TS. NÔNG QUỐC BINH
TS. NGUYỄN HỒNG BẮC
QUAN HỆ HỒN NHÃN VÀ GIA DÍNH
CỒ YẾU TỐ Nlrác NGOÀI ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP ọuốc TẾ
NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP
HÀ NÔI - 2006
LỜI GIỚI THIỆU
Với chính sách hội nhập kinh tê quôc tế của Đảng và
Nhà nưốc ta, các quan hệ giao lưu quôc tê được mở rộng và
phát triển, trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tô" nưốc ngoài.
Quyền và lợi ích hỢp pháp của các bên trong quan hệ
hôn nhân, quan hệ giữa cha, mẹ, con, quan hệ nuôi con
nuôi có vếu tô" nước ngoài được xác lập hoặc công nhận theo
quy định của pháp luật Việt Nam được tôn trọng và bảo vệ
bằng nhiều biện pháp khác nhau trên cơ sở Hiên pháp,
pháp luật Việt Nam và các điều ước quôc tê mà Việt Nam
đã ký kết hoặc gia nhập.
Cuôn sách “Q uan hệ hôn n h â n và gia đ ỉn h có yếu
tô nước ngoài ở Việt N am trong thời kỳ hội nhập quốc
íé” của TS. Nông Quốc Bình và TS. Nguyễn Hồng Bắc là
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc, các chuyên
gia, các nhà nghiên cứu, sinh viên luật học quan tâm tới
lĩnh vực này.
Xin trân trọng giới thiệu cùng han đoc!
Hà Nội, tháng 4 năm 2006
NHÀ XUẤT BÀN Tư PHÁP
C hương I
NHỬNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỂ QUAN HỆ HÒN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
I. KHÁI NIỆM QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
có YẾU
TÔ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm quan hệ hôn nhãn
Hôn n h ả n là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó
các bên chủ thể gắn kết vói nhau với mục đích tạo dựng
một tê bào của xã hội là gia đình. Khác vối các quan hệ dân
sự bình thường, mục đích của các chủ thể trong quan hệ
hôn nhân không phải nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất
hoặc tinh thần trong một thòi điểm nhất định mà nhằm
xác lập môi quan hệ lâu dài. Thông thường hôn nhân là kết
quả của tình yêu và dựa trên sự tự nguyện của các bên chủ
thể nhằm xây dựng mối quan hệ bềii vOng. Sự bển vững
này tồn tại cùng vỏi cuộc đòi của các chủ thê và được củng
cô bằng các quan hệ phái sinh khác như quan hệ của cha
mẹ đối vối con cái, ông bà đôi với cháu chắt. Nói cách khác,
Quan hệ hôn nhân và gia đinh có yếu tố nước ngoài ở VN...
hôn nhân là cơ sở tạo nên quan hệ vỢ chồng và quan hệ
huyết thống mà tổng hỢp các môi quan hệ này là nền tảng
của gia đình.
Vì hôn nhân là cơ sở tạo nên gia đình nên vê mặt khoa
học. hôn nhân là một khái niệm gắn liền với khái niệm gia
đình. Hai khái niệm này cùng song song tồn tại và phát
triển theo lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong
thời kỳ nguyên thủy, khi con ngưòi còn sông theo bầy đàn.
hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, chưa có phân công
lao động xã hội, do đó chưa có hôn nhân và cũng không có
gia đình, ơ thòi kỳ này, quan hệ giữa đàn ông và đàn bà là
quan hệ tính giao bừa bãi. Thời kỳ quan hệ tính giao này
kéo dài hàng trăm nghìn năm và nó kết thúc bằng sự ra đời
của chê độ quần hôn'" khi có sự phân công lao động xã hội.
Tương ứng với chê độ quần hôn là hình thức gia đình quần
hôn. Hình thức này được coi là hình thức gia đình sớm
nhất. Nó là kết quả liên kết của nhiều ngưòi đàn ông vỏi
nhiều ngưòi đàn bà. Chê độ quần hôn đưỢc hình thành và
phát triển qua hai giai đoạn chính và được thế hiện dưói
hai hình thức gia đình đó là gia đình huyết tộc và gia đình
Pu-na-lu-an (gia đình mà trong đó nhóm các chị em gái lấy
nhóm các anh em trai)'-*. Sau giai đoạn này là sự ra đòi và
Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trinh Luật hôn nhân và
gia đinh Việt Nam, Hà Nội, tr. 4.
Trướng Đại học Luật Hà Nội (1994), Sđd, tr. 4.
8
Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ...
phát triển của hình thái hôn nhân đôi ngẫu và hôn nhân
một vợ một chồng, tương ứng với chúng là gia đình đốì
ngẫu và gia đình có một vỢ một chồng.
