Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

KỶ yếu hội NGHỊ 25 năm đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 204 trang )

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

KỶ YẾU HỘI NGHỊ
25 NĂM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

NĂM 2013
1


MỤC LỤC
STT

Nội dung

Đơn vị

Tên/chức danh

1

Quản lý đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Vam 25 năm qua
và định hướng cho giai đoạn mới

Bộ Kế hoạch và
Đầu tư.

Đ/c Bùi Quang
Vinh, UVTW Đảng,
Bộ trưởng Bộ Kế


hoạch và Đầu tư

2

Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Vam: 25 năm thu hút và phát
triển

Bộ Kế hoạch và
Đầu tư.

3

Phân cấp quản lý fdi – lợi thế đối
với thu hút FDI

Thứ trưởng
Đào Quang Thu

Hiệp hội doanh
nghiệp đầu tư
nước ngoài

Chủ tịch GS.TSKH
Nguyễn Mại

4

Đầu tư nước ngoài trong phát
triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại

Việt Nam

Bộ Công thương

Lãnh đạo Bộ

5

Chính sách thuế và ưu đãi đầu tư
trong đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam

Bộ Tài chính

Lãnh đạo Bộ

6

Chính sách đất đai đối với đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam

Bộ Tài nguyên
Môi trường

Lãnh đạo Bộ

7

Đầu tư nước ngoài với phát triển
cơ sở hạ tầng tại Việt Nam


Bộ Giao thông
Vận tải

Lãnh đạo Bộ

8

Đầu tư nước ngoài trong hoạt
động đổi mới và chuyển giao Bộ Khoa học Công
nghệ
công nghệ ở Việt Nam

Lãnh đạo Bộ

9

Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn

Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông
thôn

Lãnh đạo Bộ

10

Công tác cải cách thủ tục hành

chính và thu hút đầu tư nước
ngoài

Văn phòng Chính
phủ

Lãnh đạo VPCP

11

Định hướng phát triển KCN,

Bộ Kế hoạch và

Vụ trưởng

2


KKT để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài

Đầu tư.

Vụ Quản lý các
KKT
Vũ Đại Thắng

12


13

Cơ chế phối hợp trong công tác
quản lý nhà nước về FDI

UBND thành phố
Hà Nội

Thực hiện phân cấp quản lý về
đầu tư nước ngoài tại tỉnh Đồng
Nai

UBND tỉnh Đồng
Nam

Phó Chủ tịch UBND
thành phố Hà Nội
Nguyễn Văn Sửu

Lãnh đạo UBND
tỉnh Đồng Nam

Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
phát triển kinh tế -xã hội và công
tác quản lý nhà nước về đầu tư
trực tiếp nước ngoài dưới góc độ
địa phương

UBND tỉnh Vĩnh
Phúc


15

Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh
Hải Dương

UBND tỉnh Hải
Dương

16

Bắc Ninh nhìn lại 15 năm thu hút
đầu tư nước ngoài những điều
chỉnh chính sách trong thời gian
tới

UBND tỉnh Bắc
Ninh

17

Đầu tư trực tiếp nước ngoài với
phát triển kinh tế xã hội tại Nghệ
An

UBND tỉnh Nghệ
An

Lãnh đạo UBND

tỉnh Nghệ An

18

Đầu tư trực tiếp nước ngoài với
phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh
Hà Tĩnh

UBND tỉnh Hà
Tĩnh

Lãnh đạo UBND
tỉnh Hà Tĩnh

19

Đầu tư trực tiếp nước ngoài với
phát triển kinh tế xã hội tại Đà
Nẵng

UBND thành phố
Đà Nẵng

Chủ tịch UBND

20

Đầu tư nước ngoài với phát triển
kinh tế xã hội tại tỉnh Phú Yên


UBND tỉnh Phú
Yên

Lãnh đạo UBND
tỉnh Phú Yên

14

Chủ tịch UBND tỉnh
Vĩnh Phúc
Phùng Quang Hùng

Lãnh đạo UBND
tỉnh Hải Dương

Chủ tịch UBND tỉnh
Bắc Ninh
Nguyễn Nhân Chiến

Văn Hữu Chiến

3


21

Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
phát triển kinh tế -xã hội địa
phương và công tác quản lý nhà
nước về đầu tư nước ngoài dưới

góc độ địa phương

UBND tỉnh Ninh
Thuận

Lãnh đạo UBND
tỉnh Ninh Thuận

22

Đầu tư trực tiếp nước ngoài với
phát triển kinh tế xã hội tại tỉnh
Bình Dương

UBND tỉnh Bình
Dương

Lãnh đạo UBND
tỉnh Bình Dương

23

Thách thức và kiến nghị cho việt
nam trong việc thu hút FDI trong
thời gian tới – EUROCHAM

EUROCHAM

24


Phối hợp điều tra và đánh giá tình
hình đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài của Việt Nam trong 25 năm
qua

AUSCHAM

25

Môi trường đầu tư tại Việt nam JETRO

JETRO

26

Môi trường đầu tư tại Việt nam

Amcham

Ông Mark Gillin,
Phó Chủ tịch
Amcham

4


QUẢN LÝ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 25
NĂM QUA VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO GIAI ĐOẠN MỚI
Đ/c Bùi Quang Vinh
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư


Là một trong những dấu ấn đậm nét nhất của chính sách đổi mới kinh tế,
Luật Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam được ban hành lần đầu tiên vào
tháng 12 năm 1987, trở thành khung khổ luật pháp cơ bản đầu tiên cụ thể hóa
quan điểm của Đảng ta về mở cửa, hội nhập. Tuy có đôi lúc thăng trầm, song
khu vực kinh tế có vốn ĐTNN nói riêng và các hoạt động kinh tế đối ngoại nói
chung đã thể hiện vai trò tích cực trong thành tựu tăng trưởng, phát triển của
Việt Nam suốt 25 năm qua, và ngày càng khẳng định ảnh hưởng tích cực nhiều
mặt đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời gian tới.
Trong giai đoạn đầu mở cửa, ĐTNN là giải pháp hữu hiệu góp phần đưa
Việt Nam ra khỏi tình thế khó khăn của tình trạng bị bao vây, cấm vận; khẳng
định xu thế mở cửa và quan điểm “Việt Nam muốn là bạn của các nước trong
cộng đồng thế giới”. Trong các giai đoạn tiếp theo, ĐTNN là nguồn vốn bổ sung
quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần đáng kể thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, khai thông thị
trường quốc tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế, đóng góp ngân sách nhà nước, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và
tạo thêm việc làm.
Bên cạnh những đóng góp trực tiếp nêu trên, ĐTNN đã có tác động lan
tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, trong đó có việc khơi dậy
các nguồn lực đầu tư trong nước, tạo sức ép cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới và
chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất; phát triển ngành công
nghiệp phụ trợ, góp phần đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị sản
xuất toàn cầu. Đến nay, Việt Nam đã trở thành điểm đến của nhiều tập đoàn
hàng đầu trên thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau như BP, Total, Toyota,
Canon, Samsung, Intel, Unilever… với những sản phẩm chất lượng quốc tế, qua
đó vừa vừa góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ khu vực và thế
giới, vừa góp phần tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước
nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. ĐTNN cũng đóng vai trò tích cực
trong việc hỗ trợ cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích đổi

