Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thất thoát và lãng phí trong đầu tư thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.78 KB, 51 trang )

Thất thoát và lãng phí trong đầu tư thực trạng và giải pháp
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ THẤT THOÁT, LÃNG PHÍ
TRONG ĐẦU TƯ.
1. Lý luận chung về đầu tư
1.1. Khái niệm về đầu tư
Có rất nhiều cách định nghĩa về đầu tư, ví dụ như:
• Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào các hoạt động nhằm đạt
được mục tiêu trong tương lai cho chủ đầu tư
• Đầu tư là sự bỏ ra, sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại (như vàng, tiền, sức
lao động, cảu cải vật chất hay trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người
đầu tư trong tương lai.
• Đầu tư cũng có thể hiểu là sự bỏ vốn dài hạn trong kinh doanh nhằm mục
đích kiếm lời.
• Đầu tư là một hoạt động kinh tế: đem một khoản tiền đã được tích lũy để sử
dụng vào một việc nhất định nhằm mục đích sinh lời.
• Hay theo luật đầu tư (năm 2005): Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các
loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
1.1.1. Nguồn lực đầu tư:
Đầu tư phải sử dụng các nguồn lực to lớn của nền kinh tế. Các nguồn lực có thể
bao gồm: tiền vốn, tài nguyên, nhà xưởng, đất đai, khoa học, công nghệ... Các nguồn
lực này thường được quy đổi thành tiền để tổng hợp và so sánh và được gọi là vốn đầu
tư. Điều đó không có nghĩa là vốn đầu tư chỉ bao gồm vốn bằng tiền.
• Vốn đầu tư : Theo luật đầu tư (năm 2005): Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp
pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc
đầu tư gián tiếp. Như vậy vốn phản ánh các nguồn lực được đưa vào sản xuất
kinh doanh. Tiền được gọi là vốn khi nó được tích tụ và tập trung đến một mức
độ nhất định và phải được vận động nhằm mục đích sinh lời.
Đặc trưng của vốn:
- Đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của
những tài sản hữu hình và vô hình.


- Vốn phải được vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền.
1
- Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một mức độ nhất định mới có thể phát
huy tác dụng
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Khi xác định rõ chủ sở hữu, đồng vốn sẽ được sử
dụng hiệu quả.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của vốn
biến động theo thời gian.
Vốn đầu tư được thể hiện dưới 4 dạng sau đây:
+ Tiền mặt các loại (nội tệ, ngoại tệ)
+ Hiện vật hữu hình: nhà cửa, đất đai, máy móc thiết bị.
+ Hàng hóa vô hình: sức lao động, bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế,
nhãn hiệu, biểu tượng, uy tín.
• Lao động: được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dịch vụ
hay hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa là người sản xuất, còn người cung cấp
hàng hóa là người lao động. Cũng như mọi hàng hóa trên thị trường khác, lao động
được trao đổi trên thị trường, gọi là thị trường lao động. Giá cả của lao động là tiền
công thực tế mà người sản xuất trả cho người lao động. Mức tiền công là giá của lao
động.
• Đất đai: Trong kinh tế học, đất bao gồm tất cả các tài nguyên có nguồn gốc tự
nhiên, chẳng hạn như vị trí địa lý của khu vực đất đai, các tài nguyên khoáng sản
dưới lòng đất, và thậm chí các thành phần của phổ điện từ. Trong kinh tế học cổ
điển nó được coi là một trong các yếu tố sản xuất, các yếu tố khác là tư bản và
sức lao động.
• Tài nguyên: Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo
ra của cải vật chất hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người. Tài nguyên là
đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình
tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng
tăng.
• Công nghệ:Công nghệ (hay công nghệ học hoặc kỹ thuật học) có nhiều hơn một

định nghĩa. Một trong số đó là phát triển và ứng dụng của các dụng cụ, máy móc,
nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề của con người.
• Thương hiệu: Thương hiệu là khái niệm trong người tiêu dùng về sản phẩm với
dấu hiệu của nhà sản xuất gắn lên mặt, lên bao bì hàng hoá nhằm khẳng định chất
lượng và xuất xứ sản phẩm. Thương hiệu thường gắn liền với quyền sở hữu của
nhà sản xuất và thường được uỷ quyền cho người đại diện thương mại chính
thức.Thương hiệu - theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO):
là một dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm hàng
hoá hay một dịch vụ nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi một cá nhân
hay một tổ chức.
2
1.1.2. Đối tượng đầu tư
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực
hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã hội, có
hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc
độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư chia thành hai nhóm chính: công trình
vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan
trọng, đối tượng đầu tư được chia thành: loại được khuyến khích đầu tư và loại không
được khuyến khích đầu tư, loại bị cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản, đối tượng đầu tư được
chia thành đầu tư vào tài sản vật chất và tài sản vô hình. Tài sản vật chất ở đây là những
tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế
và tài sản lưu động. Tài sản vô hình như phát minh sáng chế, uy tín, thương hiệu… Đối
tượng của đầu tư tài chính: các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
Nhà đầu tư mua bán các chứng chỉ này để hưởng lãi suất (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu
Chính phủ) hoặc lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (cổ phiếu).
1.1.3.Chủ đầu tư
Theo luật đầu tư năm 2005 thì: “Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân sở hữu vốn hoặc
thay mặt chủ sở hữu (người vay vốn) trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt
động đầu tư”. Theo nghĩa đầy đủ, chủ đầu tư là người sở hữu vốn, ra quyết định đầu tư
và là người hưởng thành quả đầu tư đó. Chủ đầu tư chịu mọi trách nhiệm kiểm tra giám