Có thê nói, nhìn vào các hình thái hôn nhân trong
từng giai đoạn lịch sử khác nhau ta thây sự khác nhau về
nội dung của khái niệm hôn nhân. Trước kia, trong thòi kỳ
tồn tại hình thức gia đình quần hôn, khái niệm hôn nhân
được hiểu là sự liên kết của nhiều người đàn ông vói nhiêu
người đàn bà nhàm tạo thành một gia đình. Ngày nay khi
chê độ hôn nhân một vỢ một chồng được coi là hình thức
hôn nhân tiến bộ thì khái niệm vê hôn nhân cũng thay đổi.
Nó được hiểu là sự liên kết giữa nam và nữ đế tạo nên
quan hệ vỢ chồng.
Khái niệm hòn nhân đã được nhiều tài liệu đê cập đến.
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển - NXB
Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 thì khái niệm hôn
nhân được hiểu là “việc nam nữ chính thức lấy nhau làm
ượ chồng".
Theo giải thích của Oxford advanced Learner’s
Dictionary do Oxford ưniversity Press xuất bản năm 1992
thì '‘‘hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người đàn ông
với một người đàn bà n h ư vỢ chồng".
Thoo Từ điển giải thích thuật ngữ lu.ật học của Trường
Đại học Luật Hà Nội thì “/lôn nhân là sự liên kết giữa
người nam và người nữ dựa trên nguyên tắc tự nguyện,
binh đắng theo điều kiện và trinh tự luật định, nhằm
Quan hệ hôn nhân và gia đinh có yếu tố nước ngoài ở VN...
chung sống với nhau suốt đời và xảy dựng gia đinh hạnh
phúc và hoà thuận".
Th 00 quy định của khoíin 6 và khoan 10 Điều 8 Luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 thì "Hôn nhàn
là quan hệ giữa vỢ và chồng sau khi đã kết hôn".
Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân và gia đình mang
tính giai cấp sâu sắc. Lịch sử đã chứng minh trong mỗi hình
thái xã hội có các hình thái hôn nhân và gia đình nhất định.
Các hình thái hôn nhân và gia đình này phản ánh bán chất
xã hội mà hình thái hôn nhân và gia đình đó đang tồn tại.
Một xã hội bình đẳng hay bâ't bình đẳng giữa ngưòi với
người sẽ thế hiện ngay trong cuộc sống hôn nhân và gia đình
của xả hội đó. Nói cách khác, nhìn vào cuộc sống hôn nhân
và gia đình, ta có thế nhận biết được phần lón thực trạng của
đời sỗhg xã hội và ngược lại nghiên cứu cuộc sông xã hội có
thế thấy được cuộc sông hôn nhân và gia đình, vì hôn nhân
và gia đình là hình ảnh của một xã hội được thu nhỏ.
Q uan hệ hôn n h à n là quan hệ giữa các chủ thê trong
hôn nhân, nó được xác lập từ khi các bên nam nữ chính
thức lấy nhau làm vợ chồng và chấm dứt khi các bôn không
còn quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật, Có thê
nói, việc xác lập và chấm dứt quan hệ hôn nhân trước hết
hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cá nhân
10
Chương I. Những vấn đề chung về quan hệ HN&GĐ...
trong hòn nhân phù hỢp với quy định của pháp luật.
Quan hệ hôn nhân là loại quan hệ pháp luật dân sự
đặc biệt. Tính chất dân sự và tính chấl clặc biệt trong quan
hệ hôii nhâii dược thê hiện như sau:
Thứ nhát, tính chất dân sư trong quan hê hôn
nhản được biếu hiện ở ba diếni cơ bán: Một là, đôl tượng
điêu chỉnh của pháp luật vê hôn nhân giông như đôi tượng
điêu chỉnh của pháp luật dân sự. Khi quan hệ hôn nhân
đưỢc xác lập thì các quan hệ vê nhân thân (danh dự, nhân
phẫm, uy tín...) và quan hệ tài sán
riêng...) của các chủ thê cũng dược xác lộp và chịu sự điều
chình của pháp luật, về nguyên tắc. các quan hệ nhân thân
và quan hộ tài sán là đôi tượng điêu chinh của pháp luật
dân sự. Hai là, phương pháp điều chỉnh quan hệ hòn nhân
được dựa trên phương pháp điếu chỉnh của luật dân sự". Ví
dụ, ở Việt Nam mặc dù trong phương pháp điều chỉnh quan
hệ hôn nhân có những điếm đặc thù bơi tính chất của quan
hệ này nhúng vì được tách ra từ quan hệ dân sự nên
phương pháp diêu chỉnh của nó clược dựa trên phương
pháp điều chỉnh của pháp luật dân sự. Ba là, các quy định
điêu chỉnh quan hệ hôn nhân đưỢc quy định trong Bộ luật
dân sự. Ví dụ, troiig Bộ luật dân sự của Việt Nam năm
200Õ. các quy dịnh vé hôn nhân dưỢc ghi nhận tại các điểu:
Điều 39 (quyển kết hôn), Điều -10 (qi/vền binh đắng của vợ
Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Sđd, tr. 32.