mới thủ tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
5


Mặc dù ĐTNN đã đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, song việc
thu hút ĐTNN thời gian qua chưa đạt được một số mục tiêu như kỳ vọng. Đó là
tỷ lệ dự án sử dụng công nghệ cao còn thấp, chưa thu hút được công nghệ
nguồn, tỷ lệ việc làm mới chưa cao. Tình trạng cấp Giấy chứng nhận đầu tư
không phù hợp với quy hoạch; chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề an ninh quốc
gia; chưa chú ý đến hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản... còn diễn
ra ở nhiều địa phương. Nhiều dự án chưa được thẩm tra, xem xét kỹ các khía
cạnh công nghệ, lao động, môi trường, lao động... dẫn đến chất lượng dự án
chưa cao. Những hạn chế vốn có của hoạt động đầu tư tư nhân như chuyển giá;
không đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động về giờ làm việc, tiền
lương, phúc lợi, dẫn đến việc đình công, bãi công; vi phạm pháp luật về môi
trường chậm được khắc phục.
Trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư gián tiếp không còn ổn định do tình
hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, ODA có xu hướng giảm dần do Việt
Nam tham gia vào hàng ngũ nước có thu nhập trung bình, nguồn vốn trong nước
còn hạn chế, thì ĐTNN càng trở thành là nguồn lực quan trọng cho mục tiêu
phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ chiến lược mới với mục tiêu
đến năm 2020 đưa nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại hóa, thu hút ĐTNN trong giai đoạn tới cần quán triệt định hướng sau:
Một là, cần tạo bước chuyển mạnh về thu hút ĐTNN từ chạy theo số
lượng sang chọn lọc các dự án có chất lượng, công nghệ cao, thân thiện với môi
trường và phù hợp với định hướng tái cấu trúc nền kinh tế của từng vùng, từng
ngành và quốc gia.
Hai là, đặc biệt quan tâm thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm cạnh
tranh cao tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, từ đó

xây dựng, phát triển hệ thống các ngành, các doanh nghiệp phụ trợ.
Ba là, quy hoạch thu hút ĐTNN theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với
lợi thế của từng vùng để phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng
vùng và phù hợp tổng thể lợi ích quốc gia.
Bốn là, chuyển dần thu hút ĐTNN với lợi thế giá nhân công rẻ sang cạnh
tranh bằng nguồn lực chất lượng cao.
Để thực hiện thành công các mục tiêu về thu hút và sử dụng ĐTNN thời
gian tới theo định hướng nêu trên thì việc đề ra những giải pháp mang tính đột
phá, có hiệu quả và có tính thực thi cao là yếu tố cực kỳ quan trọng. Ngoài các
giải pháp chung như ổn định kinh tế vĩ mô, mở rộng thị trường nội địa để tạo ưu
6


thế về quy mô thị trường, tập trung khắc phục các “nút thắt” về cơ sở hạ tầng,
nguồn nhân lực, phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước, trong đó có công
nghiệp hỗ trợ nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, chúng ta cùng cần thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ. Trước hết, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư
nhằm tạo môi trường đầu tư đồng bộ, minh bạch, rõ ràng và có tính tiên liệu. Sửa
đổi chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn tới,
đồng thời đảm bảo tính hấp dẫn, cạnh tranh so với các nước trong khu vực. Cải
tiến một cách căn bản phương thức xúc tiến đầu tư theo hướng có trọng tâm, trọng
điểm, theo từng ngành, lĩnh vực, khu vực và đối tác. Công tác quản lý doanh
nghiệp có vốn ĐTNN cũng được chú trọng cải thiện hiệu quả, đặc biệt là tập trung
chuyển đổi mạnh áp dụng chế độ hậu ưu đãi và hậu kiểm, kết hợp tăng cường chế
độ báo cáo, thống kê và giám sát, thanh tra. Cuối cùng, trong thời gian tới, Chính
phủ sẽ tập trung nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành gắn với đẩy mạnh cải cách
hành chính giảm chi phí và thời gian thực hiện các thủ tục cho công dân và doanh
nghiệp; kiên quyết đẩy mạnh hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, lãng
phí để tạo môi trường kinh tế xã hội thuận lợi, cạnh tranh thu hút mạnh mẽ hơn
nữa vốn đầu tư FDI.

Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến nhanh và phức
tạp, mang lại không ít những cơ hội và thách thức cho việc thu hút đầu tư nước
ngoài, cần có giải pháp đột phá, có hiệu quả và tính thực thi cao để cải thiện môi
trường đầu tư, tiếp tục thu hút và phát huy tối đa hiệu quả của nguồn vốn
ĐTNN. Sự gia tăng quy mô và chất lượng liên kết kinh tế quốc tế không những
tăng cường nguồn lực phát triển nền kinh tế mà còn là động lực của việc tiếp tục
đổi mới trong nước và giảm thiểu sức ép, rủi ro từ bên ngoài. Với sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và Nhà nước, sự điều hành của Chính phủ và những kinh
nghiệm quý báu đã đúc kết được sau 25 năm phát triển, ĐTNN nói riêng và hoạt
động kinh tế đối ngoại nói chung sẽ tiếp tục đạt được những thành công và có
những đóng góp xứng đáng vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự
phát triển của đất nước.
Thân ái !

Bùi Quang Vinh

7


8


ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM: 25 NĂM
THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN

Đào Quang Thu
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Sau 25 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài với
việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, khu vực kinh tế có vốn đầu tư

nước ngoài (ĐTNN) ngày càng phát huy vai trò quan trọng và có những đóng
góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc thu hút, sử
dụng ĐTNN thời gian qua cơ bản đã đáp ứng những mục tiêu đề ra về thu hút
vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động,
tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Điều này khẳng định chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, hội nhập
kinh tế quốc tế.
MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Thứ nhất, ĐTNN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước
Tính đến tháng 8 năm 2012, cả nước có 14.095 dự án ĐTNN còn hiệu lực,
với tổng vốn đăng ký đạt 206,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đã giải ngân được
97,4 tỷ USD (chiếm 47% vốn đăng ký). ĐTNN là khu vực phát triển năng động
nhất với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước: năm 1995 GDP
của khu vực ĐTNN tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; tốc độ này
tương ứng là 11,44% và 6,79% (2000), 13,22% và 8,44% (2005), 8,12% và
6,78% (2010). Tỷ trọng đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần, từ 2%
GDP (1992), lên 12,7% (2000), 16,98% (2006) và 18,97% (2011).
Tác động của ĐTNN đối với tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ hơn thông qua:
Bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội
Vốn ĐTNN thực hiện tăng nhanh qua các thời kỳ, từ khoảng 20,67 tỷ
USD, chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư xã hội (1991 – 2000) lên 69,47tỷ USD,
chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư xã hội (2001 – 2011). Tỷ trọng khu vực ĐTNN
trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000 – 2011 tăng 5,4%.
Góp phần quan trọng vào xuất khẩu
Chủ trương khuyến khích ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho
Việt Nam trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu, qua đó giúp chúng ta từng
bước tham gia và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trước năm 2001,
xuất khẩu của khu vực ĐTNN chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ
năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở

