TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG & ĐÔ THỊ
BÁO CÁO THU HOẠCH ĐỢT THỰC TẬP TẠI QUẢNG NINH
Nội dung: Phân tích những nguồn lực chính của Quảng Ninh mà Anh
(Chị) biết cho phát triển kinh tế xã hội.Quan điểm của cá nhân đối với
việc ưu tiên phát triển nguồn lực đó từ nay đến năm 2020.
Họ và tên : Hàn Trần Việt
Lớp : Kinh tế quản lý môi trường 47.
Khoa : Kinh tế quản lý Tài nguyên, Môi trường và Đô thị.
Giảng viên hướng dẫn: Ths.Nguyễn Quang Hồng. Khoa Kinh tế quản lý Tài
nguyên, Môi trường và Đô thị.
Ths. Đinh Đức Trường. Khoa Kinh tế quản lý Tài
nguyên, Môi trường và Đô thị.
HÀ NỘI, 2008
Lời mở đầu
Việc xác định được các nguồn lực chủ đạo dựa vào những điều kiện thuận lợi của
quốc gia, vùng, hay địa phương có một ý nghĩa hết sức quan trọng cho phát triển
kinh tế xã hội.Đó có thể là lợi thế tuyệt đối hay cũng có thể là lợi thế so sánh của
vùng này với vùng khác.Dựa vào các nguồn lực đó, các nhà hoạch định chính sách
sẽ có những phương án, các đề xuất để có thể tận dụng tối đa các nguồn lực cho
phát triển kinh tế xã hội, tạo ra một những nét đặc trưng cho một quốc gia, một
vùng, một địa phương đó.
Sau đợt thực tập kéo dài 4 ngày tại Quảng Ninh, được nghe, được trực tiếp chứng
kiến sự thay đổi từng ngày, từng giờ trên mảnh đất này, tôi thật sự bất ngờ chỉ sau
mấy năm quay lại.Để được sự phát triển như ngày hôm nay, trước tiên đó là nỗ lực
của chính quyền và nhân dân địa phương, biết phát huy nội lực, ngoại lực trên cơ sở
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Trong báo cáo này, tôi xin nêu ra các nguồn lực chính của Quảng Ninh để phát triên
kinh tế xã hội. Đó là: vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, dân cư và nguồn lao động,
cơ sở vật chất - kỹ thuật và đường lối phát triển.
2
I, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Quảng Ninh là một tỉnh lớn ở địa đầu phía Đông Bắc Việt Nam.Tỉnh có hình dáng
của hình chữ nhật lệch nằm chếch theo hướng Đông Bắc – Tây Nam.Phía Tây nằm
tựa vào núi non trùng điệp.Phía Đông nghiêng xuống nữa đầu của vịnh Bắc Bộ với
vùng biển khúc khuỷu, nhiều cửa sông, nhiều bãi triều, với hơn 2.000 hòn đảo lớn
nhỏ, trong đó có 1.030 hòn đảo có tên, còn lại không có tên.
Quảng Ninh có tọa độ địa lý khoảng 126
o
26
’
đến 108
o
31’ kinh độ đông và từ 20
o
40
’
đến 21
o
40
’
vĩ độ bắc.Điểm cực nam ở xã Mạ Vùng huyện Vân Đồn, điểm cực tây là
sông Vàng Chua, ở huyện Đông Triều, điểm cực bắc là dãy núi cao thuộc huyện Bình
Liêu, điểm cực đông là Mũi gót, xã Trà Cổ, Móng Cái.
Quảng Ninh có biên giới quốc gia và hải phận giáp với nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa.Diện tích tự nhiên của toàn tỉnh là 8.239, 243 km
2
( phần đã xác định)
trong đó diện tích đất liền là 5.938 km
2
, vùng đảo, vịnh, biển là 2.448.253km
2
Với một vị trí địa lý đặc biệt như vây, Quảng ninh đã có nhiều điều kiện để phát triển
kinh tế biển, phát triển du lịch, phát triển hoạt động thương mại trên biển cũng như
trên đất liền thông qua các cảng biển, cửa khâu.Đây cũng là những nguồn thu chủ yếu
vào ngân sách hàng năm của tỉnh.