sát đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do đầu tư mang lại
cho môi trường sinh thái, xã hội… Thực tế quản lý còn có những nhận thức không đầy
đủ về chủ đầu tư.
1.1.4.Thời gian
Hoạt động đầu tư là một quá trình, diễn ra trong một thời gian dài và tồn tại vấn đề
độ trễ thời gian. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời
gian vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được
trong tương lai. Đặc điểm này cần được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu
quả đầu tư.
1.2.Phân loại đầu tư
1.2.1. Theo mối quan hệ với chủ đầu tư
a. Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản lý quá
trình thực hiện đầu tư, vận hành kết quả đầu tư và gánh chịu hoàn toàn rủi ro. Đầu tư
trực tiếp lại chia thành đầu tư phát triển và đầu tư chuyển dịch. Đầu tư phát triển là đầu
tư trực tiếp làm tăng năng lực sản xuất và phục vụ xã hội. Nó được thực hiện thông qua
việc xây dựng các cơ sở sản xuất, dịch vụ mới, cải tạo, mở rộng và hiện đại hóa các cơ
sở cũ. Đây là hình thức đầu tư quan trọng nhất vì nó làm tăng cả về số lượng và chất
lượng năng lực sản xuất của nền kinh tế, tăng việc làm mới, làm tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư chuyển dịch là đầu tư trực tiếp không làm tăng năng lực sản xuất mà chỉ đơn
3
thuần là sự chuyển quyền sở hữu các cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc các cổ phần của
doanh nghiệp. Xét về mặt nào đó, đầu tư chuyển dịch cũng chứa đựng các yếu tố của
đầu tư phát triển. Về phía người bán (hoặc cơ sở kinh doanh), họ sẽ thu được tiền và có
thể đầu tư vào một lĩnh vực nào đó để tạo ra năng lực sản xuất mới (đầu tư phát triển).
Về phía người mua, với mong muốn thu được nhiều lợi nhuận nên đã áp dụng phương
thức quản lý mới, đổi mới dây chuyền công nghệ... tạo ra bước phát triển mới cho doanh
nghiệp. Đây cũng là yếu tố của đầu tư phát triển.
b. Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là hoạt động đầu tư mà chư đầu tư không trực tiếp tham gia quản

lý quá trình thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư (họ không biết vốn của họ
được sử dụng ở đâu? Như thế nào?...) Họ bỏ vốn và nhận được một lãi suất cố định và
không gánh chịu những rủi ro của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đầu tư gián tiếp rất
đa dạng, phong phú như:
- Các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái
phiếu... hoặc cho vay để hưởng lợi tức.
- Các Chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại
với lãi suất thấp cho các Chính phủ các nước khác để phát triển kinh tế xã hội.
- Các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế tài trợ hoặc cho các nước vay trong giới
hạn của tổ chức.
Đầu tư gián tiếp là một hình thức đầu tư rất phát triển ở những nước có nền kinh tế
thị trường phát triển, trong đó có thị trường vốn hoàn chỉnh và đồng bộ.
Việc chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là đứng trên góc độ quản lý của
chủ đầu tư. Còn xét trên tổng thể nền kinh tế thì đó là chu trình đầu tư khép kín, không
có giới hạn. Đầu tư gián tiếp, đầu tư chuyển dịch không tự nó vận động và tồn tại nếu
không có đầu tư phát triển. Ngược lại, đầu tư phát triển có thể đạt được quy mô lớn hơn
nếu như có sự phát triển của đầu tư gián tiếp. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa các
hình thức đầu tư trên.
1.2.2.Theo loại hình đầu tư
a. Đầu tư tài chính
Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ
tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để
hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lợi nhuận tùy
thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu).
Đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng tài sản thực (tài sản vật
chất) cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm
tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Mua cổ phiếu (đầu tư cổ phiếu) gắn với việc
chuyển quyền sở hữu và hoạt động cho vay dẫn đến chuyển quyền sử dụng. Do vậy, hai
loại đầu tư này đều thuộc hoạt động đầu tư dịch chuyển. Đầu tư tài chính thường được
4

thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng
khoán v.v... Đầu tư tài chính còn có đặc điểm là: chủ đầu tư thường có kỳ vọng thu
được lợi nhuận cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không
theo ý muốn. Tuy nhiên, đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt
động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hóa lợi
ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư.
b. Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại
để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài
sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Kết
quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô
hình. Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã
hội.
1.2.3.Theo nguồn vốn đầu tư
a. Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: các hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các
nguồn vốn tích lũy của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư.
Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm:
- Nguồn vốn Nhà nước
+ Ngân sách Nhà nước: Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu
tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự
án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch đô thị và nông
thôn.
+ Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: áp dụng cơ chế tín dụng,
các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu
tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ
phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu

tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
+ Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu bao
gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp Nhà nước. Theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thông thường nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư
chiếm 14 - 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản
xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
5
- Nguồn vốn của dân cư và tư nhân: bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
Nguồn vốn này có vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Nguồn vốn trong dân cư phụ thuộc vào thu
nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn vốn này phụ thuộc trình độ phát
triển của đất nước, tập quán tiêu dùng của dân cư, chính sách động viên của Nhà nước
thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
b. Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các nguồn
vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài.
Theo tính chất luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài như
sau:
- Tài trợ phát triển chính thức (ODF): nguồn này bao gồm Viện trợ phát triển chính
thức (ODA) và các hình thức tài trợ khác. Trong đó ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
nguồn ODF.
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và Chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Ngoài các điều
kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn cho vay lớn, ODA còn có
yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
Chính phủ Việt Nam ưu tiên nguồn vốn ODA cho các lĩnh vực giao thông vận tải;
phát triển hệ thống nguồn điện; mạng lưới chuyển tải và phân phối điện; phát triển nông
nghiệp và nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp kết hợp xóa đói giảm

