Thông tin
Tạp chí luật học - 43
ThS. Nguyễn Hồng Bắc *
uật hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) đ
đợc Quốc hội nớc CHXHCN Việt
Nam khóa X kì họp thứ 7 thông qua ngày
9/6/2000, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2001.
Luật này thay thế Luật HN&GĐ năm 1986
và Pháp lệnh HN&GĐ giữa công dân Việt
Nam và ngời nớc ngoài ngày 2/12/1993
(gọi tắt là Pháp lệnh năm1993).
Luật HN&GĐ năm 2000 đ dành chơng
XI quy định về quan hệ HN&GĐ có yếu tố
nớc ngoài. Những quy định của chơng XI
là bớc đột phá trong lĩnh vực lập pháp của
nớc ta ở lĩnh vực này. Các điều khoản của
chơng XI đợc soạn thảo trên cơ sở kế thừa
một số quy định cơ bản của Pháp lệnh năm
1993 đồng thời có bổ sung một số quy định
mới cho phù hợp với tình hình thực tế của
nớc ta trong giai đoạn hội nhập và phát
triển.
1. Vấn đề yếu tố nớc ngoài trong
quan hệ HN&GĐ
Trớc khi ban hành Luật HN&GĐ năm
2000, cha có văn bản pháp luật nào về
HN&GĐ quy định khái niệm quan hệ
HN&GĐ có yếu tố nớc ngoài, từ đó dẫn tới
nhiều cách hiểu khác nhau. Có ngời cho
rằng trong quan hệ đó chỉ cần yếu tố chủ thể
là đủ nhng một số khác lại xác định có 3
yếu tố nớc ngoài tơng tự nh quy định tại
Điều 826 Bộ luật dân sự Việt Nam năm
1995.
Luật HN&GĐ năm 2000 lần đầu tiên đa
ra khái niệm quan hệ HN&GĐ có yếu tố
nớc ngoài. Khái niệm này không trực tiếp
quy định tại chơng XI mà đợc quy định tại
khoản 14 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000,
trong đó nêu rõ quan hệ HN&GĐ có yếu tố
nớc ngoài là quan hệ HN&GĐ:
a. Giữa công dân Việt Nam và ngời
nớc ngoài;
b.Giữa ngời nớc ngoài với nhau thờng
trú tại Việt Nam;
c. Giữa công dân Việt Nam với nhau mà
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nớc ngoài hoặc tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nớc ngoài.
Ngoài ra, Luật HN&GĐ năm 2000 còn
quy định: "Các quy định của chơng này
cũng đợc áp dụng đối với quan hệ HN&GĐ
giữa công dân Việt Nam với nhau mà một
L
* Giảng viên Khoa luật quốc tế
Trờng đại học luật Hà Nội
Thông tin
44 - Tạp chí luật học
bên hoặc cả hai bên định c ở nớc ngoài"
(khoản 4 Điều 100).
Nh vậy, quan hệ HN&GĐ có yếu tố
nớc ngoài trong Luật HN&GĐ năm 2000
không chỉ bao gồm yếu tố chủ thể mà cả yếu
tố sự kiện pháp lí và tài sản. Đặc biệt yếu tố
chủ thể ở đây đ đợc mở rộng, không chỉ
quan hệ HN&GĐ giữa công dân Việt Nam
với ngời nớc ngoài mà còn bổ sung thêm
những chủ thể mới (giữa ngời nớc ngoài
với nhau thờng trú tại Việt Nam, giữa công
dân Việt Nam với nhau ở nớc ngoài ).
2. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc
về HN&GĐ có yếu tố nớc ngoài
Về nguyên tắc chung, Luật HN&GĐ
năm 2000 quy định thẩm quyền giải quyết
các quan hệ HN&GĐ có yếu tố nớc ngoài
thuộc cơ quan cấp tỉnh. Nghĩa là, các việc về
hành chính giao cho ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ơng còn những
việc về tố tụng giao cho tòa án cấp tỉnh. Cụ
thể:
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ơng thực hiện việc đăng kí kết
hôn, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố
nớc ngoài theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật Việt Nam
(khoản 1 Điều 102 Luật HN&GĐ năm
2000).
