Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

ĐẠO ĐỨC, KINH TẾ HỌC VÀ MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.19 KB, 41 trang )

ĐẠO ĐỨC, KINH TẾ HỌC VÀ MÔI TRƯỜNG.
Mục tiêu bài học này:
Trong chương này bạn sẽ:
_ Tìm hiểu về thuyết vị lợi như là một nền tảng đạo đức căn bản cho kinh
tế học phúc lợi.
_ Hiểu được nó khác một vài hệ thống đạo đức khác như thế nào.
_ Giới thiệu một vài sự phê bình về thuyết vị lợi.
_ Có được cái nhìn đầu tiên về vấn đề gây nhiều tranh cãi là vấn đề chiết
khấu.
_ Giới thiệu về phân tích tăng trưởng kinh tế tối ưu, ở đó nền sản xuất sử
dụng tài nguyên thiên nhiên không tái tạo.
• SỰ GIỚI THIỆU:
Kinh tế tài nguyên môi trường liên quan đến vấn đề phân bổ và sử dụng
tài nguyên. Đối với một số phạm vi ngiên cứu, vấn đề này có thể được
phân tích mà bỏ qua vấn đề đạo đức. chúng ta hãy tập trung trả lời câu
hỏi:” Nếu X xảy ra trong một tình huống, hoàn cảnh cụ thể, kéo theo Y
như thế nào?”. Những phân tích thuộc dạng này, người ta gọi là kinh tế học
thực chứng.
Tuy nhiên, giới hạn phạm vi kiến thức của chúng ta để trả lời câu hỏi
này còn hạn chế. Nhiều nhà kinh tế nghiên cứu kinh tế học chuẩn tắc, đề
cập đến vấn đề chúng ta nên làm gì, cần phải như thế nào. Để làm được
điều này thì cần phải sử dụng những tiêu chuẩn đạo đức trong lý thuyết về
hành vi của con người. Trong nghiên cứu kinh tế chuẩn tắc, xem xét một
cách tổng quát về nền kinh tế bền vững, các nhà kinh tế thường sử dụng
những tiêu chuẩn trong thuyết đạo đức vị lợi. kinh tế tài nguyên môi
trường chuẩn tắc phần lớn xuất phát từ thuyết đạo đức vị lợi.
Mục đích chính của chương này là trình bày những giới thiệu ban đầu
cái nhìn tổng quát về bản chất cách tiếp cận vị lợi với vấn đề đạo đức và
chỉ ra nó. Trình bày những nét chính của kinh tế học chuẩn tắc như thế
nào. Kinh tế học phúc lợi sẽ được giới thiệu trong chương 5 và 11 và được
đề cập suốt trong phần 2, 3, 4 của cuốn sách này. Chương này bắt đầu bằng


cái nhìn tóm gọn, sẽ trình bày một số phương pháp tiếp cận khác. Chương
sau trong phần 3, trình bày những yếu tố cơ bản của thuyết vị lợi như một
1
cách tiếp cận tổng quát, chúng ta nên làm gì, và kinh tế học phúc lợi sử
dụng cách tiếp cận đó như thế nào. Một vài lời phê bình về thuyết vị lợi và
việc sử dụng nó trong kinh tế học phúc lợi sẽ được trình bày trong phần 4
của chương. Trong bối cảnh kinh tế và môi trường, vấn đề chúng ta sử
dụng tài nguyên như thế nào để đảm bảo cho các thế hệ tương lai là rất
quan trọng. Như chúng ta đã thấy trong chương trước, đó là hoạt động kinh
tế của các thế hệ hiện tại đã tàn phá môi trường làm ảnh hưởng tới các thế
hệ tương lai như thế nào. Phần 15 của chương này nhìn nhận phương pháp
tiếp cận vị lợi đối với vấn đề phân phối giữa các thế hệ, tập trung vào khả
năng chống chịu của môi trường. chương tới sẽ xem xét một số định nghĩa
cá thể về sức chịu tải của môi trường.
3.1 Triết học đạo đức tự nhiên
Chúng ta có thể nêu ra sự khác biệt cơ bản giữa 2 trường phái chính
trong hệ thống đạo đức: là triết học đạo đức nhân văn và triết học đạo đức
tự nhiên. Trong triết lý nhân văn học, người ta cho rằng quyền và nghĩa vụ
được ban riêng cho con người, còn thiên nhiên không phải là con người tự
chúng không có quyền nào. Đạo đức tự nhiên lại phủ nhận điều đó. Trong
hệ thống đạo đức này, người ta cho rằng giá trị không chỉ có ở con người.
Đúng hơn, quyền có thể được xác định đối với một vài hệ thống tự nhiên.
Lý luận cổ điển của hệ thống đạo đức này khởi nguồn trong tác phẩm” ”
(1970 trang 262) của Aldo Leopold. “1 thứ chỉ đúng khi nó có khuynh
hướng bảo vệ sự nguyên vẹn, sự ổn định và vẻ đẹp của sự sống. Một thứ là
sai khi nó là sai khi khuynh hướng đi ngược lại.”
Peter Singer miêu tả quan điểm này là” sinh thái học sâu sắc” khi
một sự phát triển được đề xuất, các nhà sinh thái học sâu sắc có lẽ sẽ cho
rằng nó không đúng nếu nó gây xáo trộn hệ sinh thái. Căn cứ vào đó thì
phần lớn những hoạt động của con người mà ảnh hưởng đến hệ sinh thái,

