Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.69 KB, 125 trang )

Toàn bộ
thị trường
Những dự án tốt hơn hoặc xấu hơn dự kiến
Khu vực tổng thể có thể bị tác động bởi những hành động nào đó
Lãi suất, lạm phát và những thông tin về nền kinh tế
Cạnh tranh lớn hơn hoặc yếu hơn
Tỷ giá hối đoái và rủi ro chính trị tác động đến nhiều lợi tức chứng khoán
Từng doanh nghiệp cụ thể
Rủi ro chỉ tác động đến 01 Công ty
Tác động đến một số công ty
Tác động nhiều công ty
Rủi ro tác động đến mọi khoản đầu tư
r = Lợi nhuận
A(2)
A(1)
A(5)
A(4)
A(3)
Rủi ro
Lợi nhuận
A(2)
A(5)
Rủi ro
I
II
HÖ sè = 1,5
25
20
10
-15 -5 5 15
I


IV
-10
-20
III
R
j
(%)
R
f
Bê ta của chứng khoán
Đường TTCK (SML)
Khoảng gia tăng bù đắp rủi ro
Lợi nhuận không rủi ro
P.TCNS&TL
Văn phòng
Ban Đầu tư
Ban Quản lý
dòng tiền
Ban Thu xếp vốn và TDDN
Ban DVTC
Doanh nghiệp
P.Kế hoạch
P.Kế toán
P.HCQT
P.TT & PT
sản phẩm
P.Thẩm định
độc lập
P.KTKSNB
Trung tâm TT&CNTH

Ban QLRR Tín dụng và đầu tư
Trung tâm
đào tạo
Hồ Chí Minh
Vũng Tàu
Đà Nẵng
Thăng Long
Sài gòn
Hải phòng
Nam Định
Cần Thơ
Thanh Hoá
PVFC Invest
PVFC Land
PVFC Media
PVFC Capital
KHỐI
QUẢN LÝ
CÔNG TY THÀNH VIÊN
Kiểm toán
nội bộ
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
CHI NHÁNH
KHỐI
KINH DOANH
Hệ thống PGD Trung tâm
2007
2006

2005
Năm 2007Năm 2006Năm 2005
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chiến lược phát triển ngành Dầu khí đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2025 xác định phải nhanh chóng xây dựng PetroVietnam trở thành một
Tập đoàn Công nghiệp- Thương mại- Tài chính Dầu khí quan trọng, hoàn
chỉnh hoạt động trong và ngoài nước.
Với nhiệm vụ xây dựng PVFC trở thành trung tâm tài chính của Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt nam, hoạt động đầu tư, trong đó có hoạt động đầu tư
chứng khoán đang ngày càng phát triển trở thành một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Công ty Tài chính Dầu khí. Với việc nguồn vốn đầu
tư, bao gồm nguồn vốn tự có và nguồn vốn uỷ thác đầu tư đang ngày càng
tăng nhanh, danh mục đầu tư của PVFC cũng ngày càng đa dạng, cả về khối
lượng đầu tư, hình thức đầu tư và lĩnh vực đầu tư.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nền kinh tế
Việt nam nói chung và môi trường đầu tư nói riêng đang có rất nhiều cơ hội
và thách thức. Đặc biệt, đối với thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt
nam, hoạt động đầu tư chứng khoán còn gặp phải nhiều thách thức to lớn hơn.
Do đó, để xây dựng và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán hiệu quả, đạt
được các mục tiêu chiến lược là bảo tồn và phát triển nguồn vốn, nâng cao vị
thế của Công ty Tài chính Dầu khí và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam
trong lĩnh vực đầu tư tài chính, thì bên cạnh việc đa dạng hoá danh mục đầu
tư, vai trò quản trị danh mục đầu tư là vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy, đề tài “Quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán
tại Công ty Tài chính Dầu khí” sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng và hệ
thống phương pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư tại PVFC, góp phần
tăng hiệu quả hoạt động đầu tư chứng khoán của PVFC.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro

đầu tư chứng khoán.
- Phân tích thực trạng hoạt động đầu tư chứng khoán, các biện pháp quản
lý rủi ro tại PVFC, từ đó nêu lên những kết quả đạt được và những mặt còn
hạn chế.
- Đề xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại
PVFC.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại Công ty
Tài chính Dầu khí từ năm 2001 đến năm 2007.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở các lý luận cơ bản vị kinh tế học và phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử.
- Khảo sát số liệu thực tế qua các báo cáo tổng kết tại Công ty Tài chính
Dầu khí.
- Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp nhằm rút
ra những kết luận có tính quy luật đối với các vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư chứng khoán, quản
lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư chứng khoán, quản lý rủi ro đầu tư
chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí.
- Đề xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại
PVFC.
2
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán tại
Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán

tại Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN
4
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1. Chứng khoán và đầu tư chứng khoán.
1.1. Chứng khoán
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chứng khoán, tuy nhiên, theo nghĩa
chung nhất, có thể hiểu Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá và có thể mua
bán trên thị trường, gọi là thị trường chứng khoán, khi đó chứng khoán là
hàng hóa trên thị trường đó. Dùng Security, nghĩa gốc là an toàn, để gọi tên
chứng khoán xuất phát từ việc coi nắm giữ chứng khoán là việc sở hữu an
toàn và thuận tiện một tài sản nào đó. Chứng khoán chính là tài sản tài chính
vỉ nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền
về. Chứng khoán có rất nhiều loại: cổ phiếu, trái phiếu và một số loại khác
như quyền mua cổ phiếu mới, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn,
chứng chỉ quỹ đầu tư. Nói chung, người ta phân chia chứng khoán thành 4
nhóm chính là cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán có thể chuyển đổi và các
chứng khoán phái sinh.
* Cổ phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai
loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
- Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu có thu nhập phụ̀ thuộc vào hoạt
động kinh doanh của công ty. Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham

gia họp Đại hội đồng cổ đông và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề
quan trọng nhất của công ty, được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản
trị của công ty.
- Cổ phiếu ưu đãi: tương tự như cổ phiếu phổ thông nhưng cổ đông sở hữu
nó không được tham gia bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị, nhưng lại
có quyền được hưởng thu nhập cố định hàng năm theo một tỷ lệ lãi suất cố
định không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty, được ưu tiên chia lãi cổ phần
trước cổ đông phổ thông và được ưu tiên chia tài sản còn lại của công ty khi
công ty thanh lý, giải thể.
* Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của
người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán
(người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời
gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Thông thường, căn cứ vào đối tượng phát hành Trái phiếu, người ta chia
Trái phiếu thành 2 loại: Trái phiếu chính phủ và Trái phiếu Công ty.
* Chứng khoán có thể chuyển đổi: là những chứng khoán cho phép
người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có
thể đổi nó lấy một chứng khoán khác.
Thông thường, có cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu thường và
trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
* Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được phát hành trên
cơ sở các loại chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích
giảm thiểu rủi ro, bảo toàn nguồn vốn đầu tư và thu lợi nhuận.
Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản là hợp đồng tương lai, hợp đồng
kỳ hạn, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi.
6
1.2. Đầu tư chứng khoán:
1.1.2.1. Khái niệm
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là quá trình sử dụng các nguồn lực hiện tại
nhằm thu lại lợi ích nào đó trong tương lai. Các nguồn lực sử dụng vào quá

trình đầu tư được gọi là vốn đầu tư và có thể được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như: vốn bằng tiền (nội tệ, ngoại tệ), kim khí quý, đá quý, đất
đai, bất động sản, tài nguyên, giá trị thương hiệu, phát minh sáng chế…
Lợi ích của đầu tư cũng được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ theo
mục đích của hoạt động đầu tư như: lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh
quốc phòng, bảo vệ môi trường…Trong hoạt động kinh tế mục đích chủ yếu
và trước hết của hoạt động đầu tư là để thu lợi nhuận.
Hoạt động đầu tư có thể do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện dưới
nhiều hình thức. Song nếu căn cứ vào mối liên hệ trực tiếp giữa chủ đầu tư và
đối tượng đầu tư người ta thường chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia
quản lý điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, được thực hiện dưới các
hình thức như góp vốn kinh doanh hoặc thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư không trực tiếp tham
gia điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, được thực hiện
dưới các hình thức như đầu tư chứng khoán hoặc cho vay đầu tư đối với các
tổ chức kinh tế.
Như vậy đầu tư chứng khoán là một trong những hình thức đầu tư gián
tiếp của các nhà đầu tư vào các doanh nghiệp, ở đó chủ đầu tư bỏ vốn để mua
các chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) của doanh nghiệp đang lưu hành trên
thị trường chứng khoán nhằm đạt được những lợi ích nhất định.
Đầu tư chứng khoán là một hình thức đầu tư khá phổ biến ở các nước có
nền kinh tế thị trường và thị trường chứng khoan phát triển. Mục đích của đầu
tư chứng khoán trước hết là nhằm thu được lợi nhuận từ số tiền đã bỏ ra đầu
tư. Phần lợi nhuận này được hình thành từ lợi tức chứng khoán mà chủ doanh
nghiệp trả cho người đầu tư theo quy định và phần chênh lệch giá chứng
khoán khi họ chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán trên thị trường. Tiếp
đến mục đích của đầu tư chứng khoán là để phân tán rủi ro có thể gặp trong

tương lai như đa dạng hoá các hình thức đầu tư; để thực hiện quyền kiểm soát
hoặc tham gia quản trị doanh nghiệp với tư cách người nắm cổ phần, vốn góp
chi phối. Các mục đích có thể khác nhau tuỳ theo ý định của nhà đầu tư, song
cũng có thể là tổng hợp các mục tiêu trên trong những tình huống cụ thể.
1.2.2. Các hình thức đầu tư chứng khoán
• Theo loại chứng khoán đầu tư
Các chứng khoán doanh nghiệp có nhiều loại như cổ phiếu (cổ phiếu ưu
đãi, cổ phiếu thường…), trái phiếu (trái phiếu thường, trái phiếu có khả năng
chuyển đổi…), các chứng khoán phái sinh (hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa
chọn, chứng quyền, chứng khế…). Mỗi loại chứng khoán có khả năng sinh lời
cũng như mức độ rủi ro, khả năng thanh khoản, quyền kiểm soát hoặc tham
gia quản trị doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy, khi lựa chọn quyết định đầu tư
chứng khoán, nhà đầu tư phải tính toán, cân nhắc kỹ các điểm lợi hoặc bất lợi
khi đầu tư vào loại chứng khoán được lựa chọn sao cho có thể tối đa hoá được
lợi ích của mình.
• Theo phương thức đầu tư chứng khoán
8
Nhà đầu tư chứng khoán có thể thực hiện đầu tư theo các phương thức
khác nhau. Về cơ bản có hai phương thức đầu tư chứng khoán là đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức các nhà đầu tư trực tiếp
mua chứng khoán cho mình thông qua các nhà môi giới chứng khoán trên thị
trường. Trái lại, trong phương thức đầu tư gián tiếp, các nhà đầu tư chứng
khoán thông qua các định chế, tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như Quỹ đầu tư
chứng khoán, Quỹ tín thác đầu tư…để thực hiện hoạt động đầu tư cho mình.
Do các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp có đội ngũ các chuyên gia đầu tư và
quản lý đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng phân tích và đánh giá thị trường
nên có thể giúp cho các nhà đầu tư tránh được các rủi ro không đáng có và đạt
được hiệu quả đầu tư chứng khoán cao hơn.
• Theo thời hạn đầu tư chứng khoán
Theo thời hạn thanh toán, các chứng khoán của doanh nghiệp có thể chia