11
Quan hệ hôn nhân và gia đỉnh có yếu tố nưdc ngoài ở VN...
chồng), Điều 42 (quyền ly hôn)...
Thứ hai, tín h dăc biêt trong q u a n hê hôn n h â n
được thể hiện ở yếu tô tình cảm của các bên chủ thể. Có thể
nói, tình cảm của các bên chủ thể đốì với nhau được coi là
cơ sở cơ bản và phổ biến trong việc xác lập quan hệ hôn
nhân. Dựa trên yếu tô" tình cảm mà quan hệ hôn nhân tồn
tại bền vững, lâu dài, không mang tính chất nhất thòi và
không mang tính chất đền bù ngang giá giông như hầu hết
các quan hệ dân sự khác. Hơn nữa, trong quá trình thực
hiện nghĩa vụ của mình, các chủ thể trong quan hệ hôn
nhân không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn vì lợi ích của
những người khác trong các quan hệ phái sinh từ quan hệ
hôn nhân như quan hệ huyết thống (cha mẹ với con cái)
hoặc quan hệ thân thuộc (cha, mẹ, anh, em, họ hàng của
các bên vỢ và chồng).
Quan hệ hôn nhân là quan hệ được hình thành trên cơ
sở của hôn nhân, nó thể hiện sự liên kết giữa các chủ thể
trong đòi sốhg hôn nhân. Tuy nhiên, đòi sốhg hôn nhân
không phải tự nhiên được hình thành mà nó chỉ được hình
thành khi có sự liên kết của các chủ thể với những điều
kiện nhất định, đồng thòi đòi sốhg hôn nhân không tồn tại
vĩnh viễn mà nó sẽ bị chấm dứt trong những trường hỢp
nhất định.
Trên cơ sỏ mức độ liên kết giữa các chủ thê trong quan
hệ hôn nhân có thể chia quan hệ hôn nhân thành ba giai
đoạn: giai đoạn kết hôn, giai đoạn tồn tại quan hệ vỢ chồng
12
Chương I. Những vấn để chung vé quan hệ HN&GĐ...
và giai đoạn chấm dứt quan hệ vợ chồng. G iai đoan kết
hôn là giai đoạn xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở của
việc kết hôn; g ia i đoan qu a n hệ ượ chồng là giai đoạn
sau khi kết hôn và g ỉa i đoan chấm d ứ t q u a n hệ vợ
chồng là giai đoạn thường được đánh dấu bằng sự kiện
chết của một bên, hoặc bàng việc ly hôn.
Như vậy, quan hệ hôn nhân bao gồm tổng thể ba quan
hệ; quan hệ kết hôn, quan hệ vỢ chồng và chấm dứt quan
hệ vỢ chồng.
2. Khái niệm gia đinh
Gia d in h là hiện tượng xã hội. phát sinh và phát triển
cùng với sự phát triển của xã hội loài ngưòi. Hôn nhân là cơ
sở của gia đình, gia đình là tê bào của xã hội mà trong đó có
sự kết hỢp chặt chẽ, hài hoà lợi ích của mỗi công dân, nhà
nưóc và xã hội. C.Mác và Ph.Ảnghen đã chứng minh rằng,
cùng vài hôn nhân, gia đình là một phạm trù phát triển
theo lịch sử, giữa chê độ kinh tê - xã hội và tổ chức gia đình
có mốì liên quan trực tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và của nhà nước",
Ph.Ảnghen đã nhấn mạnh chê độ gia đình trong xă hội phụ
thuộc vào quan hệ sở hữu thông trị trong xã hội đó; quá
trình chuyến từ hình thái gia đình này lên hình thái gia
đình khác cao hơn suy cho cùng được quy định bỏi những
thay đổi trong điều kiện vật chất của đòi sống xã hội. Bằng
tác phẩm đó, Ph.Ảnghen đã làm thay đôi quan điểm trưóc
đây về các hình thái gia đình trong lịch sử. Ph.Ảnghen là
13
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưổc ngoài d VN...
ngưòi đầu tiên đă phân tích nguồn gốc gia đình từ giai đoạn
thấp nhất của xã hội loài ngưòi, khi con người mói chỉ bắt
đầu tách ra khỏi thiên nhiên, chưa sản xuât ra được một
thứ sản phẩm nào mà chỉ hái lượm những thức ăn sẵn có
của thiên nhiên, vì thê chưa có sự phân công lao động trong
xã hội. Trong thòi kỳ này không có hôn nhân, không có gia
đình; bộ lạc như là một đơn vị duy nhất không tách ròi của
xã hội nguyên thuỷ'". Từ trạng thái nguyên thuỷ đó, bước
tiếp theo của lịch sử đã phát triển những hình thái gia đình
đầu tiên, gia đình huyết tộc, gia đình punaluan, gia đình
đốì ngẫu... gia đình xã hội chủ nghĩa.