Pháp luật quy định giải quyết những việc
hành chính đối với quan hệ trên cho uỷ ban
nhân dân tỉnh cũng xuất phát từ những lí do:
Đây là những quan hệ tơng đối phức tạp,
đòi hỏi phải đợc giải quyết ở những cơ quan
có thẩm quyền cao, với những ngời có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ tốt. Song cũng có
những khó khăn, đó là về điều kiện đờng xá
xa xôi, phơng tiện đi lại khó khăn, thủ tục
rờm rà gây không ít phức tạp cho đơng sự.
Để khắc phục những điểm đó, Luật HN&GĐ
năm 2000 đ có quy định mới, đó là: "Việc
đăng kí kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ giữa
công dân Việt Nam c trú ở khu vực biên
giới với công dân của nớc láng giềng cùng
c trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do
Chính phủ quy định" (khoản 1 Điều 102).
Đây là quy định "mở" của Luật HN&GĐ
năm 2000. Trong nghị định của Chính phủ
cần quy định rõ thẩm quyền giải quyết
những trờng hợp này, nên để cho các cơ
quan chức năng ở cơ sở giải quyết quan hệ
này trên thực tế của địa phơng nhng không
đợc trái với các nguyên tắc cơ bản của Luật
HN&GĐ năm 2000.
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ơng thực hiện việc huỷ kết hôn
trái pháp luật, giải quyết việc li hôn, các
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng, cha mẹ và con, về nhận cha mẹ, con,
nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nớc
ngoài Quy định này vẫn giữ nguyên nh
Pháp lệnh năm 1993 nhng có điểm mới thể
hiện sự vận dụng sáng tạo thực tiễn vào pháp
luật Việt Nam, đó là giao thẩm quyền cho
tòa án nhân dân huyện, quận, thị x, thành
phố thuộc tỉnh nơi c trú của công dân Việt
Nam huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải
quyết việc li hôn, các tranh chấp về quyền và
Thông tin
Tạp chí luật học - 45
nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về
nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ
giữa công dân Việt Nam c trú ở khu vực
biên giới với công dân của nớc láng giềng
cùng c trú ở khu vực biên giới với Việt Nam
theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật Việt Nam.
Quy định trên là hợp lí vì xuất phát từ
thực tế, công dân Việt Nam sinh sống ở khu
vực biên giới lấy vợ, lấy chồng là ngời
Trung Quốc, Lào, Cămpuchia, giữa họ
thờng có mối quan hệ gần gũi với nhau về
điều kiện sinh sống; họ quan niệm lấy nhau
chỉ cần họ hàng chứng kiến; đa số các trờng
hợp ngời dân giáp biên giới sống chung với
nhau, sinh con đẻ cái, khi không hợp nhau
thì tự giải quyết mà không hề có sự can thiệp
của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Vì vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 đ quy định
cho tòa án cấp huyện, quận, thị x, thành phố
trực thuộc tỉnh có thẩm quyền giải quyết
nhằm tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc
thực hiện tốt các quyền tố tụng dân sự, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ, ổn
định quan hệ x hội cũng nh để cho các quy
định của luật đi vào cuộc sống dễ dàng hơn ở
các vùng giáp biên giới.
3. Vấn đề li hôn có yếu tố nớc ngoài
Li hôn có yếu tố nớc ngoài đợc quy
định tại khoản 1 Điều 104 Luật HN&GĐ
năm 2000: "Việc li hôn giữa công dân Việt
Nam và ngời nớc ngoài, giữa ngời nớc
ngoài với nhau thờng trú tại Việt Nam đợc
giải quyết theo quy định của Luật này".
Nh vậy, theo điều luật trên, để giải
quyết việc li hôn giữa công dân Việt Nam
với ngời nớc ngoài thì cả hai bên phải
thờng trú tại Việt Nam hoặc công dân Việt
Nam phải thờng trú tại Việt Nam thì áp
dụng các quy định của Luật HN&GĐ Việt
Nam. Còn "trong trờng hợp công dân Việt
Nam không thờng trú tại Việt Nam vào thời
điểm yêu cầu li hôn thì việc li hôn đợc giải
quyết theo pháp luật của nớc nơi thờng trú
chung của vợ chồng, nếu họ không có nơi
thờng trú chung thì theo pháp luật Việt
Nam" (khoản 2 Điều 104).
