Tải bản đầy đủ (.ppt) (27 trang)

Bài giảng tài chính hành vi chương 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.89 KB, 27 trang )

Nền tảng tài chính I:
LÝ THUYẾT HỮU DỤNG KỲ VỌNG


Mục tiêu:
• Thảo luận nền tảng tài chính hiện đại – Kinh tế
học chuẩn tắc về hành vi hợp lý.
• Mở rộng Lý thuyết hữu dụng
• Tranh luận về hướng đi mới (Lý thuyết triển
vọng)


Nội dung:
• Kinh tế học chuẩn tắc (tân cổ điển)
• Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng
• Thái độ đối với rủi ro
• Nghịch lý Allais
• Hướng đi mới: Lý thuyết triển vọng


1. Kinh tế học tân cổ điển (chuẩn tắc)


Cá nhân, doanh nghiệp luôn nỗ lực tối ưu
hóa khi đối mặt với những hạn chế nguồn
lực.



Giá trị (giá cả) của 1 tài sản được xác định ở
các thị trường tùy theo cung-cầu.





Các giả định cơ bản về con người:
- sự ưa thích hợp lý (rational)
- tối đa hóa mức hữu dụng
- ra quyết định dựa trên tất cả thông tin liên
quan.


Con người có sự ưa thích hợp lý:
• Con người biết họ thích cái gì và không thích
cái gì. Sự ưa thích của con người là hoàn hảo,
nghĩa là một người sẽ so sánh các lựa chọn có
thể có, đưa ra quyết định ưa thích hơn về một
lựa chọn nào đó. Hoặc họ cho rằng các sự lựa
chọn đó là như nhau, các kết quả sẽ xảy ra
ngẫu nhiên.
• Tính bắc cầu (transitivity):
kem vani > kem chocolate
kem chocolate > kem dâu tây
 kem vani > kem dâu tây
Nếu giả định bắc cầu là không chắc chắn thì
chúng ta không thể xác định lựa chọn tối ưu.


Con người tối đa hóa mức hữu
dụng và DN tối đa hóa lợi nhuận:
• Sự hữu dụng có thể được xem là sự hài lòng về
một kết quả nào đó.

VD: u(2 ổ bánh mì, 1 chai nước) > u(1 ổ bánh
mì, 2 chai nước)
• Có nhiều cách cụ thể hóa hàm hữu dụng, như
hàm logarit:
u(w) = ln(w)


Bảng 1.1: Hàm hữu dụng logarit đối với mức độ giàu có
Mức độ giàu có ($10,000)

u(w) = ln(w)

1

0

2

0.6931

5

1.6094

7

1.9459

10


2.3026

20

2.9957

30

3.4012

50

3.9120

100

4.6052


Hình 1.1: Hàm hữu dụng logarit


Con người sử dụng tất cả thông
tin để đưa ra lựa chọn hợp lý, để
tối đa hóa hữu dụng của bản thân
• Thông tin hiếm khi có sẵn, phải tốn chi phí để
có và để hiểu được thông tin.


2.Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng

• Trong việc đưa ra quyết định tài chính, kết quả
đạt được là không chắc chắn.
• Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng: (John Von
Neumann và Oskar Morgenstern) mô tả những
hành vi hợp lý khi con người phải đối mặt với
sự không chắc chắn.
• Rủi ro có thể đo lường bằng xác suất, sự không
chắc chắn thì không thể đo lường.


Bạn lạc quan hợp lý về tương lai, do đó bạn ấn định
xác suất 40% cho mức giàu có thấp và 60% cho
mức giàu có cao.
Nếu gọi triển vọng này là P1:
P1(0.4, $50,000, $1,000,000)
Mức hữu dụng kỳ vọng là U(P1):
U(P1) = 0.40u(50,000) + 0.60u(1,000,000)
Với hàm hữu dụng logarit, mức hữu dụng kỳ
vọng (dùng bảng 1.1) là:
U(P1) = 0.40(1.6094) + 0.60(4.6052) = 3.4069


Chúng ta hãy xem một triển vọng khác:
P2(0.5, $100,000, $1,000,000)
Mức hữu dụng kỳ vọng của P2:
U(P2) = 0.50(2.3026) + 0.50(4.6052) = 3.4539
Vì thế, nếu người nào đó sử dụng hàm hữu dụng
logarit thì họ sẽ thích P2 hơn so với P1.
Dĩ nhiên chúng ta cũng có thể chỉ ra một hàm hữu
dụng khác cho thấy P1 được ưa thích hơn P2.



3. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI
RỦI RO


• Có nhiều bằng chứng cho thấy tất cả
mọi người đều muốn tránh né rủi ro trong
mọi tình huống.
• Tuy nhiên, người ta sẽ sẵn lòng chấp
nhận rủi ro nếu họ được đền bù cho nó.
VD: khi lựa chọn giữa hai chứng khoán có
tỷ suất sinh lợi kỳ vọng như nhau, bạn sẽ
đầu tư vào chứng khoán có rủi ro thấp
hơn. Nếu bạn đưa ra một quyết định đầu
tư mạo hiểm, bạn sẽ đòi hỏi một tỷ suất
sinh lợi cao hơn để bù đắp cho rủi ro có
thể gặp phải.