Như vậv, xã hội loài ngưòi đã trải qua nhiêu hình thái
gia đình khác nhau. Gia đình là sản phẩm của xã hội đã
phát sinh và phát triển cùng vỏi sự phát triển của xã hội.
Các điều kiện kinh tê - xã hội trong từng giai đoạn phát
triển nhất định là nhân tô" quyết định tính chất và kết cấu
của gia đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xă
hội, là tê bào của xã hội. Gia đình xã hội chủ nghĩa là hình
thái gia đình cao nhất trong lịch sử, khác hản vê chất so
vói gia đình của các chê độ xã hội trưóc đây. Chê độ xã hội
chủ nghĩa quyết định sự xuất hiện và phát triển của gia
đình xã hội chủ nghĩa. Quan hệ bình đẩng vê mọi mặt
giữa vỢ và chồng trong gia đình xả hội chủ nghĩa phản ấnh
mối quan hệ bình đắng giữa nam và nữ trong xã hội
Trường đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình Luật hôn nhân và
gia đinh Việt Nam, Nxb. Công an nhàn dân, Hà Nội, tr. 3-4.
14
Chương Ị. Những vân để chung về quan hệ HN&GĐ...
xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm '"gỉa dinh" đã được đê cập trong các sách
nghiên cứu và trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta.
Theo Từ điển triết học thì “Gia đinh là một hình thức có tính
chất lịch sử của tổ chức đời sông chung của loài người, giữa
nam giới và nữ g i ớ i . . Theo xã hội học thì “Gỉa đinh được
quan niệm là một nhóm xả hội, hình thành trên cơ sở quan
hệ hôn nhản và quan hệ huyết thống"'-'. Cách hiểu vê gia
đình của xã hội học đã mở rộng phạm vi chủ thể gia đình hơn
quan niệm gia đình của triết học. Nếu gia đình theo cách
nhìn nhận của triết học chỉ là quan hệ hôn nhân (tức giữa
nam và nừ), thì theo cách nhìn nhận của xã hội học, gia đình
còn bao gồm cả quan hệ huyết thông (cha mẹ và con).
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển - NXB
Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 thì g ia d in h được
hiểu là “íập hỢp người cùng sông chung thành một đơn vị
nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
nhân và dòng máu, thường gồm có vỢ chồng, cha mẹ và con
cái""*. Theo giải thích của Oxford Advanced Learner s
Dictionary do Oxford University Press xuất bản năm 1992
Từ điển triết học (1972). Nxb.Sựthật, Hà Nội. tr. 354.
Nguyễn Sinh Huy (1999), Xà hội học đại cương. Nxb. Đại học
quốc gia, Hà Nội. tr. 70.
Từ điển tiếng Việt (1994), Trung tàm từ điển, Nxb.Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr.94.
15
Quan hệ hôn nhân và gia đinh có yếu tô nưâc ngoài ỏ VN...
thì "'gia đ ìn h " là nhóm ngưòi bao gồm cha mẹ và con c íi
của họ"’.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì “Gỉ’a
đinh là tập hỢp những người cùng chung sống, gắn bó với
nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thông hoặc nuôi
dường, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau"'^-\ Khái
niệm gia đình lần đầu tiên được quy định tại khoản 10
Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình nàm 2000: “Gia đinh là
tập hỢp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan
hệ huyết thông hoặc do quan Hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh
các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của
Luật này". Đây là khái niệm pháp lý đầy đủ nhất về gia
đình, là sự tập hỢp những ngưòi gắn bó vói nhau do quan
hệ hôn nhân, hu\'ết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, từ
đó làm phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa họ vối nhau theo
quy định của pháp luật vê hôn nhân và gia đình và các quy
tắc của đạo đức xã hội biểu hiện qua những phong tục tập
quán, truyền thổhg đạo lý của gia đình. Bởi vậy, mỗi thành
viên trong gia đình đều gắn bó, cô kết vê quyền và bổn
phận của mình với các thành viên khác, không thể tự mình
thoát ly khỏi môi trường gia đình, thoát ly khỏi xã hội. Như
Oxíord University Press, (1992) Oxhrd Advanced Learner’s
Dictionaiy.
Trường Đại học Luật Hà Nội, (1999), Từ điển giải thích thu ật ngữ
luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 146.
16
Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ...
C.Mác đã từng nói, sông trong xã hội con ngưòi không thế
tách mình ra khỏi xã hội; tự do của mỗi ngưòi không thể
tách khỏi tự do của người khác.