Đây là quy định mới của Luật HN&GĐ
năm 2000 so với Pháp lệnh năm 1993. Luật
HN&GĐ năm 2000 khẳng định pháp luật
Việt Nam phải đợc áp dụng và chiếm vị trí
u tiên khi giải quyết việc li hôn giữa công
dân Việt Nam và ngời nớc ngoài thờng
trú tại Việt Nam. Trong khi đó, theo Pháp
lệnh năm 1993 thì tiêu chí đầu tiên để tòa án
vận dụng pháp luật giải quyết quan hệ li hôn
giữa công dân Việt Nam với ngời nớc
ngoài là pháp luật của nớc nơi thờng trú
chung của vợ chồng, còn pháp luật Việt Nam
cũng có thể đợc áp dụng để giải quyết quan
hệ li hôn nhng không phải là tiêu chí đầu
tiên.
Theo Điều 12 Pháp lệnh năm 1993 thì
việc li hôn giữa công dân Việt Nam và ngời
nớc ngoài và những vấn đề phát sinh từ việc
li hôn sẽ đợc giải quyết theo pháp luật của
nớc mà vợ chồng có nơi thờng trú chung,
nếu không có nơi thờng trú chung sẽ giải
Thông tin
46 - Tạp chí luật học
quyết theo pháp luật của nớc mà họ có nơi
thờng trú chung cuối cùng, nếu không có
nơi thờng trú chung cuối cùng thì áp dụng
pháp luật Việt Nam.
4. Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nớc
ngoài
Vấn đề này đợc quy định tại khoản 2
Điều 105 Luật HN&GĐ năm 2000. Qua
nghiên cứu Điều này, chúng tôi thấy có một
số điểm mới so với Pháp lệnh năm 1993 nh
sau:
Thứ nhất, chủ thể trong quan hệ nuôi con
nuôi đ đợc mở rộng hơn. Theo khoản 14
Điều 8 Luật HN&GĐ thì quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nớc ngoài bao gồm những
quan hệ sau:
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa ngời nớc
ngoài và trẻ em Việt Nam c trú trên lnh
thổ Việt Nam;
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa ngời nớc
ngoài và trẻ em Việt Nam c trú ở nớc
ngoài;
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam và trẻ em nớc ngoài ở nớc
ngoài;
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam và trẻ em nớc ngoài c trú trên
lnh thổ Việt Nam;
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai
bên định c ở nớc ngoài;
- Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân
nớc ngoài với nhau phát sinh ở Việt Nam.
Nh vậy, quan hệ nuôi con nuôi đ đợc
mở rộng, không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam với ngời nớc
ngoài mà yếu tố nớc ngoài trong quan hệ
nuôi con nuôi còn bao gồm quan hệ nuôi con
nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở
nớc ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa
ngời nớc ngoài với nhau ở Việt Nam.
Thứ hai, vấn đề áp dụng pháp luật để giải
quyết quan hệ nuôi con nuôi.
Luật HN&GĐ năm 2000 xác định việc
áp dụng pháp luật dựa trên 2 cơ sở:
- Nuôi con nuôi có yếu tố nớc ngoài
đợc thực hiện tại Việt Nam thì quyền và
nghĩa vụ của ngời nuôi và con nuôi, việc
chấm dứt việc nuôi con nuôi đợc xác định
theo pháp luật Việt Nam;
- Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam và ngời nớc ngoài đợc thực hiện ở
nớc ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con
nuôi đợc xác định theo pháp luật của nớc
nơi thờng trú của con nuôi (kể cả trong
trờng hợp cha mẹ nuôi cùng quốc tịch hoặc
khác quốc tịch). Nh vậy, Luật HN&GĐ
năm 2000 đ lấy tiêu chí luật nơi thờng trú
của con nuôi để giải quyết các vấn đề liên
quan đến việc nuôi con nuôi giữa công dân
Việt Nam và ngời nớc ngoài đợc thực
hiện ở nớc ngoài. Đây là điểm quy định
hoàn toàn khác với Pháp lệnh năm 1993,
theo Pháp lệnh, quyền và nghĩa vụ của ngời
nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con
nuôi giữa công dân Việt Nam và ngời nớc
ngoài (bất kể tiến hành ở Việt Nam hay ở
nớc ngoài) đều đợc xác định theo pháp
luật của nớc mà ngời nuôi là công dân, chỉ
Thông tin
Tạp chí luật học - 47
khi cha mẹ nuôi có quốc tịch khác nhau thì
áp dụng pháp luật của nớc nơi thờng trú
của ngời con nuôi (khoản 2 Điều 16 Pháp
lệnh năm 1993).