thành chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán ngắn
hạn là các chứng khoán có thời hạn từ dưới 01 năm (3 tháng, 6 tháng, 9
tháng…); ngược lại, các chứng khoán có thời gian đáo hạn thanh toán từ 01
năm trở lên được gọi là các chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán có thời
gian đáo hạn càng dài thì mức độ rủi ro có thể gặp càng lớn và tính thanh
khoản càng thấp.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK
Các nhân tố cơ bản để xem xét quyết định đầu tư bao gồm:
- Khả năng sinh lời từ khoản đầu tư chứng khoán trong tương lai. Mục
đích trước hết của đầu tư chứng khoán là nhằm thu được lợi nhuận trong
tương lai, vì vậy khả năng sinh lợi của khoản đầu tư chứng khoán là nhân tố
cần được xem xét hàng đầu. Tuy nhiên khả năng sinh lời của chứng khoán lại
chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh;
chính sách kinh tế của nhà nước; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thị trường; chính sách chi trả lợi tức cổ phần của doanh nghiệp… Vì thế để tối
đa hoá lợi nhuận, nhà đầu tư cần phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân tố có
thể ảnh hưởng đến khả năng sinh lời nêu trên để lựa chọn quyết định đầu tư
cho phù hợp.
- Mức độ rủi ro có thể gặp của loại chứng khoán được đầu tư; để có thể
thu được lợi nhuận tối đa trong đầu tư chứng khoán nhà đầu tư còn phải biết
cách tối thiểu hoá các rủi ro có thể gặp. Việc đánh giá mức độ rủi ro trong đầu
tư chứng khoán không chỉ đối với từng loại chứng khoán riêng rẽ mà còn đối
với toàn bộ danh mục đầu tư chứng khoán nhằm hạn chế và phân tán rủi ro.
Thông thường, mức độ rủi ro có sự khác biệt nhất định giữa các chứng khoán
vốn và chứng khoán nợ, giữa chứng khoán có thời hạn thanh toán khác nhau,
giữa chứng khoán có khả năng chuyển đổi hoặc không chuyển đổi, giữa
chứng khoán của các doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh khác nhau.. .Việc
đánh giá mức độ rủi ro đầu tư chứng khoán cũng đòi hỏi năng lực, kỹ năng
phân tích đánh giá rủi ro nhất định của các nhà đầu tư chứng khoán trên thị
trường.

- Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư: tính thanh khoản (hay
còn gọi là tính lỏng) của chứng khoán là khả năng dễ dàng chuyển đổi chứng
khoán thành tiền mặt. Thông thường khi có số tiền mặt nhàn rỗi nhà đầu tư
thường đầu tư chứng khoán để thu lợi nhuận, song khi cần tiền mặt để đáp
ứmg các nhu cầu cá nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại muốn chuyển
nhượng chứng khoán đang sở hữu để thu tiền về. Nếu cá chứng khoán mà họ
sở hữu có khả năng thanh khoản cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện ích
không khác gì việc nắm giữ tiền mặt thì sẽ khuyến khích họ đầu tư chứng
khoán và ngược lại. Do đo tính thanh khoản của chứng khoán cũng là một yếu
tố quan trọng để các nhà đầu tư cần xem xét, lựa chọn.
10
- Mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp.
Đôi khi mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp
cũng là một nhân tố được xét đến khi lựa chọn quyết định đầu tư chứng
khoán. Quyền hạn và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán thường được tăng
them theo mức độ nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp. Vì vậy khi đầu tư
chứng khoán họ cũng cần cân nhắc quy mô đầu tư sao cho có thể đạt được
mục đích kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc
thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
1.2. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
1.2.1. Định nghĩa:
Rủi ro theo định nghĩa của từ điển là một từ bị động, có nghĩa là bị đặt
trước mối nguy hoặc nguy hiểm. Vì vậy nó mang ý nghĩa xấu.
Trong kinh tế, khái niệm rủi ro được mở rộng hơn và có sự khác biệt lớn.
Rủi ro chỉ đến một khả năng chúng ta nhận được thu nhập cho một khoản đầu
tư khác với thu nhập mà chúng ta mong đợi. Vì vậy rủi ro không chỉ mang ý
nghĩa xấu mà còn có ý nghĩa tốt ( khi mà thu nhập nhận được lớn hơn thu
nhập mong đợi). Rủi ro chứa đựng cả sự nguy hiểm và những cơ hội, chính vì
vậy nó phản ánh sự đánh đổi rõ ràng giữa rủi ro và lợi nhuận. Vì vậy trong
kinh tế thường có câu: rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại.