Hiện nay, do sự phát triển của các môl giao lưu dân sự
quổc tê nên tập hỢp những người tạo nên gia đình trong xã
hội Việt Nam không chỉ bó hẹp giữa các thành viên có cùng
quõc tịch và cùng cư trú trên lãnh thổ một nưóc mà còn được
mở rộng giữa các thành viên có quốc tịch khác nhau và có thế
các thành viên đó cư trú ở các nước khác nhau. Trong gia
đình này có thể là vỢ, chồng khác quốc tịch hoặc có thê là vỢ,
chồng, con (và các thành viên khác) khác quổc tịch. Họ có thể
là những ngưòi cùng quôc tịch nhưng cư trú ở các nước khác
nhau. Quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng ở đây cũng có thể phát sinh từ sự kiện pháp lý
xảy ra ở nưóc ngoài. Sự khác nhau vê quốc tịch, ndi cư trú
giữa các thành viên trong gia đình hoặc căn cứ pháp lý làm
nảy sinh quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưõng đó đã làm
cho gia đình loại này khác với gia đình truyền thống trong xã
hội Việt Nam - đó là gia đình có yếu tô nưóc ngoài. Trên cơ sở
khái niệm pháp lý vê gia đình, có thế hiểu; Gia đ ìn h có yếu
tô nước ngoài là tập hỢp những người gắn bó với nhau do
hôn nhản, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng
có yếu tô nước ngoài, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
pháp lý giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật. Gia
đình có yếu tố nưốc ngoài cũng được hình thành trên cơ sỏ
hôn nhân (sự kiện kết hôn giữa hai người khác quôc tịch)
hoặc nuôi dưỡng (người nhận nuôi và con nuôi khác quốc
17
2.QHHN-A
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở VN...
tịch). Do có các sự kiện trên nên trong gia đình này các thành
viên có các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản nhất
định đốì với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ nhau vê vật chất
và tinh thần. Trong gia đình có yếu tô" nưóc ngoài, những yếu
tố tình cảm, huyết thống, sự nuôi dưõng đan xen lẫn nhau
trong mức độ truyền thốhg gia đình khác nhau và tạo nên
môl liên hệ chặt chẽ khác nhau giữa các thành viên. Nhu cầu
giữa các thành viên trong gia đình là được yêu thương, chàm
sóc, nuôi dưỡng, được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
cũng rất khác nhau, đôi khi tuỳ thuộc vào ý thức pháp luật
của mỗi thành viên trong gia đình đó.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình. Theo Điều 7 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 thì “Gia đinh là tê bào của xã
hội... Gia đinh tốt thi xã hội mới tốt, xã hội tốt thi gia đinh
càng tốt". Vậy, gia đình có yếu tô" nước ngoài có phải là tê
bào của xã hội Việt Nam? Trong mỗi chê độ xã hội, gia đình
có yếu tô' nước ngoài đều thực hiện những chức năng cơ bản
của gia đình và một trong các chức năng là tái sản xuất ra
con ngưòi, duy trì nòi giốhg. Đó là quá trình cần thiết của
cuộc sống trong một xã hội nhất định. Quá trình này được
thể hiện ở chỗ ''Hàng ngày tái tạo ra đời sông của bản thản
minh, con người bắt đầu tạo ra những con người khác, sinh
con, nảy nở. Đó là quan hệ giữ a vỢ và chồng, giữa cha mẹ
và con cái - đó là gia đình"^'\
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trinh Luật hôn nhẩn và
gia đình Việt Nam, Nxb.Công an nhàn dân, Hà Nội, tr. 19
18
2.QHHN-B
Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ...
Nếu không có sản xuât và tái sản xuất ra con ngưòi thì
xã hội không thể phát triển được, thậm chí không thể tồn
tại được. Như vậy, gia đình có yếu tò nước ngoài là một
trong những thể chê cơ bản của xã hội. Nó ra đòi, tồn tại và
phát triển trưóc hết là nhò Nhà nước thừa nhận đồng thòi
định ra những biện pháp, những nguyên tắc nhằm ổn định
quan hệ xã hội này. Khoản 1 Điều 100 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 đã thể hiện quan điểm đó; “N/ià nước
Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quan hệ gia đình có yếu tô
nước ngoài...". Như vậy, cũng như gia đình được xác lập từ
những yếu tô trong nưóc, gia đình có yếu tô nước ngoài ở
Việt Nam được coi là tê bào của xã hội Việt Nam.
Như đã trình bày ở trên, có thê thấy “hôn nhăn" và
''gia đinh" là hai khái niệm có môi quan hệ gắn bó mật
thiết vói nhau, cùng tồn tại và nội dung của chúng cùng
phát triển trong sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, về
mặt lý luận thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau và
có tính độc lập nhâ't định. Tính độc lập này được thề hiện ở
hai điểm khác nhau cơ bản, đó là sự hình thành và chủ thể
tham gia trong đòi sông hôn nhân và gia đình.