lập trường nghiêm khắc của triết lý tự nhiên học sẽ ngăn cấm nhiều hoạt
động hiện tại và tương lai của con người.
Một hình thức mờ nhạt của đạo đức tự nhiên, nói đại khác, những
quan điểm cho rằng những hoạt động của con người có khả năng ảnh
hưởng đến bộ phận của sinh quyển mà bộ phận sinh quyển đó đáng được
bảo vệ với sự khác thường hay sự khan hiếm của chúng thì nên bị ngăn
cấm đã có một vài ảnh hưởng đến chính sách công cộng ở nhiều nước.
Trong giai đoạn từ 1970, 1 số tác phẩm quan trọng đã đưa ra nhằm
cố gắng thiết lập nghĩa vụ của nhân loại đối với thiên nhiên không phải là
con người. Phần nhiều của bài viết này sử dụng mệnh lệnh tuyệt đối của
Kant, theo đó 1 hành động có đạo đức là 1 hành động được thực hiện xuất
phát từ ý thức về nghĩa vụ chứ không phải từ ý muốn hay cảm xúc. Ông
2
cho rằng động cơ của 1 hành động quan trọng hơn nhiều so với bản thân
hành động và kết quả của nó. Kant miêu tả những ý định rằng sau 1 hành
động là phương châm. Phương châm là 1 nguyên tắc dùng làm nền tảng
cho 1 hành động. Kant tin rằng những con người có lý trí như chúng ta có
những bổn phận nhất định. Những bổn phận này có tính tuyệt đối. Những
bổn phận này luôn phải thực hiện cho dù việc thực hiện chúng có kéo theo
hiệu quả gì đi nữa. Ông nói rằng:” Hãy hành động theo phương châm mà
bạn đồng thời mong muốn chúng là những quy luật phổ quát.” Nói cách
khác, thông điệp của mệnh lệnh tuyệt đối là hành động theo 1 phương
châm mà lý trí mách bảo rằng bạn muốn áp dụng cho tất cả mọi người.
Kant đã đưa ra mệnh lệnh tuyệt đối về việc tôn trọng người khác.
Không ai được đối xử với người khác như là phương tiện cứu cánh. Trong
nhiều trường hợp, chúng ta đối xử với người khác như là phương tiện cứu
cánh cho mình.
VD1: Ông chủ xem công nhân của mình như là phương tiện để sản
xuất hàng hoá, phục vụ cho mục đích kiếm lời của mình. Điều đó là sai
trái. Một mệnh lệnh là sai nếu nó không tôn trọng người khác và chân giá

trị đạo đức của họ.
Kant là một triết gia theo truyền thống nhân văn. Mệnh lệnh tuyệt
đối của ông chỉ thuộc về con người và sự tôn trọng cũng chỉ dành cho con
người. Tuy nhiên, các nhà tự nhiên học lại phủ nhận điều đó. Richard
Wadson( 1979) bắt đầu từ thuyết mệnh lệnh đó nhưng lại sử dụng cho các
loài vật khác. Ông dựa trên qui tắc về khả năng trao đổi thông tin, khả năng
hành động có hiểu biết để xét xem” loài khác” ở đây bao gồm những gì.
Ông phủ nhận việc chỉ có con người có khả năng giao tiếp, trao đổi thông
tin và chứng minh rằng các loài động vật bậc cao như tinh tinh, cá heo và
chó cũng có khả năng đó. Watson cho rằng chúng nên được ban quyền và
nghĩa vụ đạo đức, ít nhất là các quyền cơ bản như quyền được sống và
được bảo vệ.
Tuy nhiên, nhiều tác giả tin rằng con người cần phải có nghĩa vụ đối
với các loài vật khác nữa. Nhà triết học G.J.Warnock kết luận rằng tất cả
các loài vật có khả năng nhận thức- những loài vật có thể cảm nhận vui
sướng hay đau đớn đều phải được quan tâm. Vì vậy, đối với Warnock, khi
bạn và tôi đưa ra quyết định kinh tế, chúng ta phải có bổn phận quan tâm
đến những ảnh hưởng của hoạt động đó đối với các loài vật có khả năng
nhận thức.
Một số nhà triết học khác cho rằng điều kiện về khả năng nhận thức là rất
hạn chế. Chúng ta phải có nghĩa vụ không chỉ đối với những loài vật có
khả năng nhận thức mà còn đối với các loài khác. Kenneth Good
Paster(1978) khẳng định rằng tất cả các loài vật sống đều cần phải được
3
quan tâm, bảo vệ. W.Murray Hurt (1980) đã kế tục và phát triển quan điểm
này. Ông cho rằng “mọi vật đều tồn tại”, đối với Hurt, tất cả mọi thứ đều
tồn tại, dù sống hay chết đều có quyền bình đẳng.
Mặc dù bài tóm tắt của triết học tự nhiên trình bày sơ lược, nó đã
chứng minh rằng triết học nhân văn điển hình được chấp nhận bởi các nhà
kinh tế vẫn bị phân đổi. Nền móng đạo đức của lý luận về sinh thái học và

