Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hệ thống quản trị rủi ro tại tập đoàn Phú Thái.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.47 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO. Chúng ta đã gia nhập sân chơi
kinh tế lớn nhất thế giới. Điều này là kết quả nổ lực không ngừng của toàn dân tộc sau hơn 30
năm thống nhất đất nước. Đây chính là lúc để Việt Nam chính thức giới thiệu và khẳng định
tên tuổi trên bản đồ kinh tế thế giới. Tuy vậy, không có con đường đi đến vinh quang mà không
có chông gai. Chấp nhận tham gia sân chơi lớn ta phải chấp nhận đối đầu với những đối thủ
lớn, những thử thách lớn. Do đó, cơ hội và rủi ro sẽ luôn đồng hành chúng ta trên con đường
vinh quang này. Một doanh nghiệp biết nắm bắt cơ hội sẽ phát triển vượt bậc. Một doanh
nghiệp biết giải quyết rủi ro sẽ tồn tại vững chắc. Vậy nắm bắt cơ hội và quản lý rủi ro là
phương tiện để phát triển bền vững!
Hiện nay, ngành cà-phê nước ta đang đứng vị trí thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu (sau
Bra-xin). Đó không phải là do may mắn mà cũng là sự cố gắng của Đảng Nhà nước và doanh
nghiệp.kinh doanh cà-phê của Việt Nam. Tuy nhiên với việc gia nhập WTO đã không những
mở ra cơ hội mà nó còn đem lại những rủi ro khắc nghiệt hơn cho ngành cà phê Việt Nam, đặc
biệt là những rủi ro trong cạnh tranh. Chúng ta cần phải cố gắng thực để tìm ra những giải pháp
cho những rủi ro này
Mục tiêu nghiên cứu
Với mong muốn được nghiên cứu ứng dụng kiến thức. Chúng tôi đã chọn đề tài “Giải
pháp cho rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê”. Với mục tiêu xác định được những rủi ro
trong cạnh tranh mà ngành cà phê đang và sẽ gặp sau đó đưa ra những kiến nghị để quản trị
những rủi ro này.
Phương pháp nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ nghiên cứu xây dựng trên cơ sở dữ liệu thứ cấp.
Dựa vào những thông tin đáng tin cậy để đưa ra nhận xét và kết luận.
Phạm vi nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu chỉ tập trung vào phân tích những rủi ro bên trong đặc trưng của
ngành cà phê và những rủi ro trực tiếp trong môi trường vi mô.
Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 5 phần :
Phần 1: Tổng quan về tình hình cà phê Việt Nam
Phần 2: Những rủi ro trong ngành cà phê Việt Nam


Phần 3 : Rủi ro trong môi trường cạnh tranh ngành cà phê Việt Nam.
Phần 4 : Những bài học kinh nghiệm trong phòng chống rủi ro trong cạnh tranh.
Phần 5: Những giải pháp khắc phục rủi ro cạnh tranh trong ngành cà phê.
1. Tổng quan về tình hình cà phê Việt Nam .
1. Những thuận lợi và khó khăn của Cà phê Việt Nam .
1.1. Thuận lợi .
Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi. Đất
đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều
ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Bắc.
Trong đó: tính đến năm 2009 Tây Nguyên đã có 434 nghìn ha cà phê, chiếm hơn 80%
diện tích và sản lượng cà phê cả nước.
- Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng mưa phân bố đều các tháng trong năm ,
nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai
yếu tố ấy đều có ở Việt Nam.
- Các tài nguyên thiên nhiên về đất, nước, rừng, động vật hoang dã tại các vùng trồng cà
phê, đặc biệt là vùng đất Tây Nguyên là vô cùng đa dạng và phong phú, cùng với tổng thể cây
cà phê đã tạo ra một hỗn hợp sản phẩm công nghiệp, du lịch sinh thái - hoang dã - văn hóa, tạo
ra các khái niệm và điểm đến có thể thu hút sự chú ý của thế giới, để cộng hưởng và quảng bá
cho thương hiệu chung của cà phê Việt Nam.
Về nhân công : Tận dụng nguồn nhân công dồi dào, ngành cà phê của nước ta hiện đang thu
hút hàng triệu lao động nhưng phần lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi như
khu vực Tây Nguyên ( Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Kom Tum, Đắc Nông) và khu vực miền
núi Tây Bắc.