9


thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất
khẩu năm 2012.
ĐTNN góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng
giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng
chế tạo1.
ĐTNN tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là
sang Hoa Kỳ, EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu, đưa Hoa Kỳ trở thành
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
ĐTNN còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu
thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do
doanh nghiệp trong nước sản xuất thay vì phải nhập khẩu như trước đây.
Đóng góp vào nguồn thu ngân sách
Đóng góp của ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (19942000) lên 14,2 tỷ USD (2001 – 2010). Năm 2012, nộp ngân sách của khu vực
ĐTNN (không kể dầu thô) là 3,7 tỷ USD, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách
(18,7% tổng thu nội địa, trừ dầu thô).
Thứ hai, ĐTNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH
Hiện nay, 58,4% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp - xây
dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng công nghiệp - xây dựng của khu vực ĐTNN đạt bình quân gần 18%/năm,
cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực ĐTNN đã tạo ra gần
45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công
nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện
tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng...
ĐTNN đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu
một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao
đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là

các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán
canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Khu vực ĐTNN đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng
cao như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê,ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán,
tư vấn luật, vận tải biển, lô-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo
ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động
thương mại nội địa và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.

1

Trước năm 2003, dầu thô chiếm tới gần một nửa xuất khẩu của khu vực ĐTNN. Từ năm 2007, tỷ lệ dầu thô
trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ còn khoảng 7%.

10


Thứ ba, ĐTNN tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
thay đổi cơ cấu lao động
Hiện nay khu vực ĐTNN tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3
- 4 triệu lao động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng CNH-HĐH. Doanh nghiệp ĐTNN được xem là tiên phong trong
việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ
thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận đã có năng lực quản lý, trình độ
khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, ĐTNN
đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu
ứng lan tỏa lao động, cập nhật kỹ năng cho bên cung ứng và bên mua hàng.
Thứ tư, ĐTNN là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần
nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế
Khu vực ĐTNN sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên
tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm 1993 đến

nay, cả nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng
ký, trong đó có 605 hợp đồng của doanh nghiệp ĐTNN, chiếm 63,6%. Thông
qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực ĐTNN đã góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ
trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ, công nghiệp chế
biến, chế tạo đạt hiệu quả cao nhất. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một số
ngành đã thực hiện tốt chuyển giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông,
tin học, cơ khí chế tạo, ô tô, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn thông,
dầu khí được đánh giá có hiệu quả nhất.
Tác động lan tỏa công nghệ của khu vực ĐTNN được thực hiện thông qua
mối liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước,
qua đó tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước tiếp cận hoạt động chuyển giao
công nghệ. Nhìn chung, khu vực ĐTNN có tác động lan tỏa gián tiếp tới khu
vực doanh nghiệp sản xuất trong nước cùng ngành và doanh nghiệp dịch vụ
trong nước khác ngành. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ với doanh nghiệp
ĐTNN, doanh nghiệp trong nước ứng dụng công nghệ sản xuất tương tự để sản
xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và sản phẩm/dịch vụ khác để tránh cạnh tranh.
Đồng thời có tác động tạo ra các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong nước để hỗ
trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN.
Thứ năm, ĐTNN có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp
độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm
Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng
vững chắc trên các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân tích các chỉ
tiêu về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường (đầu vào
và tiêu thụ sản phẩm) và năng lực tham gia mạng sản xuất toàn cầu cho thấy
11


năng lực cạnh tranh của khu vực ĐTNN cao hơn so với khu vực trong nước.
Đồng thời, khu vực ĐTNN đã và đang có tác động thúc đẩy cạnh tranh của khu

vực trong nước nói riêng và của nền kinh tế nói chung thông qua thúc đẩy năng
suất, tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, nâng cao trình
độ công nghệ, trình độ lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ sáu, ĐTNN góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị
doanh nghiệp, tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Thực tiễn ĐTNN đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về công tác
quản lý kinh tế và doanh nghiệp, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy quá
trình hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công khai, minh
bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế; đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù
hợp với xu thế hội nhập.
Thứ bảy, ĐTNN đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế
Hoạt động thu hút ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN,ký Hiệp
định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định đối tác kinh tế
(EPA) với Nhật Bản và nhiều nước.
MỘT SỐ HẠN CHẾ
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần phải khắc
phục trong thời gian tới, đó là:
Thứ nhất, hiệu quả tổng thể nguồn vốn ĐTNN chưa cao. Trong công
nghiệp – xây dựng, các dự án ĐTNN chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia
tăng thấp; có quá ít dự án về cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông – lâm –
ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần trong khi đây là những ngành Việt
Nam có thế mạnh. Trong dịch vụ, các dự án bất động sản quy mô lớn còn cao
song nhiều trong số dự án này chậm triển khai, gây lãng phí về đất đai, vay vốn
trong nước. ĐTNN vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo
dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường… còn hạn chế.
ĐTNN hiện tập trung chủ yếu tại địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ
tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối vùng miền,

không đạt được mục tiêu hướng ĐTNN vào địa bàn khó khăn. Các KKT, KCN,
KCNC không tạo ra lợi thế khác biệt cho từng địa phương và vùng lãnh thổ.
Đối tác đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ Châu Á, nhà đầu tư nước ngoài là
doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ cao. Hiện mới chỉ thu hút được trên 100
12


trong tổng số 500 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Tỷ lệ vốn thực
hiện thấp so với vốn đăng ký, chỉ khoảng 47,2%.
Thứ hai, mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ
nguồn), chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng
Trên 80% doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ trung bình của thế
giới, 5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường
hợp sử dụng công nghệ lạc hậu. Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo
chiều ngang – giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình
độ và năng lực công nghệ. Do mặt bằng công nghệ sử dụng trong các dự án
ĐTNN chưa cao nên hiệu quả chuyển giao công nghệ theo chiều ngang còn hạn
chế. Không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp,
yếu kém trong quản lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị
lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển
giao công nghệ. Công nghệ thấp dẫn đến các doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu
thực hiện việc gia công, một số doanh nghiệp được coi là công nghệ cao nhưng
những khâu sử dụng công nghệ cao lại không thực hiện ở Việt Nam. Hệ quả là
doanh nghiệp Việt Nam tạo ra gia trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng sản
xuất toàn cầu.
Thứ ba, số lượng việc làm tạo ra chưa tương xứng, đời sống người lao
động chưa cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng
Tỷ lệ việc làm mới do khu vực ĐTNN tạo ra không tương xứng (chỉ
chiếm 3,4% trong tổng số lao động có việc làm năm 2011). Thu nhập bình quân
theo tháng của người lao động ở khu vực doanh nghiệp ĐTNN chỉ cao hơn khu