nghèo; cấp thoát nước và bảo vệ môi trường; y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, tăng
cường năng lực và thể chế…
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế: thủ tục vay vốn này
thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao; tuy nhiên
không có ràng buộc về chính trị, xã hội.
Nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại được sử dụng chủ yếu để đáp ứng
nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận có thể được dùng cho đầu
tư phát triển.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): việc tiếp nhận nguồn vốn này
không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận vốn, thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư,
nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu
quả.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những
ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn.
6
- Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế: Nhà nước rất quan tâm đến
nguồn vốn huy động qua thị trường quốc tế thông qua việc triển khai các đề án phát
hành trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ra nước ngoài.
1.2.4.Theo mối quan hệ và việc phân cấp quản lý
Tùy theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân thành đầu tư theo các dự
án trọng điểm quốc gia, dự án nhóm A, B, C.
Loại dự án đầu tư xây dựng công trình Tổng mức
đầu tư
I Dự án quan trọng Quốc gia Theo Nghị
quyết của Quốc
hội
II Nhóm A
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuộc lĩnh
vực bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật
quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng.

Không kể
mức vốn
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất
chất độc hại, chất nổ; hạ tầng khu công nghiệp.
Không kể
mức vốn
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công
nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế
tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà
ở.
Trên 600 tỷ
đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi,
giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công
trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị
thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công
trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn
thông.
Trên 400 tỷ
đồng
5 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công
nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Trên 300 tỷ
đồng
6 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn
hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân

dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch,
Trên 200 tỷ
đồng
7
thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án
khác.
III Nhóm B
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công
nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế
tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông, xây dựng khu nhà ở.
Từ 30 đến
600 tỷ đồng
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi,
giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công
trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị
thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công
trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn
thông
Từ 20 đến
400 tỷ đồng
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: hạ tầng kỹ
thuật khu đô thị mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ
tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản
xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến
nông, lâm sản.
Từ 15 đến
300 tỷ đồng
4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn
hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân

dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch,
thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án
khác.
Từ 7 đến
200 tỷ đồng
IV Nhóm C
1 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công
nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế
tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng
sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông,
sân bay, đường sắt, đường quốc lộ). Các trường phổ
thông nằm trong quy hoạch (không kể mức vốn), xây
dựng khu nhà ở.
Dưới 30 tỷ
đồng
2 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi,
giao thông (khác ở điểm II-3), cấp thoát nước và công
trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị
thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công
trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn
thông.
Dưới 20 tỷ
đồng
8
3 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công
nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Dưới 15 tỷ
đồng

4 Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn
hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân
dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch,
thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án
khác.
Dưới 7 tỷ
đồng
2.Thất thoát và lãng phí trong đầu tư
2.1. Khái niệm về thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
2.1.1. Thất thoát trong đầu tư.
Có thể hiểu một cách khái quát, thất thoát trong đầu tư là phần vốn bị mất đi, thực
tế không sử dụng vào dự án do bị bớt xén, cắt giảm không đúng quy định, không hợp lý
hoặc do khai man, khai khống nhưng vẫn tính vào chi phí để rút vốn làm tăng vốn đầu
tư, giảm chất lượng và hiệu quả dự án.
2.1.2. Lãng phí trong đầu tư
Lãng phí trong đầu tư là những mất mát, thiệt hại không đáng có về vốn đầu tư, do
ý thức chủ quan của con người, do yếu kém trong quản lý dẫn đến việc dử dụng vốn đầu
tư không đúng mục đích, không đúng nhiệm vụ thiết kế, chất lượng công trình kém phải
phá đi làm lại hoặc hoàn toàn không dùng được, bỏ đi không mang lại hiệu quả với chi
phí cao hơn chi phí đầu tư cần thiết ho dự án được xác định theo tiêu chuẩn, định mức
hay quy định của Nhà nước.
2.2. Tiêu chí xác định thất thoát và lãng phí trong đầu tư
Giá trị lãng phí là tổng số tiền được đầu tư nhưng không mang lại hiệu quả cho
công trình hoặc số tiền được sử dụng vào công trình nhưng bị tăng lên làm tăng chi phí
đầu tư so với chi phí cần thiết được xác định theo tiêu chuẩn, quy định của Nhà nước.
Giá trị lãng phí = Giá trị dự án không có hiệu quả
= Giá trị thực tế thực hiện ─ Giá trị cần thiết theo quy định
Giá trị thất thoát được hiểu là phần chi phí thực tế không được sử dụng vào công
trình nhưng vẫn tính vào chi phí xây dựng công trình để rút vốn đầu tư
Giá trị thất thoát = Giá trị thanh quyết toán ─ Chi phí thực tế