Khi nhà đầu tư mua một tài sản với hy vọng nó sẽ đem lại lợi nhuận trong
suốt thời gian họ nắm giữ tài sản đó. Thu nhập thực tế sẽ có thể khác biệt so
với thu nhập mong đợi, và đó là nguồn gốc của rủi ro.
Khi một nhà đầu tư đầu tư vào tín phiếu kho bạc, họ nhận được đúng trái
tức theo mong đợi của họ, có nghĩa là họ đầu tư vào tài sản không có rủi ro.
Ngược lại, khi đầu tư vào cổ phiếu của một công ty, họ kỳ vọng thu được
lợi nhuận là 15%, thực tế thu nhập của họ có thể cao hơn hoặc thấp hơn.
Cần phải ghi nhớ rằng thu nhập mong đợi và độ lệch mà chúng ta xác định
trong thực tế được tính toán dựa vào thu nhập quá khứ hơn là thu nhập tương
lai. Giả định rằng khi sử dụng những biến động trong quá khứ để tính toán có
nghĩa là chúng là những chỉ số tốt nhất của phân phối thu nhập tương lai. Khi
những giả định này bị vi phạm, đặc biệt trong trường hợp đặc tính của tài sản
thay đổi lớn qua thời gian ( các công cụ vốn như cổ phiếu…), những số liệu
quá khứ không phải là một phương pháp xác định rủi ro tốt.
1.2.2. Phân loại rủi ro chứng khoán:
Như đã phân loại ở trên, nguyên nhân dẫn đến rủi ro có hai loại, một loại
xuất phát từ đặc điểm của bản thân công ty (rủi ro không hệ thống), một loại
khác từ toàn bộ thị trường (rủi ro hệ thống). Những rủi ro đặc thù tác động
đến một hoặc một vài khoản đầu tư, trong khi rủi ro hệ thống tác động đến tất
cả các khoản đầu tư. Đây là một điều hết sức quan trọng trong quá trình tính
toán rủi ro. Rủi ro được phân chia thành dạng bảng như sau:
Bảng 1. Phân loại rủi ro
12
1.2.2.1. Rủi ro hệ thống:
Là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết các chứng khoán
đang được lưu hành trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống thường
là các tác nhân kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty phát hành như:
tình trạng lạm phát hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến động bất lợi
của tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất thị trường, sự suy thoái hay khủng hoảng của
nền kinh tế… Các loại rủi ro hệ thống tiêu biểu bao gồm: rủi ro thị trường, rủi

ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro sức mua…
- Rủi ro thị trường là rủi ro do sự biến động của giá cả chứng khoán trên
thị trường. Đó là kết quả của những hiệu ứng về tương quan giữa cung và cầu
của các loại chứng khoán trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động
giá cả chứng khoán thường rất phức tạp, có thể cả những sự kiện hữu hình
hoặc vô hình, cả những yếu tố bên trong hoặc ngoài doanh nghiệp. Sự đánh
giá khác nhau của các nhà đầu tư về mức sinh lời của một loại chứng khoán
nào đó được giao dịch trên thị trường cũng có thể gây nên hiệu ứng dây
chuyền (hiệu ứng đôminô) đối với giá cả các loại chứng khoán khác, làm cho
giá chứng khoán trên thị trường nói chung bị sụt giảm.
- Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường. Giá
cả chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường, lãi suất thị
trường tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng khoán giảm và ngược lại. Vì
thế biến động lãi suất sẽ làm cho giá trị hiện tại của các khoản thu nhập nhận
được từ đầu tư chứng khoán ở các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau,
do đó ảnh hưởng đến mức doanh lợi thu được của đầu tư chứng khoán.
- Rủi ro sức mua (còn gọi là rủi ro lạm phát) là loại rủi ro do sự giảm sút
về sức mua đồng tiền. Nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng
thu được lợi nhuận trong tương lai nhưng họ lại mất đi cơ hội mua sắm các
loại hàng hoá, dịch vụ trong thời hạn nắm giữ chứng khoán. Nếu trong
khoảng thời gian đó giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng lên do yếu tố lạm phát, họ
sẽ mất đi một phần sức mua từ số thu nhập sẽ có được trong tương lai. Giá trị
phần sức mua bị giảm sút do lạm phát phản ánh mức rủi ro sức mua của nhà
đầu tư chứng khoán.
1.2.2.2. Rủi ro không hệ thống:
Là những rủi ro có nguyên nhân từ nội tại của một công ty hoặc một
ngành kinh doanh mà không gắn liền với toàn bộ thị trường. Ảnh hưởng của
rủi ro không hệ thống vì thế chỉ tác động trong phạm vi công ty, một ngành
hay một số loại chứng khoán nhất định.
Rủi ro không hệ thống thường bao gồm các loại như: rủi ro kinh doanh,

