời gian và các tài nguyên, trong đó có nhiều loại tài nguyên không tái tạo được. Quy
hoạch giúp phát huy và nâng cao hiệu quả các loại tài nguyên, giúp tập hợp và phát huy đội
ngũ cán bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp tránh được những đoạn đường vòng trong quá
trình phát triển.


Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Do có những giá trị to lớn trên nhiều mặt nên quy hoạch được các địa phương xây
dựng. Quy hoạch không chỉ cần thiết đối với các địa bàn rộng lớn: vùng kinh tế - sinh thái,
vùng kinh tế trọng điểm, các tỉnh và thành phố lớn, mà còn rất cần đối với các địa bàn hẹp
hơn: huyện, xã.
5.3. Quy hoạch tổng thể có tính phản ánh và tính chỉ đạo hành động
Nhận thức về ý nghĩa, vai trò của quy hoạch cũng như về tính chất biện chứng, tính
thực tiễn trong quá trình xây dựng quy hoạch không phải ngay một lúc mà có thể đầy đủ và
hoàn chỉnh.
Quy hoạch có tính phản ánh và tính chỉ đạo hành động. Quy hoạch phản ánh thực
trạng kinh tế - xã hội của địa phương. Từ thực tế rút ra những nhận xét kết luận cần thiết và
đề ra những hành động sát hợp. Đường lối và chiến lược đề ra phương hướng phát triển cho
những giai đoạn lịch sử. Những định hướng này chịu sự chi phối của các phương hướng
chiến lược. Khi thời cơ xuất hiện, quy hoạch cần được bổ sung để hoặc là để đẩy mạng tốc độ
phát triển hoặc là làm vượt các mục tiêu đã đề ra. Để làm được việc này cần kịp thời nắm bắt
thời cơ, cập nhật nhận thức, trên cơ sở đó thực hiện bổ sung quy hoạch.
Quy hoạch mang tính chất tổng thể và đa ngành. Nhận thức tổng hợp và đa ngành là
loại nhận thức ở cấp độ cao hơn nhận thức của từng ngành, từng lĩnh vực. Trong quá trình
phát triển, các ngành không thể cùng phát triển với một tốc độ giống nhau, với những thành
quả như nhau. Vì vậy tính tổng hợp và liên ngành là một tính chất động, luôn có những thay
đổi. Những thay đổi này có khi chỉ mang tính cục bộ và ít ảnh hưởng đến quy hoạch chung,
nhưng cũng có trường hợp những thay đổi bao quát những phạm vi rất rộng lớn và có những
tác động mạnh lên toàn bộ quy hoạch.

Quy hoạch có tính thời sự. Quy hoạch không thể thoát ra khỏi thực tại. Quy hoạch
không mang tính thời sự sẽ trở thành cứng nhắc, thiếu sức sức sống. Nhận thức về tính thời
sự của quy hoạch là tìm ra các mối liên hệ bên trong, các mối liên hệ mang tính bản chất của
thực tại tình chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường.
Cập nhật và bổ sung quy hoạch là việc làm có tính chất thường xuyên định kỳ. Đó
cũng là một hoạt động nghiệp vụ dựa trên cơ sở phân tích và đánh giá đầy đủ những diễn biến
của thời kỳ từ sau khi quy hoạch được chính thức phê duyệt. Để đảm bảo cho việc cập nhật
và bổ sung quy hoạch đạt chất lượng, mang lại hiệu quả thiết thực, cần đảm bảo các nguyên
tắc:
- Phản ánh đúng bản chất những diễn biến mới của thời kỳ từ sau khi quy hoạch được
phê duyệt và có hiệu lực thi hành.
- Không làm thay đổi các định hướng phát triển chủ yếu của quy hoạch; không làm
ảnh hưởng đến các mục tiêu cơ bản của quy hoạch.
- Nâng cao thêm một bước chất lượng của quy hoạch để chính xác hơn, khoa học hơn,
cụ thể hơn.
Cập nhật và bổ sung quy hoạch chưa phải là điều chỉnh quy hoạch ở mức độ có những
thay đổi trong các định hướng và mục tiêu của quy hoạch. Việc điều chỉnh quy hoạch chỉ
thực hiện trong trường hợp có những thay đổi về chủ trương và đường lối ở tầm vĩ mô. Tất
nhiên, trong quá trình cập nhật và bổ sung quy hoạch cũng có những điều chỉnh cần thiết để
quy hoạch phản ánh sát hơn với thực tế và nội dung có nhiều điều kiện khả thi hơn. Tuy
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