* Kinh tế biển.
Đó là bờ biển rộng 250 km, diện tích mặt biển rộng trên 6.000km
2
với rất nhiều hòn
đảo lớn nhỏ, nhiều vịnh và các bãi triều.Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi
trồng, đánh bắt thuỷ hải sảnVùng biển Quảng Ninh có nguồn lợi thuỷ sản phong phú,
nhiều loại tôm cá, nhiều loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao ở trong nước và xuất
khẩu, đó là các loại cá như, cá chim, cá thu, cá ngừ, các loại tôm cua, hải sâm, sò
huyết.., nguồn tài nguyên khoáng sản ven bờ phong phú, đa dạng ( cát, titan…); hệ
thống cảng biển, cảng thuỷ nội bộ phong phú( bao gồm 6 cảng biển, hàng trăm cảng
bến thuỷ nội địa).Đặc biệt, Quảng Ninh còn có Vịnh Hạ Long – Di sản thiên nhiên
thế giới, và nhiều bãi đẹp là địa danh lý tưởng cho phát triển du lịch ở Vân Đồn, Trà
Cổ, Bãi Cháy...Với lợi thế đặc biệt thuận lợi đó, Quảng Ninh đang tập trung phát
triển kinh tế biển cho xứng với tiềm năng, lợi thế, yêu cầu đặt ra và đã đạt được
những mục tiêu cụ thể.
+ Về du lịch
3
Có thể nói trong những năm qua, du lịch Quảng Ninh đã thật sự chuyển mình, đóng
góp lớn cho sự phát triển du lịch của cả nước và phát triển kinh tế, xã hội của địa
phương.Tổng số khách du lịch từ năm 2001 đến năm 2007 bình quân hàng năm tăng
14%, trong đó khách du lịch quốc tế tăng 16%, doanh thu tăng 25%.Hoạt động du
lịch đã tác động tích cực đến ngành kinh tế dịch vụ, tạo thêm nhiều việc làm cho
người lao động, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.Với những giá trị tiềm tàng
vốn có, Vịnh Hạ Long đã hội tụ những điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển
ngành kinh tế du lịch, đã từng hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên
thế giới.Đến với Hạ Long, du khách có thể tham gia các loại hình du lịch như: ngắm
cảnh, bơi thuyền, tắm biển…Trong những năm tới, ngành du lịch sẽ mở thêm nhiều
tuyến thăm quan mới và tăng thêm nhiều loại hình du lịch hấp dẫn.Sự tăng trưởng về
khách du lịch ở Hạ Long được đánh giá là nhanh nhất ở Việt Nam trong những năm
gần đây.Năm 1996, Vịnh Hạ Long đón 236 lượt khách, thì đến năm 2003, Vịnh Hạ
Long đón 1.203.919 lượt khách.Dự đoán năm 2008, Hạ Long sẽ đón khoảng 2,5 triệu
lượt khách và mục tiêu đến năm 2010, Hạ Long sẽ là điểm đến của 5-6 triệu lượt
khách.
+Về nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản
Quảng Ninh có nguồn lợi thuỷ sản rất phong phú , có nhiều loại tôm cá, nhiều loại
hải sản quý có giá trị kinh tế cao ở cả trong nước và xuất khẩu.Đánh bắt hải sản ở
Quảng Ninh là một nghề truyền thống, có lịch sử lâu đời, không những có ý nghĩa về
mặt kinh tế xã hội mà còn có ý nghĩa về văn hoá và du lịch.Ngày nay, tỉnh đã đầu tư
nâng cấp tầu thuyền, ngư cụ trang thiết bị hiện đại để đánh bắt xa bờ,nâng cao sản
lượng.Theo thống kê, tỉnh Quảng Ninh có 7.170 tầu, thuyền làm nghề khai thác thuỷ
sản, trong đó có 6.780 phương tiện khai thác ven bờ chiếm gần 96%Hàng năm khai
thác được 21.000 tấn hải sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.