Do tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn và miền núi nên tạo điều kiện tận dụng nguồn
nhân công giá rẻ đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Nhờ
đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Kỹ thuật canh tác : Nhận biết được tầm quan trọng của cây cà phê đối với nền kinh tế, nhà
nước ta đã và đang không ngừng hỗ trợ và phát triển kỹ thuật cho cây cà phê. Những kỹ thuật
trồng và chăm sóc cây cà phê ngày càng được chú trọng và nâng cao giúp cho việc giữ ổn định
và áp dụng kỹ thuật thâm canh cà phê ở những nơi có điều kiện sinh thái thích nghi; ghép, cải

tạo hoặc tái canh bằng các giống cà phê mới, đồng thời thực hiện canh tác đúng quy trình thâm
canh, tăng năng suất và chất lượng cà phê xuất khẩu; tiến hành thu hoạch cà phê đúng độ chín.
Những ngành công nghiệp bổ trợ và liên quan:Sau 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà
phê, chúng ta mới có một ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. Cùng với việc mở rộng diện tích
trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới. Những năm gần
đây, nhiều công ty, nông trưòng đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết
bị nhập từ CHLB Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của hãng
Pinhalense-Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do
cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil.
Hiện nay, Trung Nguyên nói riêng và các nhà sản xuất chế biến cà phê Việt Nam nói chung
luôn hết sức chú trọng khâu nghiên cứu, chọn lọc công nghệ chế biến cà phê hiện đại từ các
quốc gia hàng đầu về công nghệ như Đức, Đan Mạch, Ý và kết hợp với các nhà tư vấn hàng
đầu quốc tế để chọn ra những công nghệ tối ưu nhất, giúp Việt Nam không chỉ dừng lại ở chế
biến cà phê thô để xuất khẩu mà còn các mặt hàng phong phú khác như: Cà phê sâm, cà phê
hòa tan, cà phê lon uống liền, cà phê hạt rang .v.v.
Ngoài ra, ngành công nghiệp bánh kẹo hay công nghiệp nước giải khát cũng tạo ra những
sản phẩm manh hương vị cà phê.
Tất cả những điều nêu trên đã giúp cho ngành công nghiệp chế biến cà phê trong nước ngày
càng phát triển hơn và hỗ trợ cho ngành nông nghiệp cà phê Việt Nam.
Các yếu tố khác:Theo số liệu của Hiệp hội cà phê Việt Nam, cà phê mang thương hiệu Việt
Nam hiện nay được tiêu dùng ở trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với sản lượng
xuất khẩu bình quân đạt 850.000 tấn/năm
Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới ngày một tăng cao, ngành cà phê Việt
Nam đang có lợi thế hướng đến việc chi phối thị trường cà phê thế giới trong những năm tới.
Đó chính là chúng ta có sản lượng cà phê robusta (cà phê vối) lớn nhất với giá thành sản xuất
thấp, tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu khác.
Dự báo tiêu thụ cà phê thế giới sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới với tốc độ khoảng
2%/năm và đến năm 2015 thế giới cần tới 140 triệu bao. Đồng thời, việc gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) đã mang lại cho ngành cà phê Việt Nam một thị trường khổng lồ
với hơn 5 tỷ người tiêu thụ và kim ngạch nhập khẩu hàng năm trị giá đến hàng chục tỷ đôla.

Đây thực sự là một cơ hội vàng đối với một quốc gia có diện tích trồng cà phê trên 500.000 ha
như nước ta.
Vụ cà phê năm 2009 được mùa, đầu vụ bán với giá khá cao, trên dưới 1.500 USD/tấn, đến
giữa vụ (khoảng tháng 6), giá cà phê xuống thấp, chỉ bán được khoảng 1.400 USD/tấn. Giá bán
trong nước từ 25 triệu đồng/tấn giảm xuống còn 23 triệu, thậm chí hơn 21 triệu đồng/tấn. Nhiều
người cho rằng, giá cà phê xuống nhanh như vậy là do sự đầu cơ của những nhà nhập khẩu cà
phê Việt Nam. Điều này không phải là không có cơ sở bởi hiện đang có khoảng 12 nhà nhập
khẩu cà phê nước ngoài có mặt tại Việt Nam, tiến hành thu mua cà phê ngay tại vườn, nếu họ
muốn đầu cơ thì hoàn toàn có thể.
Bên cạnh đó, giá cà phê còn phụ thuộc vào cán cân cung – cầu. Năm nay, cà phê của chúng
ta được mùa, trong khi Colombia, nước xuất khẩu cà phê lớn lại mất mùa. Do đó, vào đầu vụ,
thị trường thế giới thiếu hụt cà phê chất lượng cao, người ta tìm mua cà phê của Việt Nam. Khi
người ta thu mua đã đủ để dự trữ, người ta có cơ hội để đầu cơ.