Thứ nhất, về sự hình thành. Nếu hôn nhân được hình
thành trên cơ sở kết hỢp giữa nam và nữ để xác lập quan
hệ vỢ chồng, thì gia dinh đưỢc hình thành trên nhiều cđ sỏ
khác nhau, trong đó hôn nhân được coi là một trong những
cơ sở phổ biến. Có lẽ chính vì môl quan hệ khăng khít có
tính nhân quả này mà đôi khi khó có thể phân biệt rạch ròi
19
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tô' nước ngoài ở VN...
giữa hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, về chủ thể tham gia. Nếu chủ thể tham gia đòi
sống hôn nhân là các bên xác lập quan hệ vợ chồng thì
trong đòi sông gia đình các chủ thể tham gia không những
chỉ là vỢ chồng mà còn là những ngưòi khác dựa trên cơ sở
của quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng như con đẻ, ông
bà, con nuôi...
Như vậy, có thể nói hôn nhân là một khái niệm độc lập
với khái niệm gia đình. Do đó, việc nghiên cứu quan hệ hôn
nhân cũng được đặt trong sự độc lập của nó vài việc nghiên
cứu quan hệ gia đình.
3.
Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yêu tô
nước ngoài
Theo lý lụận chung về nhà nưóc và pháp luật thì nhu
cầu sinh tồn và phát triển đã buộc con người phải liên kết
với nhau thành những cộng đồng, giữa các thành viên của
cộng đồng luôn nảy sinh những sự liên hệ về vật chất, vê
tinh thần và những mốì liên hệ này luôn có giói hạn nên
người ta gọi là những “quan hệ". Những quan hệ xuất hiện
trong quá trình hoạt động xã hội của con ngưòi, nghĩa là
chúng xuất hiện trong quá trình sản xuất và phân phối của
cải vật chất, trong việc thoả mãn các nhu cầu văn hóa, tinh
thần cùng như trong việc bảo vệ lợi ích của xă hội thì được
gọi là “quan hệ xã hội". Sự hình thành và phát triển của các
quan hệ xã hội diễn ra dưới tác động của nhiều yếu tô khác
nhau song quyết định nhất vẫn là do điều kiện sản xuất và
20
Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ...
sinh hoạt vật chất. Quan hệ xã hội tồn tại khách quan
không lệ thuộc vào ý chí của con ngưòi. Tính khách quan
của chúng thê hiện ở chỗ, con ngưòi sông trong xã hội
không thê tự đặt mình ngoài những môi liên hệ xã hội đang
tồn tại. Xã hội không thể tồn tại thiếu con người và con
người không thề tồn tại ngoài xã hội, ngoài những môl liên
hệ xã hội. Chính vì lẽ đó mà C!Mác gọi “Bản chất của con
người là tổng hoà tất cả quan hệ xả hội""\ Tính tổ chức của
đòi sông cộng đồng đòi hỏi các quan hệ xã hội phải được
điều chỉnh. Điều này có thê thực hiện được bằng cách đặt
ra những quy tắc xử sự buộc mọi người phải tuân theo.
Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú. Quan hệ hôn
nhân và gia đình là loại quan hệ xã hội bao gồm quan hệ
kết hôn, quan hệ giữa vỢ và chồng; cha, mẹ và con; quan hệ
giữa các thành viên khác trong gia đình.
Quan hệ hôn nhăn và quan hệ gia đinh có mối liên
quan mật thiết với nhau. Môl liên quan mật thiết này được
thể hiện ở sự đan xen, chồng lấn giữa chúng. Sự đan xen,
chồng lâ"n này là quan hệ vỢ chồng. Khi nói đến quan hệ
hôn nhân, ngưòi ta không thế không đê cập tói quan hệ vợ
chồng, đồng thòi khi nói đến quan hệ gia đình, ngưòi ta
cũng không thể không nhắc tới quan hệ vợ chồng. Nói cách
khác quan hệ hôn nhân và quan hệ gia đình đều đê cập tói
C.Mác - Anghen toàn tập, (1971), tập 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
tr. 492.
21
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ỏ VN...
quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, hôn
nhân là một khái niệm độc lập với khái niệm gia đình nên
sự chồng lấn này không làm mất đi tính độc lập của quan
hệ hôn nhân đối vói quan hệ gia đình.
Căn cứ vào khoản 14 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 có thể hiểu: Q uan hệ hôn n h â n và g ia đ in h
có yếu tô nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình
phát sinh giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
hoặc giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt
Nam hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Theo khái niệm này, quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tô'nước ngoài hao gồm:
Qutm hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài ,,
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì kết hôn
là việc “nam và nữ chính thức lấy nhau làm vỢ, chồng theo
quy định của pháp luật” hoặc theo khoản 2 Điều 8 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “K ềi hôn là việc
nam và nữ xác lập quan hệ vỢ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Như
vậy, có thể nói kết hôn là thủ tục pháp lý bắt buộc đê xác
lập quan hệ vợ chồng.