Bên cạnh nguồn lợi hải sản tự nhiên Quảng Ninh còn có tiềm năng rất lớn để phát
triển nuôi trồng thuỷ sản trong các vùng nước lợ, nước mặn và nước ngọt góp phần
làm giàu cho tỉnh.Tổng diện tích đất đai Quảng Ninh là 587.679 ha, trong đó diện tích
nước ngọt có khả năng nuôi trồng thuỷ sản là 12.990 ha, diện tích rừng ngập măn ven
biển là 43.093 ha, trên 20.000 ha diện tích eo biển kín gió xen kẽ đảo nhỏ của Vịnh là
điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.Với mục tiêu
4
năm 2005 đạt 50 nghìn tấn hải sản, trong đó sản lượng khai thác là 25 nghìn tấn và
sản lương nuôi trồng là 25 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 60-65 triệu USD.Toàn
tỉnh có 16.235 ha nuôi trồng thuỷ sản trong đó diện tích nươc ngọt là 1.850 ha, diện
tích nuôi nước mặn, nước lợ là 14.385 ha, có 9 trại sản xuất tôm giống với công suất
thiết kế 538 triệu con giống P15/ năm và một trại sản xuất giống cá nước ngọt.Sở
Thuỷ sản Quảng Ninh chỉ đạo phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng bền
vững.Quy hoạch 9 vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung và các vùng nuôi tôm, nhuyễn
thề ở các bãi ven biển.Quy hoạch vùng nuôi cá nồng bè, nuôi trai ngọc trên vịnh Hạ
Long và Bái Tử Long.Đến nay, có trên 1.800 lồng nuôi cá biển, ngọc trai, hàng năm
xuất khẩu 2 triệu USD ngọc trai hưng phẩm.Đặc biệt trong những năm gần đây nuôi
cá nước ngọt đã có bước phát triển rất mạnh trên địa bàn toàn tỉnh, nhất là ở các vùng
chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản.Nhiều mô hình
nuôi cho năng suất 20 tấn/ha/vụ, thu lãi hàng trăm triệu đồng, giá trị thu nhập tăng
gấp hàng chục lần so với canh tác lúa truyền thống.Đến nay, toàn tỉnh đã chuyển đổi
được hơn 500 ha đất canh tác kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản, đã quy hoạch
được vùng nuôi cá nước ngọt ở vùng Đông Triều, Uông Bí, Yên Hưng, nuôi thuỷ sản
nước lợ tập trung chủ yếu ở Tiên Yên, Hoành Bồ, Hải Hà, Móng Cái.
Về chế biến thuỷ sản, có hai thị trường lớn là thì trường nội đia và phục vụ xuất
khẩu.Các cơ sở chế biển sản xuất ổn định, các doanh nghiệp đã tập trung vào các sản
phẩm chủ đạo như: cá đông lạnh, mức khô để phục vụ xuất khẩu sang các thị trường
như Mỹ, Pháp, Nhật, ..Toàng tỉnh có hai cơ sở chế biến thuỷ sản xuất khẩu, một công
ty chế biến thủy sản chất lượng cao phục vụ tiêu dùng trong nước.Tổng công suất cấp
đông của cả 3 doanh nghiệp này là 50tấn/ngày, tổng công suất kho bảo quản lạnh trên
2.000tấn.Các doanh nghiệp này cũng đã tập trung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, công
nghệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.Hệ thống chế biến thủy sản
nội địa tuy còn nhiều bất cập nhưng phần nào cũng đã giải quyết được vấn đề tiêu thụ
sản phẩm cho bà con.Các cơ sở chế biến chủ yếu sản xuất các sản phẩm truyền thống
như nước mắm, mực khô, tôm khô, bột cá chăn nuôi.Trong đợt thực tập vừa rồi, tôi
cũng có cơ hội đến thăm quan cơ sở chế biến nước mắm Cái Rồng ở huyện đảo Vân
Đồn.Việc sản xuất nước mắm ở đây mang tính thủ công, sản lượng không cao, và cơ
sở này chỉ có thề thu mua khoảng được 40%- 50% nguyên liệu cá từ ngư dân.Và đây
5