Mức thất thoát, lãng phí còn được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm giữa giá trị lãng
phí, thất thoát và chi phí cần thiết để xây dựng dự án.
9
Giá trị thất thoát, lãng phí
m =
Chi phí cần thiết theo tiêu chuẩn, quy định hiện hành
Lãng phí, thất thoát trong đầu tư có thể xảy ra ở tất cả các giai đoạn của quá trình
đầu tư: từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, bố trí kế hoạch, cấp phát vốn, bàn giao
nghiệm thu công trình.
Trong thực tế, thất thoát và lãng phí không phải lúc nào cũng tách bạch mà nó đan
xen lẫn nhau, trong thất thoát có lãng phí và trong lãng phí có thất thoát, cái này là
nguyên nhân, cái kia là hệ quả và ngược lại.
2.3.Nội dung thất thoát và lãng phí trong đầu tư.
Thất thoát trong đầu tư được biểu hiện như sau:
Công trình xây dựng bị bớt xén khối lượng vật tư hoặc sử dụng vât tư sai chủng
loại, làm kém chất lượng, chi phí không đúng quy định ảnh hưởng đến chât lượng công
trình: như bớt xén xi măng, sắt thép không đúng quy định làm giảm cường độ chịu
đựng, thay đổi nguyên vật liệu xây dựng bằng các vật liệu khác chất lượng kém hơn,
không đúng theo thiết kế được phê duyệt, làm giảm chất lượng công trình. Sử dụng tiền
đền bù để giải phóng mặt bằng không đúng mục đích, kê khai khống khối lượng đền bù,
làm giả hồ sơ để nhận tiền đền bù… nên phải điều chỉnh lại để bổ sung chi phí. Áp dụng
định mức, đơn giá sai: Kê khai nghiệm thu khống khối lượng, hoặc đánh giá sai chất
lượng công trình, khi thẩm tra, thẩm định không đúng dẫn đến thanh toán sai làm tăng
chi phí xây dựng. Thanh quyết toán khống so với giá thực, bớt xén hoặc sử dụng chi phí
xây dựng công trình không đúng quy định. Thất thoát trong đầu tư do chính những đối
tượng tham gia vào quá trình đầu tư như chủ đầu tư, tư vấn, nhà thầu nhằm vụ lợi cá
nhân, và được gọi là tiêu cực, còn một phần do lỗi khách quan như trình độ, năng lực, ý
thức trách nhiệm thực hiện công việc của những người tham gia.
Lãng phí trong đầu tư được biểu hiện như sau:
Thời gian xây dựng kéo dài, do bàn giao mặt bằng chậm, bố trí vốn không đủ, xây

dựng không đồng bộ, do chậm nghiệm thu, thanh quyết toán để đưa công trình vào khai
thác, sử dụng làm mất cơ hội kinh doanh, phải trả thêm lãi vay trong thời gian xây dựng.
Thiết kế quá hoặc không đạt tiêu chuẩn quy định phải bỏ thêm chi phí để xử lý. Chất
lượng xây dựng không được đảm bảo, phải phá đi làm lại. Nhà máy xây xong không có
nguyên liệu để sản xuất phải phá đi hoặc di dời sang vùng có nguyên liệu. Chợ xây xong
không có người đến họp, bị bỏ phí không mang lại hiểu quả. Hệ thống cấp nước chỉ chú
trọng đầu tư nhà máy mà thiếu mạng đường ống phân phối đến các hộ tiêu thụ, nước sản
xuất ra không cung cấp được đến hộ tiêu thụ. Trong thực tế, thất thoát và lãng phí không
phải lúc nào cũng tách bạch mà nó đan xen lẫn nhau, trong thất thoát có lãng phí và
trong lãng phí có thất thoát, cái này là nguyên nhân, cái kia là hệ quả và ngược lại. Cụ
thể nội dung của thất thoát và lãng phí được biểu hiện như sau:
10
2.3.1.Theo nguồn vốn đầu tư
2.3.1.1.Nguồn vốn đầu tư trong nước
2.3.1.1.1.Nguồn vốn Nhà nước
Đầu tư xa rời mục tiêu kinh tế xã hội, không sát với thực tế nhu cầu khách quan
Đầu tư sai mục đích: nhiều địa phương cắt giảm tiền vốn đầu tư cho phát triển để bố trí
không đúng quy định cho các mục tiêu khác. Đầu tư dàn trải, không có quy hoạch hay
định hướng cụ thể: Nhà máy xây dựng xong phải di dời hoặc hoạt động dưới công suất
do không có đủ nguyên liệu đầu vào, chợ xây dựng xong không có người họp, cầu xây
xong không có người đi vì chưa làm đường dẫn lên cầu. Đầu tư theo phong trào, hàng
loạt nhà máy mía đường mọc lên, dân ồ ạt trồng mía, rồi thấy giá rẻ lại phá đi trồng cây
khác, dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu, nhà máy hoạt động dưới công suất. Bố trí
cho lĩnh vực đầu tư thấp hơn Trung ương giao.
Một số trường hợp tuy phải bổ sung chi phí hoặc chi phí đầu tư cao hơn mức cần
thiết di các điều kiện thực tế nhằm đảm bảo dự án được hoạt động an toàn hơn, hiệu quả
hơn, được các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì các chi phí tăng thêm này không được
tính là lãng phí. Tiền đầu tư vào dự án không được sử dụng đúng mục đích mà bị bớt
xén, móc ngoặc với nhau, áp dụng đơn giá sai định mức, sủ dụng những vật liệu kém
chất lượng. Tiếp tục đầu tư những dự án không hiệu quả dẫn tới hàng loạt các công trình