môi trường có nguồn gốc rất lớn từ đạo đức tự nhiên. Điều này có lẽ đã
giải thích lý do tại sao các nhà kinh tế với chuyên gia môi trường thường
rất khó chấp nhận. Người đọc nếu muốn tìm hiểu sâu thêm về triết học đạo
đức tự nhiên thì nên tham khảo phần đọc thêm ở cuối chương.
3.2 triết học đạo đức tự do
Chủ nghĩa tự do là triết học đạo đức nhân văn. Chân lý trung tâm
của nó là tính không thể xâm phạm cơ bản có quyền cá nhân của con
người. Một hành động sẽ được đánh giá trên cơ sở nó có tôn trọng quyền
cá nhân và quyền kinh tế của con người không. Một hành động mà xâm
phạm quyền cá nhân thì không thể thúc đẩy XH phát triển. Quyền gắn liền
với cá nhân con người và những định nghĩa như quyền XH hay cộng đồng
mang nghĩa không đầy đủ.
Chúng ta sẽ bàn luận về tác phẩm của 1 nhà triết học chủ nghĩa tự do
nổi tiếng Robert Nozick (1974). Cơ sở lý luận của ông là triết học Jonh
Lock. Và những lý luận riêng của ông về sự đạt được công bằng. Đối với
Locke, đó là nguồn gốc của quyền tài sản công bằng. Nozick đã mở rộng lý
luận này. Ông đưa ra câu hỏi: Khi
nào 1 người được quyền sở hữu 1 thứ gì đó?
Câu trả lời là: bất cứ ai mua hay thoả thuận với người sở hữu tài
nguyên thì được quyền sở hữu nó. Vì vậy, quyền sở hữu sẽ là hợp pháp
nếu nó đạt được bời 1 hợp đồng tự nguyện giữa các cá nhân. Điểm khoá
của tất cả điều này là hành động tự nguyện. Phân phối là công bằng nếu
chúng là kết quả của sự lựa chọn tự nguyện, nhưng ngược lại là không
đúng.
Triết học đạo đức tự do chủ nghĩa giới hạn phạm vi chính phủ nên
làm gì. Ví dụ chính sách phân phối lại thu nhập ( giữa người này và người
khác, giữa nước này với nước khác, giữa thế hệ này và thế hệ khác). Ủng
hộ người nghèo bằng tiền thuế của người giàu như thế cũng không công
bằng nếu người ta không bằng lòng nó. Hoạt động của chính phủ sẽ được
hạn chế để duy trì thể chế mua bán trao đổi tự do. Những ai ủng hộ sự hạn

chế vai trò của chính phủ sẽ chấp nhận chủ nghĩa tự do 1 cách nhiệt
tình.Tuy nhiên cần xem xét 3 vấn đề nảy sinh:
1_ Chính phủ nên làm gì về quyền tài sản không công bằng?
4
2_ Tài Nguyên cơ hội mở được giải quyết như thế nào?
3_ Ngoại ứng và hàng hoá công cộng liên quan như thế nào với khái
niệm hiệu quả tối ưu?
Nếu bạn chưa quen thuộc với chúng, các từ hàng hoá công cộng,
ngoại ứng, cơ hội mở sẽ được giải thích trong chương 5, bạn có thể sẽ
muốn quay trở lại vấn đề 2 và 3 sau khi đọc xong chương đó.
3.3 Thuyết vị lợi
Thuyết vị lợi có nguồn gốc từ tác phẩm của David Hume (1711
_1776) và Teremy Bentham (1748_1832) và được thể hiện cụ thể trong tác
phẩm của John Stuart Mill (1806_1873). Đặc biệt trong cuốn:” Thuyết vị
lợi (1863)”. Cơ sở đạo đức của kinh tế học chuẩn tắc là 1 dạng riêng của
thuyết vị lợi, như chúng ta sẽ giải thích thuật ngữ:” lợi ích” ngay từ đầu đã
có ý nghĩa là sự hài lòng hay hạnh phúc cá nhân. Kinh tế học hiện đại vẫn
sử dụng thuật ngữ này với ý nghĩa đó. Thuật ngữ” phúc lợi” sẽ được sử
dụng để đại diện cho hàng hoá công cộng trong thuyết phúc lợi và phúc
lợi là tổng hợp các lợi ích cá nhân. Những hoạt động mà làm tăng phúc lợi
XH là đúng, còn những hoạt động làm giảm phúc lợi XH là sai.
Thuyết vị lợi là lý thuyết kết quả của triết học đạo đức. Hiệu quả của
1 hoạt động dựa trên giá trị đạo đức của nó. Điều này khác với thuyết động
lực học, theo đó 1 hành động sẽ được đánh giá theo động cơ của nó.( Kant
là 1 nhà động lực học) và cũng khác với thuyết đạo nghĩa học, cho rằng
chính bản chất tự nhiên vốn có của nó làm cho nó đúng hay sai. Trong
thuyết vị lợi, 1 hành động sẽ được xem xét là đúng về mặt đạo đức là dù nó
đưa ra những lý do không chính đáng và có thể là tồi tệ trong 1 số tình
huống. Đối với thuyết vị lợi, mục đích sẽ bào chữa cho cách thức, biện
pháp.