Ngoài những điểm mới nh phân tích ở
trên thì chế định giám hộ trong quan hệ
HN&GĐ có yếu tố nớc ngoài đợc quy
định tại Điều 106 Luật HN&GĐ năm 2000
cũng có những điểm mới phù hợp với thực tế
hiện nay và phù hợp với các quy định trong
Bộ luật dân sự năm 1995.
Luật HN&GĐ năm 2000 đ kế thừa có
chọn lọc và phát triển Luật HN&GĐ năm
1986. Quan hệ HN&GĐ có yếu tố nớc
ngoài đợc quy định tại chơng XI, với tổng
số 7 điều từ Điều 100 đến Điều 106, đ có
nhiều nội dung mới so với Luật HN&GĐ
năm 1986 và Pháp lệnh năm 1993. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu chơng này, chúng tôi
thấy:
Thứ nhất, phạm vi áp dụng pháp luật
Việt Nam, chủ thể tham gia quan hệ
HN&GĐ đ đợc mở rộng nhng phạm vi
điều chỉnh lại thu hẹp hơn so với Pháp lệnh
năm 1993. Nếu nh Pháp lệnh năm 1993
điều chỉnh 6 loại quan hệ (kết hôn, li hôn,
quan hệ pháp lí giữa vợ chồng, quan hệ pháp
lí giữa cha mẹ và con, nuôi con nuôi, giám
hộ) thì Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ điều
chỉnh 4 loại quan hệ (kết hôn, li hôn, nuôi
con nuôi và giám hộ), còn các quan hệ pháp
lí giữa vợ và chồng (quan hệ tài sản và nhân
thân), quan hệ pháp lí giữa cha mẹ và con
(quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, vấn
đề cấp dỡng giữa cha mẹ và con, vấn đề
truy nhận cha, mẹ, con) cha đợc quy định
cho nên theo chúng tôi, Chính phủ cần sớm
ban hành nghị định hớng dẫn, trong đó cần
có những quy định để điều chỉnh quan hệ
này.
Thứ hai, Điều 102 quy định việc đăng kí
kết hôn giữa công dân Việt Nam c trú ở khu
vực biên giới với công dân của nớc láng
giềng cùng c trú ở khu vực biên giới với
Việt Nam do Chính phủ quy định. Do đó, khi
quy định về vấn đề này nên lu ý một số
điểm nh sau:
- Cần phải tính đến bản sắc văn hóa,
phong tục, tập quán của các dân tộc để xây
dựng các quy định thích hợp;
- Các quy định về trình tự, thủ tục, hồ sơ
phải rõ ràng, dễ hiểu tạo điều kiện thuận lợi
cho công dân Việt Nam cũng nh công dân
nớc láng giềng;
- Nên quy định riêng về mức phí và lệ
phí sao cho phù hợp với mặt bằng thu nhập
và mức sống của ngời dân vùng biên giới.
Hiện nay còn nhiều ý kiến cho rằng:
- Nên quy định thẩm quyền giải quyết
các việc đăng kí kết hôn, nuôi con nuôi,
giám hộ giữa công dân Việt Nam c trú ở
khu vực biên giới với công dân của nớc
láng giềng cùng c trú ở khu vực biên giới
với Việt Nam thì do uỷ ban nhân dân x giải
quyết thì phù hợp hơn;
- Nên quy định trình tự, thủ tục, mức lệ
phí cơ bản nh quy định áp dụng cho công
dân Việt Nam vì đồng bào vùng biên giới
còn khó khăn, thu nhập còn thấp./.