vực doanh nghiệp tư nhân trong nước nhưng thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà
nước. Nhu cầu về nhà ở, đời sống văn hóa ở các khu tập trung nhiều lao động đã
trở nên bức xúc mà chưa đáp ứng được.
Từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy là 4.142 cuộc đình công, trong đó
75,4% (3.122 cuộc) của doanh nghiệp ĐTNN, chủ yếu xảy ra tại doanh nghiệp
của Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản; tập trung ở ngành gia công, sử
dụng nhiều lao động như dệt may, cơ khí, điện tử, da giày xuất phát từ yêu cầu
về lợi ích của người lao động. Điều đáng nói là hầu hết các cuộc đình công
không tuân thủ theo đúng trình tự quy định của pháp luật mặc dù 70% số cuộc
đình công xảy ra ở doanh nghiệp có tổ chức công đoàn. Trên thực tế, tổ chức
công đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế trong việc bảo đảm các quyền lợi cho người
lao động, đặc biệt là vấn đề thỏa thuận mức tiền lương và điều kiện lao động.
Thứ tư, hiệu ứng lan tỏa của khu vực ĐTNN sang khu vực khác của
nền kinh tế còn hạn chế, có dấu hiệu chèn lấn.

13


Mặc dù doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi từ ĐTNN chủ yếu thông
qua tác động mở rộng thị trường, nhưng từ năm 2007 (Việt Nam chính thức
tham gia WTO) đến nay, doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trong nước ở một số
lĩnh vực đã chịu tác động chèn lấn của doanh nghiệp ĐTNN.
Thứ năm, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền
vững, gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý
đầy đủ tới an ninh quốc phòng.
Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát
triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền
kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về
môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực.
Không ít dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường

không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dòng ĐTNN tiêu
tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường, vào
Việt Nam nhưng nhiều địa phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường.
Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên.
Một số trường hợp thu hút đầu tư chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an
ninh quốc phòng, nhất là các dự án trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng
thủy, hải sản ở vùng nhạy cảm về an ninh quốc phòng, một số dự án sử dụng
nhiều lao động phổ thông nước ngoài.
Thứ sáu, có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế.
Một số doanh nghiệp ĐTNN có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển
giá tinh vi như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản
quyền…), giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành
phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương,
đào tạo, quảng cáo, nhà thầu, chuyển nhượng vốn … tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi
thật, gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên
doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước ngoài.
NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ
Thứ nhất, chưa chuẩn bị tốt tiền đề thu hút ĐTNN: Kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, hệ thống doanh nghiệp trong nước…chuẩn bị chưa tốt dẫn đến
giảm khả năng hấp thụ, cũng như hiệu quả của ĐTNN.
Thứ hai hệ thống luật pháp,chính sách liên quan đến đầu tư còn bất
cập, chồng chéo, chưa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước. Khi xây dựng khung
pháp lý chung áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, chưa tính hết
tính đặc thù của ĐTNN. Một số đạo luật chuyên ngành (thuế, kinh doanh bất động
sản, xây dựng, giáo dục…) quy định cả thủ tục đầu tư, gây chồng chéo và không
thống nhất với Luật Đầu tư. Nhiều thủ tục quy định theo hướng đơn giản, nhưng
14


chưa tính đến yêu cầu quản lý nhà nước; thiếu hàng rào kỹ thuật để sàng lọc dự

án và nhà đầu tư khi Việt Nam tham gia WTO.
Chính sách ưu đãi đầu tư chưa phù hợp, chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư đối
với những ngành, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư; chưa có tính đột phá; thiếu
linh hoạt; tồn tại nhiều Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư khác nhau,
thiếu nhất quán.
Chính sách về lao động, quan hệ lao động còn một số bất cập. Chính sách
tiền lương hay thay đổi nhưng không có lộ trình. Quy định mức lương tối thiểu
thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến đình công. Nhưng khi Nhà nước
tăng mức lương tối thiểu phù hợp với điều kiện sinh hoạt thực tế của người lao
động thì tạo áp lực tăng chi phí đầu vào cho nhà đầu tư.
Thu hút và chuyển giao công nghệ chưa đạt được mục tiêu. Nguyên nhân
chủ yếu là do Việt Nam chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư có công nghệ cao, công
nghệ nguồn. Bên cạnh đó, chính sách về thu hút công nghệ còn nhiều bất cập
(chính sách ưu đãi chưa đủ sức hấp dẫn; quy định về Danh mục công nghệ cao
được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được
khuyến khích phát triển khó thực hiện…). Ngoài ra, còn phải kể đến nguyên
nhân khách quan là bí quyết kỹ thuật, công nghệ riêng thường không chuyển
giao thông qua hình thức mua bán bản quyền mà thông qua nhượng quyền hoặc
các hình thức khác.
Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu
đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập;
quản lý nhà nước về môi trường thiên về tiền kiểm (nhà đầu tư phải thực hiện
báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi thực hiện quy trình đầu tư đối
với các dự án thuộc diện phải đánh giá tác động môi trường), chưa chú trọng đến
hậu kiểm; thiếu chế tài xử lý nghiêm minh.
Thứ ba, quản lý nhà nước về ĐTNN chưa đạt yêu cầu
Công tác quy hoạch còn bất cập, thể hiện ở việc thiếu một số quy hoạch
ngành, quy hoạch sản phẩm; chất lượng quy hoạch chưa cao do thiếu tính dự báo
dài hạn và thiếu tính liên kết vùng, liên kết ngành hàng; việc xây quy hoạch
nhưng chưa tính đến năng lực sản xuất trong nước và của ĐTNN, dẫn đến các quy

hoạch còn dàn trải, hiệu quả tương hỗ thấp.
Thực hiện việc phân cấp đầu tư chưa phù hợp với tình hình thực tế,
Phân cấp đầu tư “đại trà, dàn đều” chưa tính đầy đủ đến đặc thù của địa
phương về năng lực quản lý, trình độ cán bộ, quy mô nền kinh tế địa phương…
Tình trạng cạnh tranh trong thu hút ĐTNN dẫn đến một số địa phương cấp
phép cho các dự án tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng sử
15