3.4 Thuyết vị lợi lấy con người làm trung tâm
Nhằm đưa ra đánh giá vị lợi mà chúng ta có giữa nhiều thứ khác, lựa
chọn thành phần của giới thực thể mà giá trị của chúng đáng được quan
tâm. Chúng ta quyết định ai đáng được quan tâm trong việc quyết định 1
hành động là đúng hay sai. Những người sáng lập ra thuyết vị lợi cho rằng
1 cách hiển nhiên chỉ có con người mới đáng được quan tâm về mặt đạo
đức. Kinh tế học hiện đại cũng đồng ý với quan điểm lấy con người làm
trung tâm
Sự hạn chế chỉ lấy con người làm trung tâm là không hợp lý. Chúng ta
đề cập 1 cách cụ thể đến phần kết luận được đưa ra bởi triết gia Peter
Sunger. Trong cuốn sách của ông” đạo đức thực hành” ông đã chấp nhận
quan điểm vị lợi. Ông cho rằng lợi ích xuất phát từ sự hài lòng thỏa mãn và
5
đó là tất cả các loài có khả năng nhận thức( bởi định nghĩa), có khả năng
càm nhận hài lòng, thỏa mãn, hay đau đớn. Lợi ích đó là 1 bộ phận của
cảm giác, không chỉ đối với con người. Ông kết luận rằng qui tắc để đánh
giá 1 hành động là dựa trên lợi ích và phúc lợi. Kéo theo đó, là hợp lý về
mặt đạo đức, nhưng khẳng định rằng cần phải quan tâm đến lợi ích của
những thực thể khác không phải là con người.
Cần chú ý ở đây là việc bác bỏ lý luận của Singer về mở rộng cái cần
xem xét về mặt đạo đức không hàm ý rằng lợi ích của thực thể không phải
là người thì bị bỏ qua. Có 2 trường hợp mà những thực thể này có thể ảnh
hưỡng đến quyết định, tuy nhiên chỉ có lợi ích của con người mới được
tính đến.
Thứ 1: 1 vài người cảm thấy đau lòng khi nhìn thấy các loài vật bị
tổn thương
Thứ 2: Con người sử dụng tài nguyên có thể tái tạo_ động vật và
thực vật_ như là đầu vào của quá trình sản xuất và việc quản lý tài nguyên
hợp lý sẽ cân nhắc xem xét tới các thế hệ tương lai.
Vì cả 2 loại lý do này, 1 số loài động thực vật có giá trị đối với con

người một cách trực tiếp. Như chúng ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách này.
Sẽ thường xuyên có trường hợp giá trị phát sinh không được đánh giá qua
thị trường. Một phần quan trọng của môn kinh tế tài nguyên và môi trường
là đưa ra những tính toán hợp lý đối với giá trị của các loại tài nguyên_
trực tiếp trong trường hợp chủ nghĩa vị tha và gián tiếp trong trường hợp
tiêu dùng sản xuất.
3.3.2 Chủ nghĩa vị lợi dựa trên sở thích
Căn cứ để chúng ta quyết định cái gì đúng, cái gì sai là tầm quan trọng
của cá nhân con người. Vẫn tồn tại vấn đề chúng ta nên quyết định như thế
nào, kết quả nào là tốt làm tăng lợi ích, kết quả nào là xấu làm giảm lợi ích.
Chúng ta nên quyết định như thế nào, cái nào là tốt cho tất cả mọi người.
Trong thuyết vị lợi là nền tảng cơ bản trong kinh tế học chuẩn tắc, câu trả
lời là người bị ảnh hưởng sẽ quyết định. Nếu cá nhân A thích I hơn II, theo
thuyết vị lợi hài lòng hơn trong kinh tế học phúc lợi, I sẽ mang lại nhiều lợi
ích hơn II đối với A. Điều này cũng được biết trong thuyết tiêu dùng độc
lập, nền kinh tế được chi phối bởi ước muốn của người tiêu dùng.
Thuyết vị lợi lấy con người làm trung tâm, cho rằng lợi ích cá nhân có
thể nhận biết rõ bằng tình trạng sức khỏe và tinh thần hơn là sự hài lòng
hơn. Trong khi đều là sự thật hợp lý, hầu hết mọi người xem thuyết vị lợi
tự nó đánh giá theo sự thích hơn. Đó là chính xác bởi cách dùng này phổ
biến đến nỗi nó rất quan trọng để làm sáng tỏ thuyết hiệu quả lấy con
người làm trung tâm của đạo đức không bao hàm sự độc lập tiêu dùng. Lối
6
giải thích hài lòng hơn là đúng, như chúng ta sẽ thấy tự nó được chính thức
hóa. Nó cũng hướng thẳng vào các hình thức của các tổ chức kinh tế chiếm
ưu thế trong XH loài người_ thị trường. Chúng ta sẽ nhìn thấy 1 vài lời phê
bình của thuyết vị lợi hài lòng hơn sau khi xem xét nó giải quyết như thế
nào với vấn đề phúc lợi XH.
3.3.3 Hàm lợi ích số lượng và thứ tự
Trong thuyết vị lợi, kéo theo đó là kinh tế học phúc lợi, phúc lợi XH là