dự án đầu tư sau khi hoàn thành không đạt được hiệu quả kinh tế xã hội do không khai
thác hết công suất, thiếu nguồn lực.
Dự án đầu tư dở dang, bỏ hoang, không thể sử dụng được. Chi vượt dự toán xảy ra
phổ biến ở nhiều địa phương. Tiến độ thi công chậm trễ kéo dài dẫn tới hiệu quả công
trình đó bị sụt giảm. Bởi lẽ khi đưa vào sử dụng những điều kiện kinh tế xã hội đã rất
khác so với lúc xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật. Tính năng kỹ thuật trang kỹ thuật
trong dự án công trình đã lỗ thời, trong khi giá thiết bị so với tính năng kỹ thuật trở nên
quá đắt. Không những vậy, khi dự án công trình kéo dài, giá đất càng tăng kéo theo tiền
giải phóng mặt bằng và tái định cư trong các dự án đó lên cao làm cho tổng dựu toán
tăng.
Áp dụng định mức, đơn giá sai: kê khai nghiệm thu khống khối lượng, hoặc đánh
giá sai chất lượng công trình, khi thẩm tra, thẩm định không đúng dẫn đến thanh toán sai
làm tăng chi phí xây dựng dẫn đến giá công trình lớn hơn giá thực tế.
2.3.1.1.2. Theo nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Vốn tư nhân là phần tích lũy của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết
kiệm của dân và huy động từ nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản
xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có, tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh
doanh dịch vụ, sinh hoạt xã hôi, và sinh hoạt tỏng mỗi gia đình. Nguồn vốn này thường
được sử dụng sao cho đạt được hiệu quả tối đa và có sự giám sát khá chặt chẽ từ phía
người cung cấp vốn. Vì vậy, thất thoát và lãng phí thường ít xảy ra do nguyên nhân chủ
quan, mà thường xuất phát từ nguyên nhân khách quan, như do thủ tục hành chính rườm
rà, dẫn đến thời gian chuẩn bị hồ sơ kéo dài, mất cơ hội kinh doanh, tăng chi dự toán,
11
hoặc bị cắt xén trong quá trình thuê thi công, thẩm định…do không hiểu rõ về giá cả,
hay các quy định cụ thể khác.
2.3.1.2. nguồn vốn đầu tư nước ngoài
2.3.1.2.1 nguồn vốn ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development
Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư
này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài.

Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu
tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức,
vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Thất thoát và lãng phí trong sử dụng nguồn vốn ODA biểu hiện ở những mặt sau:
- Tình trạng :lãng phí kép”: : tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt,
mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội.
- Chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần
do thủ tục phức tạp, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt
Nam nên khó thống nhất.
12
- Việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng,
và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật
đã làm chậm quá trình giải ngân. Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả
các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do
quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất.
Ngay cả một nơi được đánh giá là phát triển năng động như thành phố Hồ Chí
Minh cũng có tình trạng đó. Một số nhà cung cấp ODA đã thực hiện biện pháp mang
tính trừng phạt nhưng cũng không thúc đẩy được bao nhiêu.Trong khi đó, mỗi nguồn
ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời
gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp,
hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử
dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA
trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa
ODA vào.
2.3.1.2.2. Nguốn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản
xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản
xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một
tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần
lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở
kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty
mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Thất thoát và lãng phí trong vốn FDI thể hiện ở những mặt sau: Tốc độ giải ngân
chậm: Chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp.
Cam kết FDI (năm 2006)10-16 tỷ USD nhưng thực tế tỉ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể,
chỉ 4,1 tỷ USD năm ngoái. Các nhà đầu tư vào nhưng chưa đưa được tiền vào. Nếu để
tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến chính là việc các nhà đầu tư ngần ngại
trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ
có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu
tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã
lên tới 8 tỷ USD.
Trên thế giới, nước nào cũng muốn thu hút đầu tư cho phát triển. Tình trạng khát
vốn diễn ra ở mọi nơi. Địa bàn chọn lựa đầu tư rất rộng. Nếu Việt Nam khó khăn, làn
sóng đầu tư vào nước này sẽ nhỏ dần, thậm chí mất hẳn. Cố gắng lôi lại đà đó không hề
dễ dàng. Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng bản thân
Việt Nam lại chưa tạo điều kiện đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa
có hướng dẫn thực sự để DN nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất
5-7 năm để đàm phán tham gia xây dựng hạ tầng, đạt đến kí kết. Họ lại phải mất thêm 2
năm đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Nước này đã rút dự án
khỏi Việt Nam. Bài học Phần Lan cần phải tránh. Việt Nam cũng có thể học bài học
Philippine khi nước này quyết định mở cửa thị trường điện để nhà đầu tư nước ngoài
vào tham gia. Chỉ trong vài năm, nhu cầu điện đã được đáp ứng cơ bản. Nhờ đó,
Philippine đã giảm tải được nguồn vốn lớn mà ngân sách phải bỏ ra cho phát triển hạ
tầng điện, dành đầu tư cho lĩnh vực khác. Việc mở cửa thị trường điện nhiều nước khác
cũng đã làm rồi.
2.3.1.2.3. Thị trường vốn quốc tế.