1.2. Thách thức cà phê Việt Nam hiện tại và trong thời gian tới.
Nhiều diện tích cà phê đã chuyển sang giai đoạn gìà cỗi, phát triển không theo quy
hoạch. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt nam thì trong tổng số trên
500.000 ha cà phê của cả nước hiện nay chỉ có khoảng 274.000ha, chiếm 54,8% được trồng ở
giai đoạn sau năm 1993, trong độ tuổi từ 10 – 15 năm. Đây là số diện tích cà phê đang ở giai
đoạn sung sức và cho năng suất cao nhất. Trong những năm tới sản lượng cà phê Việt nam phụ
thuộc chủ yếu vào diện tích này. Trong khi đó số diện tích cà phê còn lại có 139.600 ha , chiếm
27,9% được trồng trong giai đoạn từ 1988 – 1993, đến nay ở tuổi từ 15 – 20 năm, phần lớn diện
tích này đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn già cỗi và khả năng cho năng suất giảm dần. Số diện
tích cà phê trồng từ trước năm 1988 đến nay đã trên 20 năm tuổi có tới 86.400ha chiếm 17,3%.
Những diện tích này đã già cỗi và không còn khai thác có hiệu quả cần phải được thay thế.
Như vậy có thể thấy rằng trong thời gian 5 – 10 năm tới sẽ có trên 50% diện tích cà phê của
Việt nam đã hết thời kỳ kinh doanh có hiệu quả phải cưa đốn phục hồi hoặc phải trồng lại.
Cùng với diện tích cà phê già cỗi tăng lên thì tổng sản lượng cà phê của cả nước sẽ giảm xuống,
không còn khả năng duy trì ở con số khoảng 1 triệu tấn như hiện nay.
Mặc dù một số năm gần đây do giá cả tăng cao, số diện tích cà phê trồng mới được tăng lên
đáng kể, có năm tới gần 30.000ha. Nhưng hầu hết những diện tích trồng mới này không nằm

trong vùng quy hoạch, chủ yếu là được trồng trên những nơi không thích hợp như tầng đất
nông, độ dốc lớn, nơi thiếu nguồn nước tưới v.v… và không ít trong số đó là đất rừng. Do vậy
dù diện tích trồng mới có tăng lên, nhưng do được trồng ở những vùng không thích hợp sẽ khó
có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao do năng suất thấp và chi phí sản xuất tăng cao. Số diện tích
trồng mới này không những không đủ bù đắp phần sản lượng thiếu hụt của những diện tích cà
phê già cỗi phải thanh lý mà còn đe dọa trực tiếp đến tính bền vững của những diện tích cà phê
còn lại do môi trường bị hủy hoại, trong đó đặc biệt là nguồn nước tưới.
Cùng với việc mở rộng diện tích không theo quy hoạch, ngành cà phê Việt nam trong những
năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ 1990 trở đây do có nhiều năm giá cà phê lên cao người trồng
cà phê đã loại bỏ cây che bóng, đồng thời tăng cường bón phân hóa học, lượng nước tưới v.v…
nhằm mục đích đạt được năng suất tối đa. Những biện pháp thâm canh cao độ này không
những đã làm cho cây cà phê nhanh chóng bị kiệt sức, sớm già cỗi mà còn làm cho môi trường
đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, làm phát sinh nhiều loại sâu, bệnh hại, trong đó đặc biệt là nấm
bệnh và tuyến trùng hại rễ. Thực tế trong những năm qua đã có hàng chục ngàn ha cà phê bị
bệnh không có khả năng phục hồi phải thanh lý và nhiều diện tích cà phê già cỗi sau khi thanh
lý cũng không có khả năng trồng lại được cà phê.
Thiếu hụt lao động, chi phí sản xuất ngày một tăng cao. Quá trình canh tác, chăm sóc và
thu hoạch cây cà phê đòi hỏi rất nhiều công lao động. Để thực hiện các khâu chăm sóc làm cỏ,
bón phân, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh hại v.v… và thu hoạch trong một năm, trung bình 1 ha
cà phê cần từ 300 – 400 công lao động, trong đó riêng công thu hái chiếm tới trên 50%. Trước
đây vào thời kỳ thu hoạch cà phê thường có hàng ngàn lao động từ các tỉnh ven biển miền
Trung và đồng bằng sông Cửu long đến vùng Tây nguyên để tham gia thu hái cà phê, nhưng bắt
đầu từ một hai năm trở lại đây số lao động ở các vùng này đến Tây nguyên vào mùa thu hoạch
cà phê đã giảm đi rõ rệt. Do mang tính chất thời vụ rất khắt khe, trong khoảng thời gian thu hái
rất ngắn chỉ khoảng 2 tháng đòi hỏi số công lao động rất lớn chiếm trên 50% số công trong năm
đã làm cho tình trạng thiếu hụt lao động càng trở nên trầm trọng, từ đó đẩy giá ngày công lên
cao. Trước sức ép về thiếu hụt lao động và chi phí ngày công tăng cao, để giảm chi phí công thu
hái người nông dân có xu hướng giảm số lần thu hái xuống còn một đến 2 lần dẫn đến chất
lượng cà phê bị giảm sút do thu hái quả xanh và thiếu hụt điều kiện phơi xấy.