nhiên, những điều chỉnh đó thường chỉ giới hạn ở tầm cục bộ, vi mô mà không gây ra những
thay đổi trong mục tiêu và định hướng của quy hoạch.

6. Yêu cầu chủ yếu của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
a. Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội trong trạng thái động là một quá trình động có
trọng điểm cho từng thời kỳ.
Hệ thống kinh tế - xã hội là hệ thống vận động không ngừng: có những yếu tố không
thể biết trước và dự báo được một cách chính xác nên dễ gây ra những rủi ro lớn. Hệ thống
này vận động không ngừng vì nhu cầu con người không ngừng tăng lên và không có giới hạn,
song khả năng đáp ứng nhu cầu đó thì có giới hạn, dẫn đến những cạnh tranh, giành giật và
gây ra những mâu thuẫn, tiền đề nảy sinh sự không bền vững trong hệ thống. Vấn đề này
cũng cho thấy quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội phải làm thế nào để có được một cơ cấu
hợp lý. trên cơ sở giải quyết những cân đối giữa sản xuất và nhu cầu, giữa sản xuất và khả
năng để cuối cùng đạt được quan hệ cân đối giữa nhu cầu và khả năng trong một điều kiện có
thể trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội. Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên
một cách hợp lý, bền vững theo quan điểm sinh thái, đảm bảo cho sự tăng trưởng ổn định bền
vững.
Các yếu tố khó biết trước và khó dự báo là không có giới hạn. Chúng có thể là khả
năng tiềm tàng của tài nguyên trong lòng đất, tài nguyên biển, tài nguyên khí hậu...; những
tâm lý xã hội nảy sinh phát triển khó lường; những sáng kiến, sáng tạo của con người sẽ xuất
hiện mới, những diễn biến chính trị khó lường... Mặt khác, với sự tiến bộ khoa học công nghệ
phát triển như vũ bão chúng ta khó đoán biết cái gì sẽ xảy ra; những dòng vật chất, đặc biệt là
những dòng hàng hoá, dòng tiền tệ trao đổi giữa các quốc gia có sự biến đổi nhanh và ngày
càng đa dạng. Những yếu tố đó đặt ra vấn đề cần xử lý và xem xét, luận chứng các điều kiện,
xác định các phương án quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội một cách kỹ lưỡng, đảm bảo
được tính linh hoạt cần thiết. Do đó quy hoạch tổng thể phải đề cập được nhiều phương án,
thường xuyên cập nhật, bổ sung tư liệu cần thiết để có giải pháp điều chỉnh kịp thời cho phù
hợp với tình hình thực tế. Quy hoạch tổng thể phải tìm giải pháp giải quyết các mâu thuẫn và
tính tới những vấn đề đã, đang và sẽ nảy sinh nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà của hệ
thống tự nhiên - kinh tế - xã hội.
b. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải đạt mục tiêu phát triển trong thế vận
động tiến bộ và bền vững.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội luôn luôn tính tới sự phát triển từ trình