22
Chương I. Những vấn để chung về quan hệ HN&GĐ...
Vê mặt pháp lý, kết hôn đã được tuyên bô" là quyên của
con người do đó con ngưòi có quyền được hưởng và có quyển
được pháp luật bảo vệ trong quan hệ hôn nhân trên cơ sở
của các quy định vê điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Đế bảo vệ quyền kết hôn của con người, pháp luật về hôn
nhân và gia đình của hầu hết các nước trên thê giỏi đều
quy định mọi ngưòi đêu có quyền kết hôn khi có đầy đủ các
điều kiện mà pháp luật quy định đồng thòi việc tiến hành
kết hôn phải tuân theo quy định của pháp luật.
Pháp lu ậ t điêu ch ỉn h kết hôn là tổng hỢp các
nguyên tắc, các quv phạm điều chỉnh việc liên kết giữa
nam và nữ nhằm xác lập nên một quan hệ vỢ chồng. Kết
hôn là cơ sở, là tiên đê cho việc tạo ra gia đình - tê bào của
xã hội. Thực tê đã chứng minh rằng một xã hội tốt hay xấu,
thịnh hay suy phụ thuộc rất nhiêu vào từng gia đình trong
xã hội đó, bởi vì gia đình có một vị trí rất quan trọng trong
cả ba phương diện: xã hội, chính trị và kinh tế“’ do đó pháp
luật điểu chỉnh kết hôn là điều tất yếu.
Vê mặt nguyên tắc, ở bất cứ xã hội có giai cấp nào,
pháp luật cũng luôn là công cụ hữu hiệu điều chỉnh quan hệ
kết hôn. Tuv nhiên, nội dung pháp luật điều chỉnh kết hôn
lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, và phong tục
tập quán nhất định. Trong xã hội phong kiến Việt Nam,
Vũ Vàn Mầu (1973) Việt Nam dân luật lược giảng, Tài liệu dùng
cho cử nhàn Luật khoa - Đại học Sài Gòn, Sài Gòn, tr.11.
23
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưổc ngoài ở VN...
với quan điểm vê việc kết hôn là: “//ôn lễ giả tương hỢp nhị
tính chi hiếu, thượng d ĩ sự tôn miếu, n hi hạ dĩ kê hậu th ế
dã, cô quản tử trọng chi", có nghĩa là ‘7ễ hôn tương hợp sự
giao hiếu giữa hai dòng họ, trên đê thờ p h ụ n g tò tiên trong
tông miếu (tức nhà thờ họ) dưới đê kê truyền giòng dõi đời
sau, vi vậy hôn lễ được người quân tử trọng""'. Xuất phát
từ quan điểm cho ràng kết hôn là việc giao hiếu giữa hai
dòng họ nhằm duy trì và phát triển việc thò phụng tố tiên
và nối dõi tông đường, nên trong cổ luật Việt Nam đã đưa
ra các quy định để đạt được mục đích đó. Ví dụ, cố luật
Việt Nam cho phép cha mẹ có quyển sắp đặt việc dựng vợ
gả chồng cho con, ngưòi đàn ông có quyền bỏ vỢ nếu vợ
không sinh được con, ngưòi đàn ông có quyền lấy nhiều vợ
đê có con đàn cháu đông thò phụng tổ tiên... Trong xã hội
Việt Nam hiện đại, ngưòi vỢ có quyền được bình đảng vối
chồng trong quan hệ gia đình. Nguyên tắc này xuất phát
từ quan điểm tiến bộ là nam nữ có quyền bình đẳng trong
mọi lĩnh vực của đòi sông xã hội. Để khẳng định nguyên tắc
tiến bộ này trong quan hệ hôn nhân, Điều 64 Hiến pháp
năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ,
một vỢ một chồng, vỢ chồng binh đẳng".
Như vậy, dựa trên những điều kiện chính trị, kinh tế,
Vũ Vàn Mầu (1970),
cổ luật
Việt Nam Lược thảo, Tài liệu dùng
cho cử nhàn Luật khoa, Đại học Sài Gòn, tr.164.
24
Chương I. Những vấn đề chung về quan hệ HN&GĐ...
phong tục tập quán khác nhau mà pháp luật các nước đưa
ra các quy định khác nhau cho việc xác định tính hỢp pháp
của việc kết hôn. Mặc dù có sự khác nhau trong nội dung
của quy phạm pháp luật, nhưng nhìn chung khi quv định
vê vân đề kết hôn, pháp luật của các nước đều tập trung
vào hai vấn đê pháp lý cơ bản đó là điều kiện kết hôn và
nghi thức kết hôn. Nói cách khác, đê xác định một hôn
nhân hỢp pháp hay không ngưòi ta dựa vào hai tiêu chí
pháp lý, đó là điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn.