dụng và khai thác tài nguyên không hiệu quả, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh
quốc phòng, không tính đến chất lượng, lợi ích quốc gia.
Phân cấp trong bối cảnh luật pháp chính sách còn chồng chéo, thiếu quy
hoạch ngành, quy hoạch chi tiết, cụ thể và đồng bộ; thiếu nội dung phân cấp phù
hợp với đặc thù của từng địa phương, vùng lãnh thổ.
Chưa làm tốt cơ chế hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, cùng với việc quy kết
trách nhiệm, chế tài xử lý nghiêm những vi phạm liên quan đến phân cấp; cơ chế
báo cáo, trao đổi thông tin giữa trung ương – địa phương, giữa các bộ, ngành.
Quản lý nhà nước về XTĐT còn hạn chế, phương thức XTĐT chưa được
điều phối hiệu quả và thông suốt từ trung ương tới địa phương, có tình trạng
nhiều đoàn XTĐT tại một địa bàn vào cùng khoảng thời gian gần nhau, gây lãng
phí nguồn lực, làm ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh quốc gia; trong quá trình
XTĐT một số ngành, lĩnh vực mà ta có nhu cầu lại chưa được quan tâm (giáo
dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, dự án công nghệ cao...), cơ quan chuyên ngành
chưa thực sự quan tâm, từ khâu xây dựng danh mục dự án đến khâu phối hợp tổ
chức vận động XTĐT.
Hình thức XTĐT tại chỗ (hỗ trợ các nhà đầu tư đang hoạt động), xây
dựng trang web, tài liệu XTĐT chưa phát huy được hiệu quả tối đa. Nội dung
các hoạt động XTĐT chưa mang tính trọng điểm, liên ngành, liên vùng. Công
tác nghiên cứu về dòng ĐTNN, xu hướng của các đối tác, các tập đoàn xuyên
quốc gia chưa được chú trọng. Kinh phí dành cho hoạt động XTĐT còn hạn chế.

Hoạt động của các đại diện XTĐT tại nước ngoài mới được triển khai, còn
gặp nhiều khó khăn (nhân lực, cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí...), nhiều địa
bàn tiềm năng nhưng chưa có đại diện XTĐT (Anh, Nam Phi, Trung Quốc, Nga,
Myanmar, Campuchia...).
Quản lý nhà nước đối với ĐTNN còn nặng về khâu cấp phép. Khi số
lượng dự án được cấp phép tăng, các vấn đề thực tiễn phát sinh ngày càng nhiều,
đã dẫn đến tình trạng lúng túng trong quá trình xử lý vướng mắc.
Một số bộ, ngành, địa phương chưa kịp thời ban hành các hướng dẫn, tiêu
chí, hàng rào kỹ thuật hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế trong từng ngành,
lĩnh vực, đặc biệt là đối với một số ngành sau khi Việt Nam gia nhập WTO
(trong đó có một số ngành nghề mới chưa có tại Việt Nam). Trong khi đó, chính
sách thuế chưa được điều chỉnh kịp thời đã dẫn đến không kiểm soát được một
số ngành (dịch vụ đơn giản, quy mô nhỏ…) do mở cửa, không giữ chân được
các doanh nghiệp FDI thực hiện chức năng sản xuất (xu hướng doanh nghiệp
chuyển từ chức năng sản xuất sang kinh doanh thương mại, dịch vụ) gây ảnh
hưởng đến sản xuất và thị trường trong nước, cũng như khó khăn trong việc cấp
GCNĐT và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan. Bên cạnh đó,
16


một số bộ, ngành chưa thực hiện công bố công khai, minh bạch điều kiện đầu tư
trong từng ngành theo quy định; lúng túng trong việc xác định các điều kiện đầu
tư trong lĩnh vực quản lý, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán mở
cửa thị trường đầu tư.
Các bộ, ngành chưa cập nhật, nắm bắt thông tin trong phạm vi quản lý
chuyên ngành (vốn vay, lao động, môi trường, khoa học công nghệ, công nghiệp
hỗ trợ…). Điều này một mặt dẫn đến khó khăn cho chính bộ chuyên ngành trong
việc quản lý, điều hành, phân tích và dự báo về tình hình trong phạm vi mình
phụ trách, mặt khác, gây khó khăn cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc tổng
hợp chung về tình hình đầu tư, cũng như khó khăn cho cả địa phương trong quá

trình thực thi.
Năng lực phản ứng chính sách ở các cấp còn yếu, nên chậm luật hóa vấn
đề bức xúc nảy sinh trong thực tiễn (như chuyển giá, vi phạm quy định về môi
trường, gian lận thương mại...) dẫn đến hiệu quả chưa cao.
GIẢI PHÁP CHO GIAI ĐOẠN TỚI
Để phát huy hơn nữa vai trò tích cực đồng thời khắc phục những hạn chế
của đầu tư nước ngoài, trên cơ sở những định hướng cho giai đoạn mới, thời
gian tới, chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, mở rộng thị
trường để tạo ưu thế về quy mô thị trường, tập trung khắc phục bất cập về cơ sở
hạ tầng, nguồn nhân lực, phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước, cải thiện
môi trường kinh doanh là những giải pháp căn bản, mang tính quyết định đến
việc thu hút và hiệu quả của ĐTNN. Đối với giải pháp liên quan đến ĐTNN,
trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung sau:
1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư
Để xử lý các bất cập về sự không thống nhất giữa Luật Đầu tư và pháp
luật về đầu tư, cũng như Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, đề nghị:
- Tổng rà soát toàn bộ hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư, đồng thời
kiến nghị phương án xử lý nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh đồng bộ, rõ
ràng và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
- Khẩn trương thực hiện dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh
nghiệp (sửa đổi) để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 (2013) và thông qua tại kỳ
họp thứ 7 (2014).
- Nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng một số cam kết chưa
có cách hiểu thống nhất.

17


2. Sửa đổi một cách căn bản chính sách ưu đãi và cơ quan xây dựng

chính sách ưu đãi đầu tư, theo hướng:
Trong thời gian trước mắt, sửa đổi chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với
định hướng thu hút ĐTNN đến năm 2020, đồng thời đảm bảo tính hấp dẫn, cạnh
tranh so với các nước trong khu vực.
Về dài hạn, cần thay đổi một cách căn bản việc xây dựng chính sách ưu
đãi đầu tư theo hướng:
- Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ chuyên
ngành, địa phương xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư (thuế, đất đai, xuất nhập
khẩu…) nhằm đảm bảo tính thống nhất và xuyên suốt với định hướng thu hút
đầu tư và các hỗ trợ khác ngoài hàng rào, trong hàng rào, bảo lãnh, đào tạo…
- Chính sách ưu đãi được xây dựng trên nguyên tắc hậu kiểm có điều kiện
và thời hạn, thay vì phương thức tiền kiểm như hiện nay với định hướng là tập
trung ưu tiên vào ngành, lĩnh vực cần phát triển, vào các dự án đầu tư trong
KCN, KKT.
- Bên cạnh hệ thống ưu đãi chuẩn, cần quy định thêm cơ chế ưu đãi thỏa
thuận để áp dụng đối với các dự án đặc thù. Thủ tướng Chính phủ quyết định
mức ưu đãi thỏa thuận trên cơ sở ý kiến đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (sau
khi tổng hợp ý kiến của các bộ chuyên ngành).
- Để có cơ sở xem xét, quyết định ưu đãi thỏa thuận một cách rõ ràng,
minh bạch, tránh cơ chế “xin cho” cũng như giám sát thực hiện đối với các dự
án này, cần nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí (công nghệ cao, giá trị gia tăng, liên
kết, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, sử dụng công nghệ xanh, đóng góp cho
ngân sách…) thay vì chỉ dựa vào tiêu chí lĩnh vực và địa bàn như hiện nay.
3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp trong quản lý ĐTNN theo
hướng phát huy quyền chủ động của địa phương, đồng thời đảm bảo tập trung
thống nhất, hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước, đặc biệt là đối với các dự án
thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội và của Thủ tướng Chính phủ; dự án
có tầm ảnh hưởng lan tỏa vùng; dự án thực hiện trên địa bàn từ 2 tỉnh trở lên; dự
án được hưởng ưu đãi đầu tư theo cơ chế thỏa thuận…
Các bộ, ngành tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện việc phân