độ thấp lên trình độ cao của hệ thống lãnh thổ kinh tế - xã hội và các bộ phận cấu thành của
nó nhằm đạt tới hiệu quả tối đa cho số đông dân cư. Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội đây là vấn đề có tính nguyên tắc vì con người là mục tiêu cao nhất.
Chúng ta biết rằng hệ thống lãnh thổ kinh tế - xã hội bao gồm nhiều phân hệ. Các
phân hệ và cấu trúc của từng phân hệ cũng như toàn hệ thống luôn có xu hướng chuyển động
đa chiều, hỗn loạn. Theo quán tính hầu như các chuyển động có tính mâu thuẫn nhau. Đó là
đặc điểm cần chú ý khi tiến hành quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội. Ở đây cần nhấn mạnh
đến các phần tử chuyển động đa hướng. Bởi lẽ, như chúng ta đều rõ, lợi ích của từng người,
từng cá nhân trong trong xã hội rất khác nhau: lợi ích của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi vùng,
lãnh thổ có tính cục bộ và thường vận động không cùng chiều. Do đó, một vấn đề cực kỳ
quan trọng là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội làm thế nào để hệ thống phát triển
không ngừng và đạt hiệu quả thì cần điều khiển tất cả các liên hệ theo một hướng nhất định.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Trên mỗi lãnh thổ, có nhiều đối tượng hoạt động khác nhau trong thế cạnh tranh quyết
liệt để giành lấy phần lợi cho mình nên rất dễ gây tình trạng hỗn loạn, mà biểu hiện trực tiếp
là các hiện tượng khủng hoảng, đa hướng trong phát triển, tự phát trong định hướng và trong
các hoạt động cụ thể. Do đó cần điều khiển vận động của hệ thống theo một hướng để đạt tới
một mục tiêu chiến lược nhất định trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội không thể đặt ra nhiều mục tiêu không cùng hướng.
Trong mỗi hệ thống lãnh thổ, luôn có những chuyển động và hoạt động tạo ra những
mâu thuẫn, cản trở nhau. Những mâu thuẫn, cản trở đó do những lợi ích cục bộ của từng bộ
phận lãnh thổ của từng ngành, từng chủ thể mà không tính đến hoặc không đặt lợi ích này
trong một tổng thể chung.

Do đó vấn đề đặt ra cho quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải xác định
được mục tiêu phát triển và xác định được các giải pháp kiến thiết lãnh thổ tạo được sự phát
triển hà hoà, nhịp nhàng cho toàn bộ hệ thống lãnh thổ. Xây dựng và phát triển không ngừng
cấu trúc vùng lãnh thổ, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
c. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải lựa chọn các các phương án kiến
thiết hợp lý, dài hạn.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải được nghiên cứu theo nhiều
phương án. Mỗi phương án mang đậm nét một điểm nổi trội của nghệ thuật kiến thiết lãnh
thổ. Ví dụ: Phương án này nặng về tạo tạo dựng các trung tâm vùng, phương án kia lại coi
trọng các hành lang kinh tế. Hoặc nơi này thì quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội theo các
vành xoay xung quanh trung tâm hạt nhân, nơi kia lại bố trí tập trung thành các lãnh thổ theo
khu biệt lập với sự tập trung cao độ các năng lực kinh tế…
Quy hoạch tổng thể phải là kết quả của quá trình nghiên cứu đề xuất và lựa chọn các
giải pháp khác nhau, cho các nhiệm vụ khác nhau. Trong các phương án chủ và phương án
dự phòng. Ngay trong phương án chủ cũng phải dành những lãnh thổ dự trữ, phải có thứ tự
ưu tiên về lãnh thổ, phải có những quy định rõ ràng về mức độ và phương thức sử dụng không
gian.
d. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải thể hiện sinh động phân công lao
động theo lãnh thổ một cách đa dạng và linh hoạt.
Hoạt động kinh tế của con người trong các lãnh thổ khác nhau vô cùng đa dạng. Bức
tranh kinh tế của thể giới cũng như từng quốc gia muôn màu, muôn vẻ. Ví dụ: Trên bản đồ
kinh tế của Việt Nam có thể nhìn thấy vô vàn các kiểu sản xuất khác nhau, thậm chí trong
một khoảng không gian nhỏ hẹp cũng có tình trạng như vậy. Phân công lao động theo lãnh
thổ lôi cuốn các đối tượng tự nhiên, kinh tế, xã hội vào quá trình sản xuất, trao đổi hàng hoá,
dịch vụ mang lại lợi ích cho các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội tham gia vào quá trình
phức tạp đó. Khi thực hiện phân công lao động theo lãnh thổ phải cụ thể hoá được định
hướng, thậm chí cả những diễn biến trong tương lai của phân công lao động theo ngành.
Trong quá trình phân công lao động theo vùng lãnh thổ các vùng, các doanh nghiệp
giữ chức năng khác nhau nhằm tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần đa dạng phù hợp với
những đặc điểm tự nhiên, dân tộc, lịch sử của các địa phương… Do đó việc quy hoạch tổng