Q uan hệ vợ chồng là quan hệ đưỢc xác lập trên cơ sở
của việc kết hôn phù hỢp với quy định của pháp luật. Quan
hệ vỢ chồng bao gồm hai nhóm quan hệ, đó là quan hệ
nhân thân và quan hệ tài sản.
Thứ nhất, đôi vói quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng.
Q uan hệ n h â n th á n giữ a vơ và chồng là quan hệ được
hình thành trên cơ sỏ những chê định pháp luật gắn liền
vói nhân thân của các bên chủ thế như tên gọi, quốc tịch,
uy tín, danh dự, nhân phẩm của các bên, đồng thòi nó
cũng xuất phát từ tình cám của các hên trong quan hệ vỢ
chồng như tình yêu và trách nhiệm của mỗi bên trong
quan hệ vợ chồng. Đế điểu chỉnh quan hệ nàv, ở mỗi chê
độ xã hội khác nhau, nhà nưóc ban hành các quy định
25
Quan hệ hôn nhằn và gia đình có yêu tố nưdc ngoài ở VN...
pháp luật điều chỉnh quan hệ nhân thân giữa vờ và chồng
cũng khác nhau. Bởi vì pháp luật quy định các vấn đề
pháp lý liên quan tới quan hệ nhân thân giữa vỢ và chồng
mang tính xã hội rất sâu sắc. Dưới chê độ phong kiến, với
quan điểm trọng nam khinh nữ, sau khi kết hôn người vỢ
hầu như lệ thuộc vào ngưòi chồng. Ví dụ: Trong xã hội
phong kiến Việt Nam đã từng tồn tại quan niệm “xuất giá
tòng phu”, điều này có nghĩa là ngưòi đàn bà sau khi đi lấy
chồng thì phải theo chồng và phải lệ thuộc hoàn toàn vào
gia đình nhà chồng. 0 một sô" nưóc tư bản trưóc đây pháp
luật quy định khi ngưòi phụ nữ đi lấy chồng thì phải mang
họ chồng, nếu lấy chồng là ngưòi nước ngoài thì phải mang
quốc tịch của nước ngưòi chồng... Nội dung lạc hậu của
quy định kể trên ligày nay đang dần được thay đổi. Hiện
nay pháp luật của nhiều nước trên thê giới và trong nhiều
điều ước quốc tê khi đề cập tói vấn đề này đều có quy định
tiến bộ. Đó là, việc kết hôn và ly hôn không làm thay đổi
quốc tịch ngưòi phụ nữ hoặc việc nhập quôc tịch nước khác
của một trong các bên vỢ chồng không làm thay đôi quốc
tịch của người kia.
Ví dụ, Điểu 9 khoản 2 Công ưốc của Liên
hỢp quốc về loại trừ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ đã quy định:
“Cóc
nước th a m
gia Công ước hoan
nghênh quyền của p h ụ n ữ binh đẳng với nam
giới trong việc thay đổi hoặc g iữ nguyên quốc
26
Chương I. Những vấn đề chung về quan hệ HN&GĐ...
tịch của minh. Đặc biệt
sẽ
bảo đảm rằng khi
người p hụ nữ lấy chồng người nước ngoài
không nhất thiết phải thay đổi quốc tịch trong
suốt quá trinh hôn nhán, không làm người vợ
bị mất quốc tịch hoặc bắt buộc người đó phải
m ang quốc tịch của người chồng".
ở Việt Nam vấn đê quổic tịch liên quan tói quan hệ hôn
nhân cũng được quy định tương đôi cụ thê trong Luật quốc
tịch Việt Nam. Điều 9 và Điều 10 của Luật quốc tịch Việt
Nam quy định: Việc kết hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái
pháp lu ậ t giữa công dân Việt N am với người nước ngoài
không làm thay đổi quốc tịch của các bên ưà việc ượ hoặc
chồng nhập hoặc m ất quốc tịch không làm thay đôi quốc
tịch của người kia.
Thứ hai, đối với quan hệ tài sản giữa vỢ và chồng. Q uan
hệ tà i sản g ỉử a vơ chồng là quan hệ liên quan tói lợi ích
vật chất của các bên vờ chồng đốì vói tài sản. Để đảm bảo
quyền lợi vật chất của vỢ, chồng trong quan hệ hôn nhân,
pháp luật của tất cả các nưóc đều quy định điều chỉnh quan
hệ tài sản giữa vỢ và chồng. Tuy nhiên, nội dung của các quy
định trên đâv có thể khác nhau tuỳ theo chê độ chính trị, chê
độ kinh tê và phong tục, tập quán của mỗi nước.
Ví dụ, dưới chê độ phong kiến, với quan
điểm cho rằng người vỢ là ngưòi sôVig phụ
thuộc trong gia đình, do đó tài sản trong gia
27