Nguồn vốn này có đặc điểm là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội,
thủ tục cho vay thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất
cho vay cao. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu
hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được
sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trong ngắn hạn. Một bộ phận của
nguồn vốn này dùng để đầu tư phát triển. Thất thoát và lãng phí đối với nguồn vốn này
thường ít xảy ra, hoặc nếu có thì cũng chỉ ở quy mô nhỏ, khi nhân viên các công ty xuất
nhập khẩu hoặc các cơ quan chức năng bớt xén trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
2.3.2.Theo giai đoạn đầu tư
Thất thoát và lãng phí xảy ra ở hầu hết các giai đoạn đầu tư từ giai đoạn chuẩn bị dự án,
thực hiện dự án rồi vận hành kết quả đầu tư.
2.3.2.1.Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư
Nguồn vốn này có đặc điểm là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội,
thủ tục cho vay thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất
cho vay cao. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu
hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được
sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trong ngắn hạn. Một bộ phận của
nguồn vốn này dùng để đầu tư phát triển. Thất thoát và lãng phí đối với nguồn vốn này
thường ít xảy ra, hoặc nếu có thì cũng chỉ ở quy mô nhỏ, khi nhân viên các công ty xuất
nhập khẩu hoặc các cơ quan chức năng bớt xén trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
a.Trong khâu thiết kế:
- Khảo sát sơ sài, khảo sát sai sót không đúng quy định tiêu chuẩn… dẫn đến thiết
kế sai, chất lượng thiết kế không đảm bảo an toàn, phương án thiết kế không hợp ly.
- Sử dụng tiêu chuẩn thiết kế không phù hợp làm cho chất lượng công trình không
đảm bảo, phải khắc phục sửa chữa, trong nhiều trường hợp phải thay đổi cả thiết kế làm
phát sinh chi phí và chậm tiến độ thi công.
b.Trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng
- Bớt xén tiền đền bù của dân, đền bù không thỏa đáng, khai khống số lượng hộ

được đền bù, và chi phí đền bù.
- Móc ngoặc với người được đền bù, nâng giá trị đền bù cho dân, khai khống diện
tích, khối lượng cần được giải tỏa để ăn chia chênh lệch
c.Trong công tác quy hoạch:
- Tầm nhìn ngắn thiếu tính chiến lược, không phù hợp với cơ chế thị trường: Việc
bố trí các công trình ở các vùng, địa phương quá gần nhau mà chưa tính đến sự liên kết
trong việc khai thác có hiệu quả hạ tầng kỹ thuật, chưa phù hợp với khả năng phát triển
kinh tế, nên khi thực hiện phải đổi địa điểm xây dựng gây lãng phí rất lớn.
- Chất lượng quy hoạch thấp: quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ
thiếu sự liên kết chặt chẽ.
- Đầu tư dự án không tính đến nguồn cung cấp nguyên liệu sản xuất tương ứng với
quy mô của nhà máy dẫn đến thiếu nguyên liệu, nhà máy xây dựng xong phải bỏ ngỏ vì
thiếu nguyên liệu đầu vào.
- Ý thức chấp hành quy hoạch chưa nghiêm, trình độ cán bộ quy hoạch chưa đáp
ứng được yêu cầu. Điều này gây ra việc xây dựng quy hoạch cho các công trình không
hợp lý, gây lãng phí rất lớn cho cả nguồn vốn trong và ngoài nước.
2.3.2.2.Trong giai đoạn thực hiện đầu tư
Giai đoạn này bao gồm các bước: hoàn tất các thủ tục để triển khai thực hiện đầu
tư, thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình, thi công xây lắp công trình, chạy
thử và nghiệm thu sử dụng. Đây là giai đoạn mà việc chi phí vốn được tiến hành dồn
dập với khối lượng lớn. Ở giai đoạn này, vấn đề thời gian rất quan trọng, vì trong suốt
thời gian thực hiện đầu tư, đồng tiền bị khê đọng, không sinh lời. Biểu hiện của thất
thoát và lãng phí trong giai đoạn này thể hiện ở các mặt sau:
a.Trong việc bố trí và sử dụng vốn:
Bố trí vốn không phù hợp: công trình khởi công không được bố trí vốn hoặc bố trí
vốn chậm.
- Việc triển khai kế hoạch giải ngân hàng năm bị chậm, đồng thời với việc chậm và
thiếu vốn sẽ gây hiện tượng tiêu cực là đi chạy chỉ tiêu kế hoạch, chạy vốn, dẫn tới việc
phân phối kém khách quan, bố trí kế hoạch phân tán, dàn trải không theo tiến độ của dự
án, kéo dài thời gian xây dựng, làm tăng chi phí không cần thiết, chậm đưa công trình