thể kinh tế - xã hội cần tạo ra sự nhất trí cao nhất của các cộng đồng dân cư, đảm bảo yêu
cầu, đảm bảo yêu cầu giữ gìn sắc thái văn hoá của mỗi cộng đồng dân cư. Đáp ứng mục tiêu
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Từng bước xây dựng những vùng
nông sản chất lượng cao, phát triển ngành nghề truyền thống, công nghiệp chế biến... Bảo vệ
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

và chăm sóc cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá. Đáp ứng
yêu cầu về an ninh quốc phòng.
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ phản ánh sự lựa chọn địa điểm của các nhà
đầu tư, của dân cư và cộng đồng dân cư. Đó là biểu hiện sự lựa chọn của người sản xuất trên
cơ sở đạt được lợi ích cao nhất. Mọi sự gò ép chủ quan đối với sự lựa chọn địa điểm bố trí xí
nghiệp của các nhà đầu tư đều khó đem lại kết quả.
e. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường,
tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện và ngày nay đang thịnh hành. Phát triển để
thoả mãn các nhu cầu của hôm nay mà không tổn hại đến sự phát triển của tương lai là đòi
hỏi lớn lao đối với nhân loại khi lựa chọn các quyết sách phát triển nhằm đạt được cả ba mục
tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường. Trong điều kiện kinh tế thị trường tính nhân văn trong
phát triển phải được tôn trọng và đảm bảo trên thực tế. Các tính toán của quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội phải dựa trên yêu cầu bền vững của sự đan kết các yếu tố phát triển (đảm bảo
tính liên ngành, liên vùng nhằm nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của mọi thành
viên trong xã hội. Muốn thế, mọi hoạt động phải được tổ chức một cách khoa học.
Tránh phát triển “nóng”, tôn trọng phát triển hài hoà và nhịp nhàng của toàn bộ hệ
thống cũng như của từng phần tử cấu thành lãnh thổ kinh tế - xã hội. Tình trạng đó dễ dẫn