sự tổng hợp các lợi ích cá nhân. 1 vài hành động làm tăng phúc lợi XH là
đúng còn làm giảm phúc lợi XH là sai. Bây giờ chúng ta xem xét 1 cách
chính xác từ lợi ích tiến đến phúc lợi như thế nào.
3.3.3.1 Hàm lợi ích số lượng và thứ tự
Chúng ta sẽ khảo sát ngắn gọn dạng hàm phúc lợi. Nhưng bất cứ câu trả
lời nào cho vấn đề này, chúng ta chỉ có thể đạt được 1 biện pháp đo lường
tổng hợp lợi ích cá nhân.
Hàm lợi ích biểu diễn lợi ích XH qua 1 con số đơn lẻ, chúng ta có
U= U( X1, X2,…, Xi, …, Xn)
Trong đó: U: đo lường lợi ích
Xi: là các mức độ tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ 1, 2, …,n
Chúng ta sẽ xem xét chi tiết điều này trong chương 12. Hiện tại, chúng
ta sẽ nghiên cứu tình huống mà ở đó lý luận bao gồm các mức tiêu dùng.
Bây giờ, chúng ta cần so sánh giữa đo lường lợi ích số lượng và đo
lường lợi ích thứ tự. Dữ liệu số lượng là những quan sát bằng số mà ở đó
các phép tính chuẩn: cộng, trừ, nhân, chia có ý nghĩa. Ví dụ về dữ liệu số
liệu là những quan sát trên chiều cao, cân nặng, chiều dài. Nếu John cân
nặng 100kg và jane nặng 70kg, nghĩa là John nặng hơn Jane 30kg và nặng
gấp 1.4286 lần. Dữ liệu thứ tự là những quan sát bằng số mà ở đó thứ tự có
thể được sử dụng nhưng các phép tính số học thì không thể sử dụng được
số liệu khoảng cách là 1 ví dụ_ từ 10 đến 30 được hiệu bao gồm 20 số. Chú
ý rằng chúng ta có thể nhân số liệu khoảng cách bởi 1 hằng số với điều này
sẽ không thay đổi nội dung thông tin.
Nếu chúng ta muốn tổng hợp lợi ích cá nhân 1 cách có ý nghĩa, những
biện pháp đo lường này phải là 1 số lượng, giả định rằng chúng ta có 2 cá
nhân A và B, lợi ích của A là 10, lợi ích của B là 5, và cũng đồng ý rằng
phép cộng đơn giản là cách để tổng hợp. Trong trường hợp đó, phúc lợi là
15 đơn vị. Nhưng nếu biện pháp đo lường là thứ tự, giả sữ lợi ích của B là
50, trong trường hợp này, phúc lợi là 60 đơn vị. Như vậy lợi ích của B
bằng 5 lần lợi ích của A.

7
Trong kinh tế học thực chứng các nhà kinh tế phải thiết lập thứ tự ưa
thích hơn được thể hiện bằng hàm lợi ích thứ tự, từ đó đưa ra lý thuyết cầu.
lý thuyết cầu không cần đo lường lợi ích về mắt số lượng, nó chỉ cần đo
lường về mặt thứ tự. Không có cơ sở cho việc so sánh lợi ích giữa các cá
nhân. Chúng ta không thể quan sát tình huống và cách xử sự của A và B và
chắc chắn rằng, lợi ích của A lớn hơn B.
Căn cứ vào điều này, các nhà kinh tế muốn không phải đưa ra sự so
sánh giữa các cá nhân khi nghiên cứu kinh tế học thực chứng và mất nhiều
thời gian nhằm cố gắng tìm ra cách để tránh việc cần thiết để làm như vậy,
phần này ở trong kinh tế học phúc lợi gọi là kiểm tra đền bù, được đề cập 1
cách đầy đủ trong chương 5 phần sau. Ở đây, chúng ta chỉ phác thảo ra
những điểm chủ yếu. Giả định rằng chúng ta đang xem xét 1 sự thay đổi
trong nền kinh tế, cụ thể là sự thay đổi lợi ích của A và B. Nếu cả 2 tiêu
dùng nhiều hơn mọi thứ, những giả định chuẩn của lý thuyết cần được thực
chứng cho rằng cả 2 đều tốt hơn, và chúng ta không cần phải tiến hành sự
so sánh giữa các cá nhân để bất luận rằng phúc lợi được tăng lên nhờ sự
thay đổi đó. Thay đổi như vậy không điển hình.
Đặc biệt, 1 vài thay đổi đưa ra sẽ làm cho 1 trong 2 cá nhân A hay B tốt
hơn, làm tăng lợi ích của A hay B trong khi lợi ích của nguời kia thì bị
giảm xuống. Bây giờ họ quyết định như thế nào về thay đổi đáng được
mong muốn? Rõ ràng việc cần làm là cộng những thay đổi lợi ích lại, sử
dụng những cái ảnh hưỡng có thể và xem thử câu trả lời là khẳng định hay
phủ định. Kết luận rằng thay đổi là đáng mong muốn nếu chúng ta có 1 câu
trả lời khẳng định. Nhưng căn cứ vào đó, sự so sánh lợi ích giữa các cá
nhân với nhau là không thể chấp nhận, điều này chúng ta không thể làm.
Một sự thay đổi là đáng mong muốn nếu nó làm tăng phúc lợi, và nếu như
vậy, người thắng cuộc từ sự thay đổi này sẽ tốt hơn và đền bù đầy đủ cho
người thua cuộc. Điều này được thể hiện trong” Cải thiện Pareto”_ 1 sự
thay đổi có ít nhất 1 người thắng cuộc và không có ai thua cuộc.