Quá trình công nghiệp hóa không những không thu hút được lực lượng lao động đến từ

các vùng khác mà ngay cả một bộ phận lực lượng lao động thanh niên trẻ, khỏe từ các vùng
trồng cà phê về các thành phố, khu công nghiệp làm cho lực lượng lao động trong ngành cà phê
ngày càng thiếu hụt trầm trọng. Như vậy có thể thấy trước rằng trong những năm tới việc thiếu
hụt lao động sẽ là một áp lực nặng nề cho người trồng cà phê và chi phí công lao động sẽ ngày
càng chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi phí sản xuất. Lợi thế cạnh tranh về giá ngày công
lao động rẻ trong ngành cà phê Việt nam so với các nước khác sẽ không còn.
Cùng với sự thiếu hụt lao động và chi phí nhân công tăng cao, giá cả vật tư phân bón,
xăng dầu v.v… cũng đang có xu hướng ngày càng tăng cao sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng lên,
lợi nhuận thu được từ sản xuất cà phê sẽ ngày một giảm sút. Thực tế trong năm vụ 2007 – 2008
tuy giá cà phê có tăng cao nhưng do chí phí công lao động và vật tư phân bón v.v… tăng cao
nên người trồng cà phê vẫn không thu được nhiều lợi nhuận.
Sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, trên 80% diện tích cà phê cả nước do các hộ nông dân trực tiếp
quản lý, số diện tích cà phê còn lại thuộc các doanh nghiệp Nhà nước quản lý, nhưng sau khi
thực hiện cơ chế giao khoán đến từng người lao động thì số diện tích này thực chất cũng do hộ
nông dân quản lý. So với nhiều nước trồng cà phê trên thế giới thì các hộ nông dân trồng cà phê
của Việt nam đều thuộc dạng nhỏ, lẻ, diện tích hẹp trung bình từ 0,5 – 1ha và mang tính tương
đối độc lập. Số hộ gia đình có diện tích lớn trên 5 ha và sản xuất dưới hình thức trang trại chiếm
một tỷ lệ không đáng kể. Do hình thức tổ chức sản xuất dưới dạng hộ gia đình phân tán, nhỏ lẻ
và tương đối độc lập dẫn đến suất đầu tư/ tấn sản phẩm của từng hộ gia đình nói riêng và toàn
ngành cà phê nói chung tăng cao do hộ gia đình nào cũng phải tự mua sắm máy bơm, phương
tiện vận chuyển, máy xay xát v.v… đầu tư xây dựng sân phơi, kho tàng, v.v… nhưng hiệu quả
sử dụng thấp vì chỉ sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn trong năm từ đó làm tăng chí phí
sản xuất dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Việc tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ
cũng như các dịch vụ khác như vay vốn tín dụng, ngân hàng v.v… cũng hết sức khó khăn, do
diện tích nhỏ, manh mún và khả năng tài chính hạn hẹp. Nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt,
trong đó đặc biệt là nguồn nước ngầm và tài nguyên rừng. Cũng do hình thức tổ chức theo kiểu
sản xuất, nhỏ lẻ, phân tán và tính độc lập tương đối của các hộ gia đình nên sản phẩm làm ra
không những chất lượng không cao mà còn không ổn định do điều kiện hiểu biết và mức độ
đầu tư cho khâu thu hái chế biến khác nhau, từ đó làm cho chất lượng cà phê của toàn ngành bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc xây dựng thương hiệu, chứng chỉ chất lượng hàng hóa khó có

thể thực hiện được.