đến phát triển nhanh, song dẫn đến phá vỡ hệ thống chung của xã hội, gây ra những hậu quả
xấu, khó lường.
Ngoài ra, QHTTPTKTXH phải đảm bảo một “trật tự” ngắn hạn cũng như yêu cầu
phát triển dài hạn. Các đối tượng tổ chức cần được “đặt” đúng vị trí của nó; làm cho các đối
tượng dựa vào nhau mà phát triển, không cản trở và không làm tổn hại đến nhau trong quá
trình phát triển chung.
7. Nguyên tắc cơ bản của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
a. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải thoả mãn yêu cầu về khả năng tài
nguyên và nhu cầu thị trường, đảm bảo lợi ích của cộng đồng và đạt hiệu quả kinh tế, xã
hội cao.
Khi xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải xem xét tới các
nguyên tắc phân bố lực lượng sản xuất; đặc điểm điều kiện của phân bố từng ngành và lĩnh
vực. Mặt khác, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội phải tính tới nhu cầu thị trường;
xây dựng nền kinh tế hàng hoá phù hợp nhu cầu của xã hội và cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên, lao động có hiệu quả, tạo ra cơ cấu
kinh tế đúng đắn, giải phóng và phát triển sức sản xuất. Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế,
giải quyết yêu cầu nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của mọi người; tăng cường
cơ sở hạ tầng. Xây dựng hệ thống điểm dân cư tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và đời
sống của nhân dân; đảm bảo mối quan hệ đúng đắn về khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Đảm bảo kết hợp giữa yêu cầu của sự phát triển với khả năng hiện thực. Yêu cầu của
sự phát triển thể hiện sự khác nhau giữa các thời kỳ lịch sử, nó cũng khác nhau giữa các vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội và con người khác nhau.
Kết hợp giữa yêu cầu trước mắt và yêu cầu phát triển ổn định, bền vững và lâu dài.
Lấy mục tiêu trước mắt làm chiến thuật, còn mục tiêu lâu dài là chiến lược của sự phát triển.
Những mục tiêu và nội dung trước mắt phải hội tụ để tạo nên những mục tiêu lâu dài.
Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50



Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

Thoả mãn yêu cầu về tài nguyên và nhu cầu thị trường đó là sự thoả mãn yếu tố khả
năng và đáp ứng nhu cầu nhằm đem lại lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường của tổng thể.
Thước đo của quy hoạch tồng thể phát triển kinh tế - xã hội chính là lợi ích và hiệu quả kinh
tế - xã hội cao mà do quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đem lại.
b. Hài hoà, tương tác, hỗ trợ cùng phát triển đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cho tổng thể
Sự hài hoà nghĩa là phát triển ngành này phải tính tới những điều kiện để phát triển
các ngành khác và đảm bảo cho bản thân ngành đó cùng các ngành khác tồn tại và phát triển.
Tương tác là sự kết hợp, quan hệ và trao đổi lẫn nhau giữa ngành và lĩnh vực này với
ngành và lĩnh vực khác trong một tổng thể.
Hỗ trợ là sự bổ sung và điều tiết giữa nơi thừa và nơi thiếu và ngược lại về một lĩnh
vực nào đó trong một tổng thể.
Thể hiện sự kết hợp phát giữa phát triển điểm và diện, tổng mặt và toàn diện. Quy
hoạch tổng thể là chiến lược toàn diện về sự phát triển, nó được xây dựng dựa trên đặc điểm
của từng tiểu vùng, từng lĩnh vực, từng ngành, mối liên kết giữa các ngành tạo ra sự phát
triển tổng thể. Kết hợp giữa sự hoàn thiện của hệ thống với sự không hoàn thiện của một số
phân hệ, đảm bảo sự hài hòa của cả hệ thống, tránh mâu thuẫn khập khiễng, ở từng khâu,
từng phân hệ. Kết hợp giữa định tính và định lượng. Trong quy hoạch tổng thể có những dự
tính mang tính định lượng như mức thu nhập của người dân của từng thời kỳ, kết quả sản
xuất kinh doanh... nhưng cùng có những số liệu mang tính định tính như trình độ của người
dân, năng lực của bộ máy chính quyền.... tuy nhiên sự định tính và định lượng phải tạo ra sự
phát triển tổng thể, chúng liên kết và hoà quyện vào nhau. Khi quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội, 3 yếu tố hài hoà, tượng tác hỗ trợ luôn phải được những nhà tổ chức thấm
nhuần và coi như một nguyên tắc cần nắm vững trong nghiên cứu các nội dung của quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
c. Sự phù hợp với trình độ nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ
Áp dụng các quy trình công nghệ tiến bộ, các giải pháp tổ chức lãnh thổ và kinh tế kỹ
thuật nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất của xã hội.