Bây giờ, do cách này không tránh được nhu cầu so sánh giữa cá nhân
này với cá nhân khác nên nó không được sử dụng nhiều. Nếu các nhà kinh
tế hạn chế việc đưa ra lời khuyên chính sách dựa trên sự thử nghiệm” cải
thiện Pareto” họ sẽ không nói nhiều. Họ chỉ có thể nói bất cứ sự thay đổi
nào mọi người cũng đều chiến thắng hoặc những người thắng cuộc phải
đền bù cho người thua cuộc. sự đền bù bắt buộc này không phải là 1 điểm
của thay đổi chính sách mà chính phủ dựa trên đó để tìm kiếm lời khuyên.
Như sẽ được trình bày trong chương 5, mặc dù được sử dụng 1 cách rồng
rãi trong kinh tế học phúc lợi, sự thử nghiệm đền bù tiềm năng không giải
quyết được vấn đề. Nếu các nhà kinh tế muốn nhận biết sự thay đổi đó là
tăng phúc lợi, họ cần tổng hợp trên lợi ích cá nhân, so sánh giữa các cá
8
nhân với nhau, và sử dụng hàm lợi ích số lượng. Có 2 phương pháp cơ bản
được sử dụng để giải quyết vấn đề này.
Đầu tiên là chon lựa nền tảng giới hạn trên đó để đưa ra lời khuyên.
Như sẽ được bàn luận trong chương 5, nhiều lời khuyên mà các nhà kinh tế
đưa ra dựa trên sự hiệu quả hơn là tiêu chuẩn phúc lợi.
Thứ hai là sử dụng hàm lợi ích số lượng và tiếp tục sử dụng hàm này để
tính phúc lợi, tổng hợp trên lợi ích để hình thành biện pháp đo lường phúc
lợi. Đó là phương pháp tiếp cận thứ 2 mà chúng ta khảo sát.
3.3.3.2 Hàm phúc lợi XH và sự phân bổ
Thử tưởng tượng 1 giả định rằng XH chỉ bao gồm 2 cá nhân A và B,
sống cùng 1 điểm thời gian cụ thể. Tồn tại 1 hàng hóa X, sự tiêu dùng nó
nhằm mang lại lợi ích. Sử dụng
U
A
biểu thị cho tổng lợi ích của A.
U
B
biểu thị cho tổng lợi ích của B, vì vậy chúng ta có:


U
A
=
U
A
(
X
A
)

U
B
=
U
B
(
X
B
) (3.1)
Trong đó:
X
A
,
X
B
biểu thị số lượng hàng hóa được dùng bởi A, B
tách biệt. Chúng ta giả định lợi ích cận biên giảm, để:
U
A

X
=
dU
A
/
dX
A
>O

U
A
XX
=
d
2
U
A
/
dX
A
2
<O

U
B
X
=
dXdU
BB
>O


U
B
XY
=
dXUd
B
A
2
2
<O
Tóm lại, thuyết vị lợi không giải quyết vấn đề sản lượng nên được phân
phối giữa các cá nhân trong XH như thế nào. Phúc lợi XH, W được xác
định bởi hàm có dạng:
( )
UU
BA
WW ,
=

( )
2.3
Trong đó:
0
>∂∂=
U
W
A
A
W

Do đó, phúc lợi XH tăng. Ở đây, phúc lợi phụ thuộc vào mức lợi ích cụ
thể của từng cá nhân. Hàm phúc lợi XH cho phép chúng ta sắp xếp thứ tự
lợi ích của các cá nhân dựa trên giá trị XH của họ.
Thừa nhận rằng, để làm cho mọi thứ đơn giản và tập trung vào vấn đề
chính ở đây, đó là 1 tổng số cố định hàng hóa, ký hiệu
X
. (Phân tích tình
huống mà tổng số lượng của 2 hàng hóa tiêu dùng, có thể thay đổi sẽ được
9
trình bày trong chương 5). Chọn các mức tiêu dùng của A và B với các lợi
ích kéo theo đó nhằm cực đại hóa phúc lợi
XX
BA
,
được chọn, đó là
cực đại hóa phúc lợi
( )
UU
BA
WW ,
=
Căn cứ vào
UU
BA
,
đã được xác định theo phương trình
( )
1.3
với
điều kiện ràng buộc là:

X
XX
BA
=+
Điều này được thể hiện trong phụ lục
( )
2.3
sử dụng hàm Larange trong
phụ lục
( )
1.3
, giải quyết vấn đề này yêu cầu:
U
W
U
W
B
X
B
A
X
A
=

( )
3.3
Đó là điều kiện mà sự phân phối tăng thêm phúc lợi từ tiêu dùng của
mỗi cá nhân bằng nhau. Điều này nghĩa là các nước tiêu dùng cho mỗi cá
nhân sẽ thay đổi hàm lợi ích cá nhân và hàm phúc lợi XH
( )

2.3
.
Dạng cụ thể được sử dụng rộng rãi cho hàm
( )
2.3

W
như tổng lợi
ích cá nhân là:
( ) ( )
X
U
WX
U
W
B
B
B
A
A
A
W
+=
.
Trong đó:
WW
BA
,
cố định, trong trường hợp này, điều kiện
cho sự cực đại hóa phúc lợi XH là:

.
U
W
U
W
B
X
B
A
X
A
=
Rõ ràng hơn là tạo nên ảnh hưởng cân bằng để lợi ích XH là sự tổng
hợp đơn giản là lợi ích cá nhân. Trong trường hợp đặc biệt này, chúng ta
có:
.
UU
BA
W
+=
Hình vẽ
( )
1.3
mô tả đường bàng quan, được vẽ trong hệ trục tọa độ lợi
ích, biểu diễn cho hàm phúc lợi. Đường bàng quan phúc lợi XH là 1 quỹ
kết nối các lợi ích cá nhân tạo thành lợi ích XH là 1 con số không đổi
W
.
Trong trường hợp ảnh hưởng phúc lợi cân bằng, điều kiện cực đại háo
lợi ích XH, phương trình

( )
3.3
trở thành:
( )
6.3
UU
B
X
A
X
=
Đó là đẳng thức có lợi ích cận biên cá nhân. Nó cũng không cho chúng
ta biết hàng hóa nên được phân phối như thế nào. Để giải quyết vấn đề
này, chúng ta cần 1 số thông tin về hàm lợi ích của mỗi cá nhân. Xem xét
trường hợp mà mỗi người có cùng 1 hàm lợi ích, đó là:

( )
( )
X
U
X
UU
A
A
AA
==
( )
( )
X
U

X
UU
B
B
BB
==

( )
7.3
Sau đó dễ dàng thấy rằng để lợi ích cận biên bằng nhau cho mỗi cá
nhân mức tiêu dùng phải bằng nhau đối với mỗi người. một hàm phúc lợi
10
tổng, với ảnh hưởng tác dụng như nhau của lợi ích cá nhân, hàm ý rằng. Ờ
mức phúc lợi cực đại, mỗi cá nhân có những múc tiêu dùng giống nhau.
Giải pháp cho vấn đề này với ảnh hưởng giống nhau với hàm lợi ích
như nhau được mô tả bằng biểu đồ
( )
2.3
. Cần chú ý rằng bây giờ biểu đồ
được vẽ trong không gian hàng hóa, không phải là không gian lợi ích. Với
giả định chúng là lợi ích cận biên giảm dần. đường bàng quan trong không
gian lợi ích ở biểu đồ
( )
1.3
chuyển thành đường cong

lợi ích trong
không gian hàng hóa. Đường cong
WWW
321

,,
là đường
bàng quan phúc lợi XH với
WWW
321
<<
. Nhớ rằng chúng
ta thừa nhận có 1 số lượng cố định hàng hóa X sẵn sàng để phân phối cho
2 cá nhân. Phúc lợi cực đại
W
2
đạt được tại điểm Z. ở đó mức tiêu
dùng của cá nhân A là
X
A

, cá nhân B là
X
B

. Phúc lợi cực đại tất
nhiên phụ thuộc vào
X
.
Trong ví dụ chúng ta đã có ngay kết quả là các mức tiêu dùng cá nhân
sẽ bằng nhau. Nhưng thuyết vị lợi không hàm ý cần thiết phải phân phối
hàng hóa công bằng. phúc lợi vẫn có thể cực đại ở mức phân phối không
bằng nhau dưới 1 vài điều kiện sau:
1. SWF không phải là dạng tổng theo lý thuyết trong phương
trình 3.4.

2. ảnh hưởng lợi ích cá nhân bằng nhau.
3. Hàm lợi ích khác nhau giữa các cá nhân.
Để minh họa điều kiện 3, giả định rằng hàm lợi ích của 2 cá nhân, A và
B được trình bày trong biểu đồ 3.3. những cá nhân có mức tiêu dùng khác
nhau. Đó là A tiêu dùng cao hơn B. chúng ta sẽ thừa nhận rằng hàm phúc
lợi XH là tổng cộng với ảnh hưởng như nhau để lợi ích cân bằng nhau để
tối đa hóa phúc lợi. Trong biểu đồ, nhớ lại rằng giá trị của lợi ích cận biên
tại 1 mức tiêu dùng cụ thể chính là lợi ích của hàm tổng lợi ích tại điểm đớ.
Kết quả được chỉ ra trong biểu đồ 3.3 cho thấy 1 vài nghịch lý. Cá nhân
B kém hiệu quả hơn so với cá nhân A khi chuyển tiêu dùng thành lợi ích.
Chúng ta muốn thuyết vị lợi với ảnh hưởng bằng nhau là hợp lý. Điều này
mô tả 1 điểm quan trọng về lý thuyết đạo đức.
11


3.4 Lời phê bình về thuyết vị lợi
Có nhiều lời phê bình về thuyết vị lợi đã tiếp cận các kỹ thuật đạo đức,
phê bình thuyết vị lợi đã được bao hàm bởi tính ngẫu nhiên, các học thuyết
đạo đức trong phần này, ta sẽ xem xét những ảnh hưởng gần đây đã đóng
ghóp vào triết lý đạo đức liên quan tới thuyết vị lợi nói chung. Sau đó, một
vài lời phê bình đã trở thành nền tảng cho hệ thống kinh tế phúc lợi XH
hiện đại.

Rawls: “Lý thuyết về sự công bằng”
U
A
Slope= -1
UU
BA
W

+=
U
B
X
A
X
B
*A
X
Z
3
W
2
W
12
*B
X
Công việc của John Rawls trong lý thuyết về sự công bằng đã ảnh
hưởng tới sự nghiên cứu vấn đề kinh tế tới đạo đức. Nó không thừa nhận
thuyết vị lợi cổ điển, đó là tổng lợi ích cá nhân đơn giản. Lý do phản đối
của Rawl dựa vào quyền lợi theo sau, không thiên vị trong việc phân bổ sự
thỏa mãn giữa các cá nhân, một sự phân bổ tài nguyên tạo ra bởi phúc lợi
XH tối đa có thể ảnh hưởng tới tự do và lẽ phải những cái mà đáng được
quan tâm.
Thông thường, như nhiều nhà triết lý đạo đức khác. Ông cố gắng thiết
lập các nguyên tắc về một XH công bằng. Ông thừa nhận sự tiếp cận các ý
kiến của Kant. Các nguyên tắc công bằng có hiệu lực đó sẽ được mọi
người đồng ý nếu như chúng ta có thể tự do xem xét, cân nhắc các nguyên
tắc.
Theo trật tự xác định nguyên tắc cân bằng của tự nhiên, Rawls đã sử