cấp quản lý hoạt động đầu tư trong lĩnh vực quản lý của bộ, ngành mình (môi
trường, lao động, công nghệ, xuất nhập khẩu, tài chính...), từ đó đề xuất giải
pháp khắc phục bất cập và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trên cơ sở mục tiêu và định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011-2020, Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2011-2015 của cả nước và
của các ngành, các địa phương và định hướng ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ
nêu trên và cam kết quốc tế, các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, điều
18


chỉnh, sửa đổi quy hoạch ngành, sản phẩm, vùng lãnh thổ; công bố các điều kiện
đầu tư theo quy định tại pháp luật về đầu tư.
Các cấp có thẩm quyền chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ
đúng quy hoạch đối với các dự án khi cấp GCNĐT. Đối với các dự án nằm
ngoài quy hoạch, phải lấy ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và bộ quản lý
ngành và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Kiên quyết đình chỉ đối với những dự án đã được cấp hoặc điều chỉnh Giấy
chứng nhận đầu tư mà không phù hợp với quy hoạch, quy trình, thủ tục… Cơ quan
cấp Giấy chứng nhận đầu tư có trách nhiệm xử lý các vấn đề phát sinh.
4. Đổi mới công tác XTĐT theo hướng:
- Tăng cường thống nhất điều phối các hoạt động xúc tiến đầu tư ở trong
nước và nước ngoài. Chương trình XTĐT của Bộ, ngành và địa phương chỉ được
thực hiện sau khi thống nhất với Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư về nội dung,
thời gian, địa điểm tổ chức. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ban hành tiêu
chí xây dựng kế hoạch XTĐT hàng năm, làm cơ sở cho các bộ, ngành và địa
phương xây dựng chương trình, kế hoạch XTĐT của mình.
- Nội dung XTĐT phải đảm bảo nguyên tắc XTĐT theo vùng và liên vùng,
có trọng tâm, trọng điểm, mang tầm quốc gia, chuyên đề theo lĩnh vực chuyên sâu
bám theo chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, phù hợp với định hướng ĐTNN, gắn với
thị trường, đối tác cụ thể và đáp ứng sự quan tâm của nhà đầu tư.

- Bố trí kinh phí đủ mức để tập trung hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ
thống trang web về ĐTNN và tài liệu XTĐT.
- Đánh giá hoạt động của các đại diện XTĐT tại các cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài trong thời gian qua để kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cho phù
hợp với tình hình thực tế. Có cơ chế bố trí kinh phí hợp lý để đảm bảo hoạt động
hiệu quả của các đại diện XTĐT ở nước ngoài.
- Tập trung hỗ trợ dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đang triển
khai hoạt động thuận lợi và có hiệu quả (XTĐT tại chỗ) nhằm thông qua các nhà
đầu tư này để quảng bá hình ảnh về môi trường đầu tư Việt Nam.
5. Hoàn thiện nội dung và quy trình cấp GCNĐT
- Bổ sung nội dung thẩm tra dự án (thẩm tra theo quy hoạch ngành, thẩm tra
năng năng lực tài chính và kinh nghiệm đối với dự án có quy mô lớn, tác động xã
hội; thẩm tra về công nghệ, môi trường, loại đất và quy mô sử dụng đất);
- Nghiên cứu việc thực hiện cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo 2 bước.
Bước 1: cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Theo đó, khi nhà đầu tư nộp hồ sơ
đăng ký đầu tư thì nhà đầu tư cam kết tuân thủ các quy định pháp luật. Bước 2:
cấp Giấy chứng nhận đầu tư chính thức sau khi nhà đầu tư đã hoàn thành hoặc
19


hoàn thành xây dựng và lắp đặt thiết bị của từng giai đoạn dự án đầu tư, có xác
nhận của tổ chức kiểm toán hoặc tổ chức giám định có thẩm quyền.
- Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch ngành/lĩnh vực, công bố công khai các
quy hoạch theo vùng và địa phương, ban hành các tiêu chí đối với một số ngành,
lĩnh vực, đặc biệt là đối với các ngành nằm trong cam kết WTO; công bố các
điều kiện đầu tư trong từng ngành để làm cơ sở cho việc cấp GCNTĐT, ban
hành tiêu chuẩn đối với một số sản phẩm, điều kiện về máy móc, thiết bị và môi
trường đối với một số ngành (khai thác khoáng sản...), suất đầu tư/diện tích đất
sử dụng đối với một số dự án sử dụng nhiều đất..., xây dựng các điều kiện, tiêu
chuẩn và yêu cầu về công nghệ xây dựng, tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng

lượng sạch, năng lượng tái tạo... đối với các dự án, trong đó có dự án xây dựng
bất động sản, gồm khách sạn, văn phòng, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng, khu đô
thị mới, văn bản pháp quy liên quan đến quản lý, vận hành, giám sát hoạt động
của khu vực ĐTNN.
- Đối với các dự án ĐTNN khai thác nguồn tài nguyên, cần phải thận
trọng trong việc chọn nhà đầu tư gắn khai thác với chế biến sâu, tạo ra giá trị gia
tăng cao bằng công nghệ, thiết bị hiện đại và hệ thống xử lý môi trường để sử
dụng nguồn tài nguyên có hiệu quả.
- Tiếp tục hoàn thiện quy định nhằm kiểm soát công nghệ và môi trường.
6. Xem xét điều chỉnh các rào cản đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài đối
với một số ngành dịch vụmà Việt Nam đang có nhu cầu, đồng thời xây dựng rào
cản kỹ thuật phù hợp với cam kết quốc tế để lựa chọn dự án.
7. Tăng cường hỗ trợ nhà đầu tư và quản lý sau cấp phép
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Hệ thống thông tin quốc gia về ĐTNN,
được nối mạng với cơ quan trung ương, địa phương, doanh nghiệp ĐTNN.
- Tập trung hỗ trợ các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong
khi đầu tư mới chưa thể tăng nhanh thì cần tập trung hỗ trợ, tạo điều kiện thuận
lợi cho dự án đã được cấp phép đi vào sản xuất kinh doanh, tăng vốn giải ngân và
mở rộng sản xuất.
- Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện đầy đủ chức năng hậu kiểm theo
chức năng, đặc biệt lưu ý đến các vấn đề chuyển giá, môi trường, gian lận đầu
tư... Hoàn thiện quy định của pháp luật về thanh lý, phá sản... để xử lý dứt điểm
dự án không triển khai thực hiện, dự án nhà đầu tư bỏ trốn để tạo cơ hội cho nhà
đầu tư mới.
Tăng cường sử dụng các công cụ giám sát như báo cáo tài chính đã được
kiểm toán; cơ chế giám định, định giá... để nâng cao hiệu quả công tác giám sát
hoạt động đầu tư.
20