1.2. Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Theo như số liệu thống kê và biểu đồ trên ta thấy diện tích trồng cà phê của Việt Nam tăng
đều từ năm 1990 đến năm 2001. Khi đạt đến mức 535.000ha vào năm 2001 thì diện tích cà phê
gần như không tăng mà có xu hướng giảm nhẹ. Từ năm 2002 cho đến nay diện tích trồng cà
phê ở Việt Nam chỉ giao động ở quanh mức 500.000ha là do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã đưa ra Chỉ thị về phát triển cà phê. Theo đó, bộ quy định diện tích đất trồng cà
phê chỉ ở 500.000ha, hướng đến tăng năng suất trồng trên mỗi ha. Đặc biệt vào năm 2008, diện
tích đất trồng cà phê tăng lên tới 520.000ha là do giá cà phê tăng đột biến nên người dân đã đua
nhau phá rừng trồng cây cà phê.
Theo như số liệu thống kê, từ năm 1990 đến năm 1995, sản lượng xuất khẩu cà phê tăng
đều do diện tích trồng cà phê tăng. Đặc biệt, tình trạng thiếu hụt cà phê lớn trong những năm
1994-1995 đã làm cho giá cà phê tăng đột biến 2393,56 USD/tấn.
Từ năm 1996 đến 2002 sản lượng xuất khẩu vẫn tăng nhưng giá trị xuất khẩu tăng giảm
không ổn định. Giai đoạn 1999-2002, do cung vượt quá cầu nên giá cà phê xuất khẩu giảm
chưa từng thấy nên mặc dù sản lượng xuất khẩu cao hơn so với những năm trước nhưng giá trị
xuất khẩu sụt giảm.
Niên vụ 2002-2003, sản lượng cà phê xuất khẩu giảm do thời tiết khô hạn kéo dài tại các
tỉnh Tây Nguyên và một số nước xuất khẩu lớn vào năm 2002. Đến đầu năm 2003 nguồn cà
phê của các nước xuất khẩu bị hạn chế trong khi nhu cầu mua vào của các nhà đầu tư, các nhà
máy rang xay trên thế giới tăng đã thúc đẩy giá tăng nhanh hơn.
Những năm tiếp theo (2004 đến 2006) sản lượng xuất khẩu cà phê ở tăng so với năm trước,
sản lượng trung bình khoảng 838.000 tấn. Kể từ niên vụ 2004-2005, các doanh nghiệp xuất
khẩu cà phê bắt đầu áp dụng phương thức hợp đồng kỳ hạn với thị trường cà phê thế giới. Điều
này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong xuất khẩu cà phê. Người trồng cà phê và doanh
nghiệp trong nước không còn bị thiếu thông tin hay phải bán với giá quá thấp so với thị trường
thế giới nữa.
Niên vụ 2007- 2008, cả nước xuất khẩu được 1.077.375 tấn cà phê nhân, đạt giá trị kim
ngạch trên 2,087 tỷ USD. Sản lượng cà phê xuất khẩu niên vụ 2007/2008 giảm 6,5% (đạt 1,077
triệu tấn) nhưng do giá xuất khẩu tăng cao (bình quân cả niên vụ đạt 1.937 USD/T, tăng 474

USD/T so với niên vụ trước) nên kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 500 triệu USD so với niên vụ
2006/2007. Đây là niên vụ thứ 3 liên tiếp ngành cà phê Việt Nam thu được nhiều thành tích,
kim ngạch xuất khẩu cao và là vụ đầu tiên có kim ngạch xuất khẩu đạt 2,087 tỷ USD. Điều
đáng chú ý là trong niên vụ này các doanh nghiệp đã phối hợp với nhau khá tốt, bán rải đều cà
phê trong suốt niên vụ nên không để xảy ra tình trạng đầu vụ bán và giao hàng ồ ạt gây tác
động xấu tới thị trường, tránh tình trạng bị khách hàng ép giá.
Năm 2009, sau khi tăng mạnh vào cuối tháng 7, giá cà phê có xu hướng giảm liên tiếp trên
khắp các sở giao dịch trong tháng 8. Theo giới thương gia, giá cà phê biến động thất thường là
do hoạt động giao dịch trục lợi của các nhà đầu cơ, các quỹ hàng hoá chứ không liên quan
nhiều tới tình hình cung cầu vì cán cân này hiện nay khá cân bằng. Ngoài ra, việc đồng USD
tăng giá một số thời điểm cũng gây giảm sức hút đầu tư vào hàng hoá và ép giá cà phê. Song
nhìn chung, xu hướng giảm giá vẫn lấn át trong 8 tháng đầu năm 2009.
Thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Hiện cà phê nhân của Việt Nam đã xuất khẩu
qua 75 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo như thống kê của Cục Hải quan, sản lượng và giá trị
xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2009 như sau:

×