rủi ro tài chính, rủi ro quản lý.. trong hoạt động của một công ty hoặc một
ngành kinh doanh nhất định.
Rủi ro kinh doanh là những rủi ro về sự không ổn định của thu nhập
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do những thay đổi bất lợi của
môi trường kinh doanh hoặc do cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Khác với rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính lại là những rủi ro về khả
năng thanh toán lợi tức chứng khoán hoặc hoàn vốn cho người sở hữu chứng
khoán do việc lựa chọn cơ cầu tài chính không hợp lý hoặc có sự mất cân đối
giữa doanh thu và chi phí của doanh nghiệp.
Rủi ro quản lý là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý không
hợp lý từ các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.3. Các biện pháp quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
Để thực hiện đầu tư chứng khoán có hiệu quả, hạn chế rủi ro, chúng ta cần
thực hiện việc đầu tư và quản lý đầu tư chứng khoán theo các bước sau:
14
- Phân tích và lựa chọn danh mục đầu tư chứng khoán: Việc đầu tư chứng
khoán thường bắt đầu bằng việc phân tích và lựa chọn danh mục đầu tư chứng
khoán tối ưu sao cho vừa có thể đem lại tỷ suất sinh lời cao, đồng thời hạn
chế tối đa các rủi ro đầu tư có thể gặp phải. Việc lựa chọn một danh mục đầu
tư chứng khoán cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào chiến lược đầu tư chứng khoán của
từng nhà đầu tư riêng biệt.
- Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán: Hoạt động đầu tư chứng khoán
không chỉ dừng lại ở chỗ lựa chọn được danh mục đầu tư chứng khoan mà
còn ở chỗ quản lý, điều chỉnh danh mục đầu tư trong suốt thời gian nắm giữ
chúng phù hợp với những diễn biến cụ thể của thị trường.
1.3.1. Phân tích chứng khoán
1.3.1.1. Khái niệm và quy trình thực hiện
Phân tích chứng khoán là bước khởi đầu cho hoạt động đầu tư chứng
khoán. Mục tiêu của phân tích chứng khoán là giúp cho nhà đầu tư chứng
khoán lựa chọn được các quyết định đầu tư chứng khoán có hiệu quả nhất,

mang lại lợi nhuận tối đa và rủi ro tối thiểu.
Kết quả phân tích chứng khoán phải làm rõ được các căn cứ cho sự lựa
chọn quyết định đầu tư. Nó phải trả lời được các câu hỏi cơ bản: khi nào thì
nên đầu tư, nên đầu tư vào loại chứng khoán nào và với giá cả ra sao, khi nào
thì nên rút khỏi thị trường… Để đạt được kết quả đó, việc phân tích chứng
khoán cần được tiến hành theo một quy trình cụ thể, khoa học.
Về lý thuyết phương pháp phân tích chứng khoán có thể theo quy trình từ
trên xuống hoặc từ dưới lên. Theo phương pháp phân tích từ trên xuống,
người ta thường bắt đầu từ những phân tích khái quát về tình hình kinh tế vĩ
mô (phân tích vĩ mô) cả trong nước và quốc tế, xem xet những ảnh hưởng, tác
động của nó đến hoạt động của các doanh nghiệp và thị trường chứng khoán,
sau đó mới đi đến phân tích tình hình hoạt động của ngành kinh doanh (phân
tích ngành) và cuối cùng là hoạt động của từng doanh nghiệp, công ty riêng
biệt. Ưu điểm nổi bật của quy trình phân tích này là đảm bảo tính hệ thống,
phù hợp với logic nhận thức. Do mục tiêu cuối cùng của hoạt động phân tích
đầu tư chứng khoán là đi tới một quyết định đầu tư chứng khoán cụ thể, vì thể
nó được sử dụng khá phổ biến trong phân tích đầu tư chứng khoán.
Ngược lại với trình tự trên, phương pháp phân tích chứng khoán từ dưới
lên lại bắt đầu từ phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh của một công ty cụ
thể và đặt nó trong mối liên hệ tương quan giữa hoạt động của công ty với
môi trường kinh doanh bên ngoài là tình hình hoạt động của ngành hoặc nền
kinh tế. Do đặc điểm trên, phương pháp này tỏ ra thích hợp hơn đối với các tổ
chức có vai trò tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động của thị trường chứng
khoán hơn là đối với nhà đầu tư chứng khoán.
1.3.1.2. Phân tích kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thị
trường chứng khoán và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Việc phân tích
kinh tế vĩ mô nhằm mục đích đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế- xã
hội của đất nước và tác động của nó đến sự phát triển của thị trường chứng
khoán. Phân tích kinh tế vĩ mô bao gồm:

- Phân tích môi trường chính trị- xã hội của đất nước:
Môi trường chính trị, xã hội của mỗi quốc gia thể hiện ở hệ thống các yếu
tố về thể chế quản lý xã hội (như hiến pháp, luật pháp, các văn bản pháp quy
của cơ quan hành chính); cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy quản lý
hành chính nhà nước các cấp, các tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội, tôn
giáo…
16
Sự ổn định của môi trường chính trị- xã hội của đất nước là yếu tố quan
trọng hang đầu đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế, doanh nghiệp và thị
trường chứng khoán. Bởi lẽ sự thay đổi về thể chế chính trị thường kéo theo
sự thay đổi về chính sách kinh tế, xã hội, chính sách chi tiêu ngân sách… ảnh
hưởng to lớn đến đời sống kinh tế của đất nước.
- Ảnh hưởng của môi trường pháp luật
Ngày nay, hầu hết các nước đều quản lý đất nước theo chế độ pháp quyền,
vì thế môi trường pháp luật cũng có tác động quan trọng đến hoạt động của
doanh nghiệp và thị trường chứng khoán. Nền kinh tế thị trường có đặc điểm
cơ bản là thị trường đóng vai trò chính trong sự phân bổ sử dụng các nguồn
lực trong xã hội, còn nhà nước chỉ là người tạo lập khung pháp lý và giám sát
thực thi pháp luật của các chủ thể tham gia thị trường. Do đó, việc ban hành
các bộ luật, các chính sách của Nhà nước, các ban ngành, đặc biệt là các chính
sách kinh tế, tài chính, tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế
và thị trường chứng khoán. Việc phân tích môi trường pháp lý cần được xem
xét trên nhiều mặt như: tính hệ thống, đồng bộ, ổn định, minh bạch, khả thi
của hệ thống pháp luật chi phối đến hoạt động của các doanh nghiệp và thị
trường chứng khoán.
- Tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô khác như chu kỳ kinh tế, năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô:
Sự phát triển của nền kinh tế thường biến động theo nhiều chu kỳ kinh tế
nhất định. Thông thường một chu kỳ kinh tế thường bao gồm các giai đoạn
tăng trưởng, ổn định, suy thoái và hồi phục. Việc nghiên cứu, nắm bắt và dự

đoán các chu kỳ kinh tế là rất cần thiết trong đầu tư chứng khoán.
Việc mở cửa, hội nhập kinh tế cũng là một xu thế tất yếu trong phát triển
kinh tế của mỗi nước. Mở cửa, hội nhập vừa đem lại những thời cơ, song
đồng thời cũng đem lại những thách thức, nguy cơ đối với nền kinh tế mỗi
nước. Để đối phó với những nguy cơ trong quá trình hội nhập đòi hỏi kinh tế
các nước phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh,thích ứng dần với
nền kinh tế thê giới.
Khi phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô không thể không xem xét sự biến
động của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản như: tốc độ tăng trưởng kinh tế
(GDP),tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát và lãi suất thị trường, tỷ giá hối đoái,
thu nhập của dân cư, kim ngạch xuất nhập khẩu, mức bội chi (bội thu) ngân
sách, chỉ số giá chứng khoán trên thị trường… Các yếu tố vĩ mô cơ bản trên
đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư trên thị trường
chứng khoán.
1.3.1.3. Phân tích ngành
Mục đích của phân tích ngành là giúp cho nhà đầu tư thấy rõ những lợi ích
hoặc rủi ro có thể gặp khi quyết định đầu tư vào chứng khoán của một doanh
nghiệp hoạt động trong một ngành kinh doanh cụ thể. Những nội dung cần
thực hiện trong phân tích ngành bao gồm: phân tích chu kỳ kinh doanh của
ngành, xác định hệ số rủi ro của ngành kinh doanh, mức doanh lợi kỳ vọng và
các hệ số tài chính khác của ngành kinh doanh
- Chu kỳ kinh doanh của ngành: Triển vọng và chu kỳ kinh doanh của
ngành ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong
ngành. Nếu một công ty hoạt động trong một ngành còn kém phát triển thì
khó có triển vọng đầu tư đem lại hiệu quả cao. Vào cùng một thời điểm nhất
định, các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành khác nhau sẽ có mức
doanh lợi thu được khác nhau, mức rủi ro khác nhau. Do đó cần có sự phân
tích đánh giá ngành kinh doanh để chọn ngành có mức doanh lợi cao, mức độ
rủi ro thấp để đầu tư. Ngay trong một ngành, mức doanh lợi thu được từ hoạt
18

động đầu tư cũng không ổn định. Vì thế, cũng cần có sự theo dõi phân tích
ngành để lựa chọn thời điểm quyết định đầu tư hay rút khỏi đầu tư phù hợp.
- Đánh giá mức độ rủi ro của ngành kinh doanh:
Mỗi ngành kinh doanh khác nhau cũng có mức độ rủi ro khác nhau. Việc
xác định mức độ rủi ro của ngành giúp cho nhà đầu tư lựa chọn được ngành
đầu tư có hiệu quả β với độ rủi ro tối thiểu hoặc có thể chấp nhận được.
Quy trình phân tích, đánh giá rủi ro của ngành kinh doanh thường được
tiến hành theo trình tự sau:
- Xác định hệ số rủi ro (β) của ngành, từ đó tính toán được mức lợi suất
đòi hỏi dựa theo mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Công thức xác định
như sau:
E(R) = R
f
+ β( R
m
- R
f
)
Trong đó: E(R) : Mức lợi suất đòi hỏi
R
f
: Mức lợi suất phi rủi ro
R
m
: Mức sinh lời bình quân thị trường
β: Hệ số rủi ro ngành
- Phân tích hệ số P/E của ngành: Hệ số P/E phản ánh thị trường trả giá cho
một đồng thu nhập sau thuế của cổ phiếu công ty như thế nào. Nếu hệ số P/E
cao chứng tỏ công ty làm ăn có hiệu quả nên được thị trường đánh giá cao và
ngược lại. Việc phân tích hệ số P/E thường được xem xét cả trên 2 góc độ:

- (i) xem xét mối quan hệ giữa hệ số P/E của ngành và hệ số P/E tổng thể
của thị trường để thấy được tính hiệu quả trong hoạt động của công ty so với
các doanh nghiệp trong cùng ngành như thế nào;
- (ii) Xem xét các nhân tố ngành tác động đến hệ số P/E ngành như: hệ số
trả cổ tức, mức doanh lợi đòi hỏi, tỷ lệ tăng trưởng lợi tức hàng năm..
- Uớc tính thu nhập trên một cổ phiếu (EPS hoặc E): thu nhập trên một cổ
phiếu được xác định dựa vào các phương pháp chủ yếu như phân tích chu kỳ
kinh doanh, phân tích đầu vào- đầu ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và
nền kinh tế.
- Ước tính mức lợi suất đạt được: Để ước tính mức lợi suất đạt được phải
tiến hành qua 2 bước. Trước hết cần xác định được giá trị cuối kỳ của chỉ số
ngành bằng cách nhân hệ số P/E cuối kỳ tính toán được với ước tính thu nhập
trên một cổ phiếu. Sau đó so sánh giá trị chỉ số cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để
ước tính lợi suất đạt được ( r) theo công thức:
Giá trị chỉ số cuối kỳ - giá trị đầu kỳ + cổ tức nhận trong kỳ
Giá trị đầu kỳ
- Lựa chọn quyết định đầu tư hay không: So sánh lợi suất đạt được r với
mức doanh lợi đòi hỏi E (R), nếu r > E(R) thì nên rút khỏi đầu tư vào ngành
này.
1.3.1.4. Phân tích báo cáo tài chính công ty
Thông thường, ta phân tích báo cáo tài chính qua các tỷ số tài chính đặc
trưng, để có thể phân tích rõ tình hình tài chính của công ty trong một thời kỳ
nhất định
• Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng tài sản/Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Hệ số này cho biết mối quan hệ giữa tổng tài sản mà doanh nghiệp đang
quản lý, sử dụng với tổng số nợ phải trả (gồm cả nợ ngắn hạn và dài hạn),
phản ánh một đồng vay nợ có mấy đồng tài sản đảm bảo. Khi giá trị của hệ số
này nhỏ hơn 1 có nghĩa là tổng tài sản < tổng nợ, như vậy toàn bộ số tài sản

20
hện có của công ty không đủ để thanh toán các khoản nợ, chứng tỏ công ty
mất khả năng thanh toán, gặp khó khăn trong tài chính và có nguy cơ phá sản.
- Hệ số khả năng thanh toán tạm thời
Hệ số khả năng thanh toán tạm thời = Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn/ Tổng nợ ngắn
hạn
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn với các khoản nợ
ngắn hạn. Hệ số này cho biết mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ ngắn hạn.
Nếu hệ số này <1 thì công ty rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = (TSLĐ và ĐT ngắn hạn -Vốn vật tư HH)/ Tổng nợ
ngắn hạn
Chỉ tiêu này là thước đo về việc huy động các tài sản có khả năng chuyển
đổi ngay thành tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn mà các chủ nợ yêu
cầu. Nhìn chung, nếu chỉ tiêu này quá nhỏ thì công ty sẽ bị giảm uy tín với
khách hàng, gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ, và có thể công ty
phải bán tài sản với giá bất lợi đẻ trả nợ. Nếu hệ số này quá lớn lại phản ánh
lượng tiền tồn quỹ nhiều, giảm hiệu quả sử dụng vốn.
- Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = (Lãi vay phải trả + Lợi nhuận trước thuế) / Lãi vay
phải trả
Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả sử dụng vốn vay như thế nào, đưa lại một
khoản lợi nhuận là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả không và mức độ
sẵn sàng trả lãi vay cảu công ty ra sao. Nếu hệ số lớn hơn 1 phản ánh doanh
nghiệp có khả năng thanh toán lãi vay, hoạt động kinh doanh có lãi, sử dụng
vốn vay hiệu quả và ngược lại.
• Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu tài sản
- Hệ số nợ
Hệ số nợ = Tổng số nợ/ Tổng tài sản
Thông thường, các chủ nợ thích hệ số nợ nhỏ, vì hệ số an toàn cao. Ngược

lại, các nhà quản lý lại muốn có một hệ số nợ cao vì chỉ cần bỏ ra mộ lượng
vốn nhỏ nhưng được sử dụng một lượng tài sản lớn.
- Hệ số tự tài trợ
Hệ số tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn = 1- Hệ số nợ
Hệ số này phản ánh mức độ độc lập hay phụ thuộc của công ty đối với các
chủ nợ, khả năng tự tài trợ cho hoạt đông jkinh doanh của mình.
- Cơ cấu tài sản
Cơ cấu tài sản cho ta biết tỷ lệ của TSCĐ và TSLĐ trong tổng tài sản như
thế nào
Hệ số đầu tư và TSLĐ = Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn/ Tổng tài sản
Hệ số đầu tư vào TSCĐ = Tổng TSCĐ và đầu tư dài hạn/ Tổng tài sản
Cơ cấu tài sản = Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn/ Tổng TSCĐ và đầu tư dài hạn
Bố trí cơ cấu tài sản phản ánh sử dụng bình quân 1 đồng vốn thì dành ra
bao nhiêu đồng đầu tư hình thành TSCĐ và bao nhiều đồng đầu tư hình thành
TSLĐ
• Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động
- Vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán/ Hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng được đánh giá là tốt vì số tiền đầu
tư cho hàng tồn kho thấp mà vấn đạt hiệu quả cao, tránh được tình trạng ứ
22
đọng vốn. Nếu chỉ số này thấp phản ánh hàng tốn kho dự trữ nhiều, sản phẩm
không tiêu thụ được do chất lượng thấp không đáp ứng yêu cầu thị trường.
- Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần/ Số dư bình quân các khoản phải
thu
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển các khoản phải thu ra tiền mặt. Vòng
quay càng lớn càng chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh, vốn
của doanh nghiệp không bị chiếm dụng và không phải đầu tư nhiều vào việc