- Tăng cường cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành, địa
phương để giải quyết những vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
8. Các cơ quan quản lý nhà nước định kỳ đánh giá hoạt động đầu tư
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì đánh giá tổng thể hoạt động ĐTNN tại
Việt Nam (đánh giá hàng năm, theo giai đoạn).
- Các bộ, ngành chịu trách nhiệm đánh giá về hoạt động ĐTNN theo
chuyên ngành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm đánh giá về hoạt động ĐTNN trên địa bàn.
9. Tăng cường năng lực cho cán bộ về ĐTNN
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây
dựng chương trình đào tạo cho cán bộ về ĐTNN nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và cập nhật các quy định của pháp luật liên quan đến đầu tư,
cam kết quốc tế liên quan đến đầu tư.

21


PHÂN CẤP QUẢN LÝ FDI – LỢI THẾ ĐỐI VỚI THU HÚT FDI
Giáo sư TSKH Nguyễn Mại
Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
-------------------------Tư duy phát triển kinh tế trong khi nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng
với thế giới toàn cầu hóa kinh tế quốc tế đòi hỏi không những phát huy lợi thế so
sánh động của quốc gia, mà rất cần phát huy bản sắc, lợi thế tự nhiên và xã hội
của từng vùng kinh tế, từng tỉnh và thành phố. Sự khác biệt gắn với lợi thế kinh
tế và xã hội của từng địa phương, tổng hòa những sự khác biệt đó sẽ có bức
tranh kinh tế- xã hội đa dạng, nhiều màu sắc ỏ từng vùng lãnh thổ và cả nước.
Từ tư duy đúng đắn đó đòi hỏi Chính phủ, các bộ phải có quy hoạch
ngành kinh tế gắn với quy hoạch vùng lãnh thổ; mỗi địa phương phải khai thác
và phát huy tối đa lợi thế tư nhiên và xã hội của mình đặt trong sự phân công và

hợp tác ở từng vùng lãnh thổ để giải quyết có hiệu quả những vấn đề đặt ra trong
quá trình phát triển của từng địa phương và toàn quốc.
1) Lý thuyết và thực tiễn phân cấp quản lý kinh tế
Chủ trương phân cấp quản lý cho chính quyền tỉnh, thành phố liên quan
đến vấn đề nhà nước trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Từ đầu thập
niên 90 của thế kỷ XX thế giới đang chứng kiến đồng thời hai khuynh hướng:
Thứ nhất, ngày càng có nhiều quốc gia theo đuổi nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế. Khi mô hình kế hoạch hóa tập trung tỏ ra không có hiệu quả,
các nước XHCN đã tiến hành nhiều phương thức khác nhau để đưa đất nước tiến
lên. Trung Quốc thực hiện “ cải cách và mở cữa” từ năm 1988, Việt Nam tiến
hành “ đổi mới và hội nhập” từ 1986. Nước Nga và các quốc gia thuộc Liên Xô
(cũ) áp dụng mô hình kinh tế thị trường gắn với thay đổi thể chế chính trị. Ấn
Độ và nhiều nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi thực hiện chính
sách mở cữa thị trường với thế giới. Do vậy, ngoại trừ một số nước đang tự cô
lập với thế giới, xu hướng phát triển chủ đạo của các quốc gia là kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Thị trường toàn cầu với giòng chu chuyển hàng hóa,
vốn, công nghệ, lao động qua biên giới ngày càng mở rộng; thị trường dân tộc
trở thành bộ phận hữu cơ, chịu tác động của thị trường toàn cầu. Đó là xu hướng
quyết định các đặc trưng của “ nền văn minh xuyên thị trường” như cách diễn
đạt trong quyển “ Đợt sóng thứ ba”.
Thứ hai, sự tan rã của một số cấu trúc nhà nước- dân tộc cùng với việc ra
đời của nhiều quốc gia mới, những khu vực tự trị và phong trào ly khai ở một số
22


nước. Liên bang xô viết tan rã sau cuộc khủng hoảng chính trị- xã hội vào cuối
thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX với sự xuất hiện của những quốc
gia độc lập. Cuộc chiến tranh bùng phát vào trung tuần tháng 8 năm 2008 giữa
Grudia với hai nước Cộng hòa tự trị Nam Ossetia và Abkhazia là đỉnh điểm của
phong trào ly khai và chống ly khai ở một nước vốn thuộc Liên Xô (cũ). Liên

bang Nam tư (cũ) chia ra thành nhiều nước; năm 2008 thành phố Côxơvô tuyên
bố độc lập tách khỏi nước Secbi. Phong trào đòi quyền tự trị dân tộc đã diễn ra ở
Indonexia, Philippines, Êtiôpi và ở nhiều nước khác. Các hòn đảo nhỏ như
Đôfinica ở Caribê, Fiji ở Nam Thái Bình Dương tuyên bố chủ quyền quốc gia và
gửi đại diện đến Liên Hiệp Quốc.
Ngay trong lòng nước Mỹ, quan hệ giữa các bang ở miền Bắc và miền
Nam vốn là nguyên nhân gây ra cuộc nội chiến thảm khốc từ những ngày đầu
thành lập Hợp chúng quốc Hoa kỳ, thì ngày nay phong trào đòi ly khai đang lớn
dần đe dọa tách thành quốc gia độc lập. “ Ở California ngày nay có một cuốn
tiểu thuyết bí mật bán rất chạy, nội dung kêu gọi tách miền Tây Bắc ra khỏi Mỹ,
bằng cách đe dọa cho nổ mìn hạt nhân ở New York và Chicago. Những kịch bản
đòi sự phân biệt khác cũng vẩn liên tiếp xuất hiện. Như một bản báo cáo chuẩn
bị cho Kissinger khi ông còn là cố vấn an ninh, đã bàn đến khả năng California
và miền Tây Bắc tách ra để thành lập thực thể địa lý nói tiếng Tây Ban Nha hay
nói hai thứ tiếng, gọi là nước Chicano Quebec”.2
Những ví dụ trên đây cho thấy rằng, cùng với quá trình toàn cầu hóa là sự
phát triển của chủ nghĩa địa phương trong mỗi quốc gia, có nơi nhân danh đòi
quyền tự trị của dân tộc thiểu số, của sắc tộc, ngôn ngữ, có vùng thì nhấn mạnh
đến đặc điểm kinh tế- xã hội và truyền thống. Chính phủ nhiều nước đứng trước
tình thế tiến thoái lưỡng nan, hoăc phải phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền
địa phương đến mức “ quyền tự trị” hoặc đòi ly khai trở thành quốc gia độc lập
nhờ có sự hậu thuẩn của các nước lớn, hoặc giữ nguyên trạng với quyền lực tập
trung vào Chính phủ trung ương thì cuộc đấu tranh sẽ tiếp diễn, tình trạng bất ổn
chính trị- xã hội có nguy cơ bùng phát.
Cựu Thủ tướng Canada, Pierre Trudeau nói về chủ nghĩa ly khai của vùng
nói tiếng Pháp của nước này như sau: “ Bạn không thể có một hệ thống hữu hiệu
hoạt động của Chính phủ liên bang nếu như một bộ phận của nó, tỉnh hay bang