Một số quốc gia khi tiến hành xây dựng các phương án quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội trong khi thiếu chuyên gia về lĩnh vực này họ đã phải thuê chuyên gia nước
ngoài để thực hiện nhiệm vụ đó. Đó cũng là một trong những cách đi tắt đón đầu trong lĩnh
vực tổ chức kinh tế - xã hội theo lãnh thổ kế thừa thành tựu của nhân loại hướng tới hiện đại.
d. Đảm bảo yêu cầu hiện đại và hội nhập khu vực và quốc tế
Phải kiến thiết cho được những khu hạt nhân (những trung tâm đô thị, thành phố, khu
vực ngoại vi) để tạo nền văn minh ở trình độ cao hơn trong tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội.
Tiếp thu tinh hoa của thế giới và lan toả nền văn minh từ các đô thị tới các vùng xung quanh.
Tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội mà những khu hạt nhân này được tiến hành
tổ chức theo dạng chuỗi dạng chùm hình hay rẻ quạt .
Ngoài ra, nguyên tắc chung trong việc lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam được quy định tại Điều 6 của Nghị định số 92/2006/NĐ - CP về lập, phê
duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


Chương trình Đào tạo quản lý Đất đai - Khóa 1
Chuyên đề: Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

NỘI DUNG QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÁC NGUỒN LỰC TÁC ĐỘNG ĐẾN
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường nhằm
mục đích:
- Chỉ ra những nhân tố cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xác định
điểm xuất phát nền tảng về điều kiện tự nhiên của địa phương.

- Đánh giá tiềm năng và những tác động của các điều kiện tự nhiên tài nguyên thiên
nhiên và môi trường đến phát triển kinh tế - xã hội.
- Xác định hệ thống số liệu và tư liệu cơ sở phục vụ thiết kế kỹ thuật và kế hoạch phát
triển.
Yêu cầu của nội dung này là:
- Phân tích và làm rõ các tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên làm cơ sở cho việc xây
dựng phương án khai thác sử dụng, đáp ứng các mục tiêu phát triển của từng địa phương.
- Dự báo khả năng khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên trên phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
Nội dung chủ yếu bao gồm:
Phân tích đánh giá các yếu tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển
sản xuất công nghiệp, nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng và tổ chức lãnh thổ.
Trong các thời kỳ 10 năm, 5 năm các yếu tố tự nhiên đã đáp ứng được cho các nhu cầu sản
xuất vật chất như thế nào? như các yếu tố khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và các nguồn tài
nguyên đã tạo ra nguồn lực đầu vào của sản xuất, tạo ra không gian lãnh thổ cho mọi hoạt
động. Bên cạnh đó cũng phải tính tới khả năng của các yếu tố tự nhiên này trong các thời kỳ
tiếp theo có thể là 10 năm, 20 năm hoặc xa hơn, từ đó áp dụng phương thức sản xuất hợp lý
đảm bảo các yếu tố tự nhiên luôn luôn ổn định và bền vững.
Đánh giá tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của vùng và khả năng phối hợp phát triển
cửa vùng với các vùng khác và với quốc tế. Thể hiện mối quan hệ thống nhất trong phạm vi
toàn quốc, khu vực và trên thế giới. Đánh giá những lợi thế và hạn chế về tài nguyên thiên
nhiên trong bối cảnh hợp tác và cùng phát triển theo xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá. Bên
cạnh đó phải xác định được khả năng khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên bền
vững trong điều kiện hợp tác phát triển với quan điểm không lệ thuộc, cùng có lợi. Như vậy
đánh giá được mối quan hệ giữa sản xuất với nguồn nguyên liệu với cơ sở không gian và điều
kiện hình thành sản xuất.
a. Các yếu tố chủ yếu sẽ được phân tích, đánh giá
Để phân tích, đánh giá và dự báo khả năng khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên
cần phân tích đánh giá cụ thể ở các mặt sau:


Thực hiện: TS Hoàng Văn Hùng

50


×