dụng các phương sách hình dung một giả thuýêt quốc gia tới các nguyên
tắc về sự công bằngm, sự tổ chức của các cơ chế XH, sự phân bổ thành quả
và đóng ghóp trong hoàn cảnh này, các cá nhân đã tồn tại phía sau một
màn chắn cho sự kém hiểu biết, họ đã không hiểu rõ về các tính cách thừa
hưởng( thông minh…). ở vị trí ấy, họ chỉ biết công nhận những gì đã có
trong XH. Thêm vào đó, họ thừa nhận một cách không ràng buộc các quan
điểm trong các hoàn cảnh sống riêng biệt. Khi ấy,” cái màn chắn cho sự
kém hiểu biết sẽ bị lờ đi”. Rawls đã tìm kiếm cách áp dụng bản chất của
hợp đồng XH, những cái mà có thể sáng tạo bởi các cá nhân tán thành
trong quan điểm ban đầu.
Rawls đưa ra lý do, dưới mọi hoàn cảnh, mọi người sẽ thống nhất đồng
ý với 2 nguyên tắc công bằng cơ bản. Đó là:
T1: Mỗi người đều có quyền bình đẳng rộng rãi và quyền tự do
như nhau.
T2: XH và kinh tế không bình đẳng sẽ được sắp đặt sao cho cả 2
( )
a
đều hợp lý. Đoán trước được ưu điểm của mỗi người và
( )
b
tham gia
vào các vị trí chức vụ và cởi mở.
Trong nguyên tắc thứ 2, nguyên tắc chênh lệch. Nguyên tắc này khẳng
định rằng việc không bình đẳng sẽ được bào chữa nếu chúng đề cao vị trí
của mỗi người trong XH( Nếu chúng đạt đến sự cải thiện Pareto). Nguyên
tắc chênh lệch đã được giải thích bởi giả thiết ủng hộ cho sự bình đẳng
trong các vị trí, độ lệch khỏi vị trí cân bằng là không đúng trừ khi trong các
hoàn cảnh đặc biệt mà mọi người đều lợi dụng( hoặc có lẽ ít nhất là lợi
dụng). các nhà kinh tế đã cố gắng để tìm ra những gì mà quan điểm
Rawlsian đã ngụ ý cho bản chất của hàm phúc lợi XH( SWF).

Một cách tiếp cận đã gây ra tranh luận, đó là trường hợp của 2 cá nhân,
đã tính toán bởi hàm phúc lợi XH, xác định bởi công thức:
13
( )
.,min
UU
BA
W
=
Đồ thị 3.4: đường bàng quan về hàm phúc lợi XH Rawlsian
Biểu thức chỉ rằng W là giá trị nhỏ nhất của
UU
BA
,
. 2 đường bàng
quan hàm phúc lợi XH được minh họa ở đồ thị 3.4.
So sánh 2 điểm b và c trong đồ thị 3.4, 2 điểm đều cùng nằm trên một
đường bàng quan sinh ra từ các mức độ giống nhau của phúc lợi XH. Bắt
đầu từ điểm b, xem lại lợi ích của mỗi người ta thấy, nếu lấy (b_ d). lợi ích
từ người B thêm vào người A thì ta sẽ thu được điểm e khác, là điểm mà
có phúc lợi cao hơn. Rõ ràng là chỉ có cách kết hợp các lợi ích bằng cách
A
U
0
45
e
c d b
( )
BA
UUW ,min

=
W
14
B
U
chuyển giao lợi ích cho nhau sẽ thu được các điểm nằm trên đường
45
0
xuất phát từ gốc.
Theo cách này, lợi ích giữa các cá nhân sẽ đồng đều, bằng nhau. Vì vậy,
để đưa ra sự tổng lợi ích, hàm phúc lợi XH Rawlsian ngụ ý rằng bất cứ
điểm nào có lợi ích khác nhau giữa các cá nhân có thể sẽ được tăng lên
bằng việc phân bổ lại lợi ích từ các cá nhân có mức lợi ích cao hơn tới các
cá nhân có mức lợi ích thấp hơn. Sự phân bổ bình quân được ngụ ý theo
trình tự logic này.

15
Lượng phúc lợi tiêu dùng

Một cách tiếp cận khác cùng liên quan tới hàm trên là cộng các hàm
phúc lợi lại với nhau. Nhưng phải chỉ ra được hàm lợi ích trong cách này.
Nếu tất cả các cá nhân có cùng hàm lợi ích thì:
X
U
α
α
×=
1
với
1


α

0

α
Vì vậy lợi ích cận biên là số dương, bao gồm cả các trường hợp
0

α
.
Lợi ích cận biên sẽ giảm khi tiêu dùng tăng lên dần. Tuy trường hợp có 2
cá nhân, các hàm lợi ích sẽ được cộng lại với nhau để trở thành 1 hàm tổng
phúc lợi.
( ) ( )
( )
9.3
11
∂∂

+

=
XX
BA
W
Lời phê bình về thuyết vị lợi dựa trên sở thích
ý tưởng cơ bản( trong bài dịch) của thuyết vị lợi là cơ sở cho kinh tế
phúc lợi hay sở thích của các cá nhân là tiêu chuẩn để đánh giá phúc lợi
XH, được đưa ra bởi khả năng của tài nguyên và công nghệ sẵn có, mọi

người nên có những gì mà họ muốn. kinh tế học không đi vào tìm hiểu về
các định thức về sự ưa thích của các cá nhân, cũng không bao gồm những
câu hỏi của các cá nhân khác, những người mà hiểu rằng cái gì là tốt đối
với họ.
Lời phê bình ở đây, người tiêu dùng tối cao tiếp cận phúc lợi XH từ các
nhà kinh tế học cũng như nhiều nhà phi kinh tế khác. Không phải tất cả các


0.3612 1 0.1 1
0.1778 1 0.0316 1
0.1 1 0.01 1
0.0316 1 0.001 1
0.01 1 0.0001 1
0.001 1 0.000001 1
16

×