2


Dẫn từ Alvin Toffler: “ Đợt sóng thứ ba”, Nxb Khoa học xã hội, 2007, tr. 523

23


có một quy chế rất quan trọng, nếu nó có một mạng lưới quan hệ với Chính phủ
trung ương nhiều hơn những thành phố khác”.3
Cả hai khuynh hướng đó đã làm thay đổi chức năng và vai trò của Nhà
nước- dân tộc: i) Một phần chức năng của nó được các tổ chức quốc tế, công ty
xuyên quốc gia và tổ chức hợp tác khu vực thực hiện khi một nước đã hội nhập
với thế giới, tham gia thị trường khu vực và thế giới, thu hút đầu tư quốc tế,
chấp nhận luật chơi chung toàn cầu; ii) Một phần chức năng của nó được chuyển
cho chính quyền địa phương với cách thức thấp nhất là “ phân cấp quản lý”, địa
phương được thực hiện một số quyền và nghĩa vụ vốn trước đây thuộc Chính
phủ trung ương; cao hơn là trao quyền tự trị cho một vùng lãnh thổ, Chính phủ
trung ương chỉ giữ lại một vài quyền tập trung thống nhất như ngoại giao và
quốc phòng, nấc thang cuối cùng là ly khai hình thành Nhà nước độc lập.
“ Chính trong khi những người dân tộc chủ nghĩa yêu cầu nói thay cả
nước thì những người toàn cầu luận lại yêu cầu nói thay cả thế giới…Tóm lại, từ
kinh tế và chính trị đến tổ chức và hệ tư tưởng chúng ta đang chứng kiến một
cuộc tấn công phá hoại từ bên trong và bên ngoài vào cái cột trụ của nền văn
minh Đợt sóng thứ hai: Nhà nước- dân tộc”.4
J. Naisbitt nhận định, nền kinh tế thế giới càng lớn thì những phần tử nhỏ
nhất trong nó sẽ càng mạnh hơn. “ Tôi nhận thấy ở đây nghịch lý là một cách
hiểu chung chung; một câu nói hay một công thức mà dường như là trái ngược
hoặc vô lý, nhưng hiện nay lại có giá trị hoặc hợp lý. Một nghịch lý nổi tiếng
trong kiến trúc đã đóng góp cho nghề này rất nhiều là “ít nghĩa là nhiều”, có
nghĩa là bạn càng ít tô vẽ lên ngôi nhà thì trông nó càng lịch sự hơn và nhiều
công việc kiến trúc hơn có vẻ được thực hiện”5 Theo quan điểm này thì trong
khi các quốc gia hướng ra toàn cầu để tận dụng lợi thế so sánh động trong một

thế giới đang biến đổi nhanh chóng thì đồng thời phải hướng về địa phương,
phát huy bản sắc, tuyền thống, lợi thế của từng vùng lãnh thổ để tạo thành sức
mạnh quốc gia trong hội nhập quốc tế.
Phân cấp quản lý cho chính quyền tỉnh, thành phố là đòi hỏi khách quan
của việc nâng cao hiệu năng quản lý nhà nước, bởi vì quản lý là quá trình thu
thập và xử lý thông tin để ra quyết định; tính phức tạp của nền kinh tế quốc dân
gia tăng đến mức chính phủ trung ương không đủ năng lực tiếp nhận khối lượng
3

Dẫn từ “ Đợt sóng thứ ba”, sách đã dẫn, tr. 527
Đợt sóng thứ ba, sách đã dẫn, tr.540
5
John Naisbitt: Nghịch lý toàn cầu, Thông tin chuyên đề, 1997, tr. 21
4

24


khổng lồ các giòng thông tin theo ngành và theo lãnh thổ để đưa ra quyết định
kịp thời, đúng đắn đối với vấn đề và sự kiện. Chính quyền tỉnh, thành phố được
giao một số chức năng, quyền hạn vốn thuộc Chính phủ, bộ, ngành trung ương
để xử lý kịp thời và đúng đắn các vấn đề kinh tế- xã hội của địa phương.
Vấn đề cốt lõi là điều kiện bảo đảm để những chức năng, quyền hạn được
giao cho chính quyền địa phương được thực hiện tốt hơn. Có 4 yếu tố chính :
(1) Đặc điểm tự nhiên của địa phương: Cơ cấu hành chính của nước ta có
thể chia làm ba loại, i) Hà Nội và TPHCM là với dân số trên 6 và 7 triệu người,
thuộc loại siêu đô thị ( theo cách phân loại của thế giới), ii) Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ là đô thị loại vừa và iii) Các tỉnh có đô thị nhưng chủ yếu là
nông thôn.
(2) Trình độ phát triển kinh tế- xã hội của địa phương: Hà Nội và

TPHCM là trung tâm kinh tế lớn, trung tâm văn hóa, khoa học của cả nước, Hà
Nội là đầu não chính trị; Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ là trung tâm kinh tế,
giáo dục của từng vùng. Các tỉnh đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long có
trình độ phát triển hơn các tỉnh Trung du, Miền núi Phia Bắc, Tây Nguyên.
(3) Khối lượng và tính phức tạp của quản lý nhà nước: Các thành phố
gắn với quản lý đô thị và quá trình đô thị hóa, di dân, biến động dân số, việc
làm, cơ sở hạ tầng kỷ thuật- xã hội; các tỉnh gắn với quá trình công nghiệp hóa
nông thôn, vấn đề tam nông…
(4) Năng lực của cán bộ quản lý nhà nước: các thành phố có điều kiện tốt
hơn các tỉnh về lựa chọn đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, xây dựng hệ thống
thông tin, bồi dưỡng cán bộ.
Phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương cần tính đến 4 yếu tố đó để
có cơ chế và mức độ thích hợp, không dàn đều nhằm mục đích khi được phân
cấp thì chính quyền địa phương có đủ điều kiện bảo đảm thực hiện tốt chức năng
quản lý nhà nước.
Chủ trương phân cấp là đúng, nhưng do không tính đầy đủ các yếu tố
chính nên đã cào bằng, hai thành phố lớn Hà Nội và TPHCM vẩn quá phụ thuộc
vào nhiều quyết định của trung ương, trong khi một số địa phương chưa đủ điều
kiện bảo đảm thực hiện tốt quản lý nhà nước sau khi phân cấp.
2) Về phân cấp quản lý đối với FDI
25


×