Hàm hữu dụng có ích cho việc mô tả sự ưa thích
rủi ro. Với P1, giá trị kỳ vọng của mức giàu có được
tính như sau:
E(w) = 0.40($50,000) + 0.60($1,000,000) = $620,000 = E(P1)

Mức hữu dụng của giá trị kỳ vọng của sự giàu có
được tính như sau:
u(E(w)) = ln(62) = 4.1271
u(E(w)) > U(P1)


 thích có $620,000 hơn là một triển vọng có 40%
cơ hội có $50,000 và 60% cơ hội có $1,000,000. Một
người như vậy là người không thích (ngại) rủi ro.


Hình 1.2: Hàm hữu dụng đối với một cá nhân ngại rủi
ro (hàm lõm)


Chúng ta thường cho rằng con người không thích rủi ro,
nhưng thực tế nhiều người thực sự thích rủi ro. Do đó,
những người này được gọi là người tìm kiếm rủi ro
(thích rủi ro):
u(E(P)) < U(P)
Hình 1.3: Hàm hữu dụng đối với người tìm kiếm rủi ro (hàm lồi)

Mức
hữu
dụng

U(P)
u(E(w))

w1

w2

E(w)
Mức giàu có



Hình 1.4: Hàm hữu dụng đối với một cá
nhân thờ ơ rủi ro

Mức
hữu
dụng

U(P) = u(E(w))

w1

w2

E(w)
Mức giàu có


4. Nghịch lý ALLAIS:

là một ví dụ cho sự vi

phạm lý thuyết hữu dụng kỳ vọng

Câu hỏi 1: A hay A*?
Triển vọng A
$1,000,000 100%

Triển vọng A*
0


1%

$1,000,000 89%
$5,000,000 10%
Câu hỏi 2: B hay B*?
Triển vọng B

Triển vọng B*

0

0

89%

$1,000,000 11%

90%

$1,000,000 10%


Nếu lý thuyết hữu dụng kỳ vọng được sử dụng để xếp hạng
các kết quả, A sẽ được ưa thích hơn A*, tức là U(A) > U(A*):
U(A) = u($1,000,000) > 0.89u($1,000,000) + 0.1u($5,000,000) = U(A*)

Đơn giản hóa, chúng ta có:
0.11u($1,000,000) > 0.1u($5,000,000) (1)
Một lần nữa, nếu lý thuyết hữu dụng kỳ vọng đúng thì sẽ có sự

ưa thích B* hơn B, tức là: U(B*) > U(B), ngụ ý:
0.1u($5,000,000) > 0.11u($1,000,000)
(2)

Mâu thuẫn


John Conlisk đã tìm ra được tính thuyết phục của
nghịch lý Allais. Ông đã có một số thay đổi câu hỏi
ở bảng 1.2. Ông thấy rằng khi trình bày câu hỏi
theo mẫu đã cho sinh viên thấy lựa chọn giữa A và
B giống A* và B* như thế nào, các vi phạm mức
hữu dụng kỳ vọng đã giảm đáng kể.
Câu hỏi 1
Triển vọng A

Triển vọng A*

$1,000,000

89%

$1,000,000

89%

$1,000,000

11%


0

1%

$5,000,000

10%

Câu hỏi 2
Triển vọng B

Triển vọng B*

0

89%

0

89%

$1,000,000

11%

0

1%

$5,000,000


10%


Đối với câu hỏi 1, cả A và A* đều có 89% cơ
hội được $1,000,000, vì vậy nó không đưa ra
được cơ sở để thích A hay A*. Đối với câu hỏi
2, cả hai khả năng đều có 89% xác suất rơi vào
giá trị “0”, một lần nữa không có cơ sở cho sự
lựa chọn bởi vì cả hai triển vọng đều như nhau.
Chú ý rằng sau khi loại bỏ những sự tương
đồng đó, bây giờ các sự lựa chọn giữa khả
năng A và A* hoặc B và B* hoàn toàn giống
nhau. Do đó, chúng ta nên chọn A và B hay A*
và B*?. Không có sự trợ giúp, nhiều người có
vẻ không hiểu cấu trúc của quyết định và đã
chọn A và B*.


Nghịch lý Allais không phải là một vi phạm lý
thuyết hữu dụng kỳ vọng duy nhất được phát
hiện. Thỉnh thoảng, các nhà nghiên cứu
chứng minh được con người không đưa ra
các quyết định hợp lý với các tiền đề của lý
thuyết hữu dụng kỳ vọng.
Thất bại trong việc sắp xếp các kết quả dựa trên
cơ sở nhất quán và sự thiếu tính bắc cầu (sự
độc lập về bối cảnh):
Giả sử một người thấy không có sự khác nhau giữa
hai triển vọng A và B.

Nếu chúng ta xem xét một triển vọng khác là C.
Sự độc lập có nghĩa là người này sẽ thấy không có
sự khác nhau giữa kết hợp A với C và kết hợp B
với C, với việc cố định xác suất xảy ra.


nhiều bằng chứng cho thấy
quyết định của con người thì
không giống nhau ứng với cách
trình bày khác nhau.

Đây chính là một sự vi phạm lý thuyết hữu
dụng kỳ vọng, một lý thuyết dựa trên giả định
con người có những lựa chọn hợp lý, bất chấp
cách trình bày như thế nào.
Các nhà tâm lý và kinh tế học đã minh chứng
mẫu hình có ảnh hưởng đáng kể đến quyết
định mà con người đưa ra, bao gồm cả những
quyết định tự nhiên trong lĩnh vực tài chính.


Xấu trai?


×