thu hồi các khoản phải thu. Nếu vòng quay nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp bị
chiếm dụng vốn lớn gây ra thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh buộc
doanh nghiệp phải đi vay vốn từ bên ngoài và trả lãi cho số vốn đi vay đó.
- Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền trung bình = 360/Vòng quay cá khoản phải thu = (Số dư bình quân các
khoản phải thu/Doanh thu thuần) x 360
Kỳ thu tiền trung bình có nghĩa là doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong
thanh toán, khả năng thu hồi chậm, doanh nghiệp cần phải có biện pháp cụ thể
để thu hồi nợ.
- Vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần / Vốn lưu đông bình quân
Chỉ tiêu này có ý nghĩa cứ bình quân sử dụng 1 đồng vốn lưu động trong
kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần, nghĩa là đo lường hiệu quả
sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Nếu hệ số này càng lớn, hiệu quả
sử dụng vốn lưu động càng cao vì hàng hoá tiêu thụ nhanh, vật tư tồn kho
thấp, ít có các khoản phải thu... giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Ngược lại, hệ số
thấp phản ánh hàng tồn kho lớn, lượng tiền tồn quỹ nhiều, doanh nghiệp
không thu được các khoản phải thu... từ đó doanh nghiệp phải xem xét lại tình
hình tài chính của mình để có biện pháp chấn chỉnh.
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần/ Vốn cố định bình quân
Hiệu suất sử dụng vốn cố định dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố
định, nghĩa là cứ đầu tư trung bình một đồng vào vốn cố định thì tạo ra bao
nhiêu đồng doanh thu thuần.
- Vòng quay toàn bộ vốn
Vòng quay toàn bộ vốn = Doanh thu thuần/ Vốn sản xuất bình quân
Chỉ tiêu này nói lên cứ 1 đồng sử dụng bình quân tạo bao nhiêu đồng
doanh thu thuần hay vốn của doanh nghiệp trong kỳ quay được bao nhiêu
vòng. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá trình độ quản lý vốn có hiệu quả như
thế nào. Vòng quay toàn bộ vốn càng lớn thì hiệu quả càng cao, lợi nhuận

tăng, tăng khả năng cạnh tranh, tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
• Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi
- Tỷ suất doanh lợi doanh thu
Tỷ suất doanh lợi doanh thu = Lợi nhuận thuần/ Doanh thu thuần
Chỉ tiêu phản ánh cứ trong một đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực
hiện trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần.
- Tỷ suất sinh lợi của tài sản
Tỷ suất sinh lợi của tài sản = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh sử dụng bình quân 1 đồng tài sản thì tạo ra mấy
đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
- Tỷ suất doanh lợi tổng vốn
Tỷ suất doanh lợi tổng vốn = Lợi nhuận thuần/ Vốn sản xuất bình quân
24
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư,
phản ánh sử dụng bình quân một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế. Giá trị của chỉ tiêu càng cao càng chứng tỏ doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả và ngược lại càng thấp càng kém hiệu quả.
- Tỷ lệ thu nhập vốn cổ phần
Tỷ lệ thu nhập vốn cổ phần = Tổng lợi nhuận sau thuế/ Vốn cổ phần bình quân
Vốn cổ phần bao gồm vốn của cổ đông ưu đãi và vốn cổ đông thường,
được xác định bằng chênh lệch giữa tổng vốn với tổng nợ phải trả. Tổng lợi
nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, phần còn lại được gọi là thu
nhập của cổ đông. Do vậy chỉ tiêu thu nhập vốn cổ phần phản ánh khả năng
đảm bảo thu nhập cho tất cả mọi đối tác góp vốn cổ phần vào công ty.
- Tỷ lệ thu nhập vốn cổ phần thường
Tỷ lệ thu nhập vốn cổ phần thường = (Lợi nhuận sau thuế - Lợi tức cổ phần ưu
đãi)/ Vốn cổ phần thường bình quân
Vốn cổ phần thường là phần vốn do các cổ đông thường nắm giữ và được
xác định bằng chênh lệch giữa vốn cổ phần với vốn cổ phần ưu đãi. Còn thu
nhập của vốn cổ phần thường là phần còn lại của lợi nhuận sau thuế, sau khi

đã trả lợi tức cho cổ phiếu ưu đãi. Tỷ lệ thu nhập vốn cổ phần thường cho biết
tỷ lệ hoàn vốn mà công ty tạo ra cho cổ đông thường.
Đây là chỉ tiêu đo lường sự thành công của công ty. Các nhà đầu tư
thường so sánh chỉ tiêu này với lãi suất trên thị trường vốn. Khi công ty tạo ra
thu nhập trên vốn cổ phần thường lớn hơn mức sinh lời trên thị trường vốn thì
việc đầu tư vào công ty là đáng giá và hấp dẫn.
- Thu nhập một cổ phần thường
Thu nhập một cổ phần thường = Thu nhập của cổ phần thường/ Số lượng CP
thường đang lưu hành (bình quân)

×