vào sử dụng gây thất thoát, lãng phí.
- Từ việc bố trí và sử dụng vốn không phù hợp dẫn đến tình hình nợ đọng khá phổ
biến, đẩy các công ty xây dựng vào bờ vực phá sản do phải chịu lãi suất ngân hàng mà
không được bên A thanh toán.
b.Việc thực hiện quy chế đấu thầu
- Thu phí của phụ thầu sai chế dộ, điểu chỉnh giá dự thầu sai quy định.
- Trong quá trình đấu thầu, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng thường xảy ra do
chủ đầu tư thông đồng với một hoặc nhiều đơn vị tham gia đấu thầu để nâng giá công
trình chia nhau. Trong trường hợp này chủ đầu tư thường tiết lộ những thông tin quan
trọng trong hồ sơ thầu của đối thủ cạnh tranh, thậm chí còn hướng dẫn cách lập hồ sơ
thầu có lợi cho việc chọn đơn vị trúng thầu đã được thông đồng.
- Tổ chức lập hồ sơ mời thầu, xét thầu không chặt chẽ nên không đạt được mục
đích của việc đấu thầu là cạnh tranh công bằng để lựa chọn nhà thầu phù hợp, đảm bảo
chất lượng, hiệu quả.
- Có sự chênh lệch giữa giá gói thầu và giá trúng thầu. Để đạt được mục đích
trúng thầu thi công công trình, nhiều nhà đầu tư đã cố tình bỏ giá thầu thấp, thậm chí chỉ
bằng một nửa so với giá mời thầu. Do đó, trong quá trình thi công buộc các nhà thầu
phải bớt xén nguyên vật liệu thậm chí làm sai quy trình, quy phạm dẫn đến công trình
không đảm bảo chất lượng theo thiết kế, kéo dài thời gian thi công và nhà thầu vừa thi
công vừa tìm mọi cách để tạo ra phát sinh tăng giá. Kết quả là công trình kéo dài mà giá
trị quyết toán công trình vẫn cao hơn giá trúng thầu, tạo ra lãng phí, thất thoát.
2.3.2.3.Trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư
Giai đoạn này được tiến hành dựa trên cơ sở kết quả của hai giai đoạn đầu, những
thiếu sót của các công việc đã thực hiện ở hai giai đoạn trên nếu sửa đổi trong giai đoạn
này thì sẽ rất khó khăn, nhiều khi vượt quá khả năng của chủ đầu tư. Thất thoát và lãng
phí trong giai đoạn này được thể hiện ở các mặt sau:
- Công tác quản lý chất lượng kém, vi phạm các quy định tiêu chuẩn quản lý chất
lượng dẫn đến các hiệu quả công trình phá đi làm lại, tuổi thọ công trình giảm, gây lãng
phí, thất thoát lớn.
- Công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế - xã hội

do không khai thác hết công suất, thiếu nguyên liệu.
- Khi thời gian thực hiện một dự án công trình, vì nhiều lý do, bị kéo dài, hiệu quả
của dự án công trình đó sẽ bị sụt giảm bởi lẽ khi đưa công trình vào sử dụng, những
điều kiện kinh tế - xã hội đã rất khác so với lúc xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật.
Tính năng kỹ thuật của các trang thiết bị trong dự án công trình bị lỗi thời trong khi giá
thiết bị so với tính năng kỹ thuật trở nên quá đắt.
2.3.2.4.Trong khâu thanh quyết toán vốn đầu tư
Nghiệm thu, thanh quyết toán chưa đúng quy định: lập quyết toán sai so với thực tế
đã thi công.
2.3.3.Theo loại hình doanh nghiệp
2.3.3.1.Doanh nghiệp Nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn
điều lệ. Thất thoát và lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước biểu hiện ở một số nội dung
sau:
Tiền đầu tư vào dự án không được sử dụng đúng mục đích mà bị bớt xén, móc
ngoặc với nhau, áp dụng đơn giá sai định mức, sử dụng những vật liệu kém chất lượng
Thẩm định không đúng, khai khống làm tăng chi phí xây dựng
Thực hiện dự án chậm tiến độ, kéo dài thời gian đầu tư, dẫn đến nhà nước phải trợ
giá và bù lỗ.
Nguồn vốn thực hiện các dự án trong doanh nghiệp Nhà nước có thể từ nguồn vốn
trong nước hoặc nguồn vốn nước ngoài đầu tư. Thất thoát và lãng phí xảy ra ở cả hai
loại nguồn vốn đầu tư này. Đặc biệt là đối với nguồn vốn viện trợ không hoàn lại ODA.
2.3.3.2.Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do tính chất
doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm về tất cả những chi phí của dự án, nên doanh
nghiệp tư nhân thường phải thực hiện dự án sao cho có hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất.
Chính vì vậy, thất thoát và lãng phí ở doanh nghiệp tư nhân thường từ phía khách quan
như: không hiểu rõ về xây dựng, dẫn đến bị bớt xén từ phía những người trực tiếp thi
công, hoặc phải chi tăng vốn do không hiểu biết về giá cả thị trường. Tuy nhiên, nói

chung, thất thoát và lãng phí ở doanh nghiệp tư nhân thường ít xảy ra, nếu xảy thì cũng
ở mức không nghiêm trọng và ít được công khai.
2.3.3.3.Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khi triển khai thực hiện các dự án,
thì hoặc là sẽ có người Việt Nam hoặc người nước ngoài chịu trách nhiệm quản lý dự
án. Vì vậy, thất thoát và lãng phí xảy ra khi những nhà quản lý Việt Nam thông đồng
với nhau để rút bớt phần vốn của dự án. Thực tế thì điều này khó xảy ra, do quy trình
quản lý vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất chặt chẽ. Hơn nữa, khi
đầu tư vào công trình ở Việt Nam thì mục tiêu cao nhất của họ là chất lượng và hiệu
quả, nên thất thoát và lãng phí khó xảy ra.
Chương 2 : Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam trong
những năm gần đây
1. Tổng quan tình hình đầu tư ở Việt Nam
1.1.Thực trạng đầu tư chung ở Việt Nam những năm gần đây
Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển trong những năm qua, ngày càng
tăng. Trong giai đoạn từ năm 2001-2005 Tổng chi Ngân sách Nhà nước bình quân bằng
28% GDP, trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi ngân sách
nhà nước. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có xu hướng cải thiện về mặt
chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỉ trọng không có sự gia tăng đáng kể: Giai
đoạn 1991-1995, nguồn vốn này chiếm 5,6% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội thì giai
đoạn 2001-2005 đã chiếm 14% tổng số vốn toàn xã hội. Nguồn vốn dân cư và tư nhân
tiếp tục gia tăng cả về quy mô và tỉ trọng chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội.Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 70% so với tổng vốn
đầu tư, vượt dự kiến kế hoạch (60%), tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào
những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết cấu
hạ tầng; đồng thời đã có nhiều hình thức huy động mới như công trái giáo dục, trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị..., tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển.
Bên cạnh đó, chúng ta luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả ODA
và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư phát triển, coi

đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển, tạo ra cơ cấu
hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Từ
năm 1993 đến hết năm 2006, Việt Nam đã tổ chức được 14 hội nghị nhóm tư vấn các
nhà tài trợ với tổng mức vốn cam kết hơn 36 tỷ USD. Với quy mô tài trợ khác nhau,
hiện nay Việt Nam có trên 45 đối tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế
và phi chính phủ dang hoạt động. Đối với Việt Nam, sau 20 năm thực hiện chính sách
đổi mới và mở cửa, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước góp phần bổ sung vốn
quan trọng cho đầu tư phát triển. Tính từ năm 1998 đến giữa năm 2007, trên phạm vi cả
nước đã có hàng nghìn dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là hơn 75 tỷ triệu
USD. Trong giai đoạn 2001-2006, FDI chiếm trung bình khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Cho dến nay, Việt Nam đã thu hút được khoảng 70 quốc gia và vũng lãnh
thổ đưa vốn vào đầu tư dưới các hình thức khác nhau.
1.2.Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực đầu tư:
• Huy động các nguồn vốn đầu tư trong những năm qua tăng khá: Hàng năm vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng 18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP
không ngừng tăng... Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã có tác động thu hút
được các nguồn vốn khác. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách Nhà nước hạn hẹp,
Chính phủ đã thực thi nhiều cơ chế để tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực kinh tế tư
nhân trong nước và nước ngoài, huy động nguồn vốn công trái giáo dục, trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình... góp phần tăng nhanh tổng nguồn
vốn đấu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển.
• Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển, tập trung cho những mục tiêu quan trọng
về phát triển kinh tế- xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Do các nguồn lực được huy
động tốt hơn và tập trung đầu tư vào một số công trình chủ yếu, quan trọng trong các
ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng
hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn.
• Có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, trong chỉ đạo, điểu
hành của Chính phủ: Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ

nguồn ngân sách Nhà nước và tạo khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu
tư mà không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời, Nhà nước thực hiện cơ chế giám
sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư, giảm bớt sai sót, vi phạm,
thất thoát. Trong quản lý đầu tư, đã tăng cường được vai trò của Hội đồng Nhândân, coi
trọng sự tham gia giám sát cúa cộng đồng và các tổ chức xã hội.
1.3.Một số tồn tại trong đầu tư
• Chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư của nền kinh tế
Nhiều bộ, ngành và địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư
của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn
vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách cho, chưa đủ sức thu
hút được nhiều các nguồn vốn khác tham gia đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân nên đã
hạn chế rất lớn về quy mô đầu tư, nhất là đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng có khả
năng thu hồi vốn nhanh. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những
hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây. Khối
lượng giải ngân nguồn vốn ODA đạt thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80
- 90% mức đề ra.
• Cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa hiệu quả
• Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển: Chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn
nhiều hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có đủ các căn cứ
vững chắc, nhất là cấc thông tin về dự báo, nhất là dự báo tác động của các yếu tố bên
ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc
gia và doanh nghiệp... Quản lý Nhà nước về quy hoạch còn nhiều yếu kém mà biểu hiện
rõ nhất là phân công, phân cấp không rõ ràng, thiếu một khung pháp lý đầy đủ cho việc
lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn
đề liện quan đến công tác quy hoạch, trách nhiệm đối với công tác quy hoạch chưa đủ
tầm.Việc thẩm định, kiểm tra, giám sát quy hoạch còn yếu, có trường hợp quy hoạch có
chất lượng thấp vẫn được thông qua.
• Bố trí đầu tư còn dàn trải: Nhìn chung, bố trí đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể
hiện ở tất cả các nguồn, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước. Những

năm gần đây đã có tiến bộ bước đầu (tập trung hơn cho các dự án thuộc nhóm A); tuy
nhiên nhiều Bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn còn tình trạng bố trí vốn chưa tập trung,
chủ yếu là đối với các công trình, dự án nhóm B và C.
• Lãng phí, thất thoát trong đầu tư còn lớn: Lãng phí, thât thoát vốn đầu tư hàng
năm của Việt Nam phải lên tới hàng tỉ đồng. Thực tế tình trạng này diễn ra phổ biến ở
nhiều công trình, dự án, lĩnh vực. Tỉ lệ thất thoát, lãng phí của những công trình có mức
lãng phí, thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên
đến 80%. Trên phạm vi cả nước, mỗi năm có không dưới 500 cuộc thanh tra, kiểm tra
quy mô khác nhau và kết quả là không có cuộc thanh tra, kiểm tra nào là không tìm ra
được những sai phạm.
• Tình hình nợ đọng trong đầu tư còn là vấn đề bức xúc: Nợ đọng trong đầu tư,
đặc biệt là trong đầu tư xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức xúc hiện nay, vượt quá khả
năng cân đối của ngân sách, chưa được xử lý dứt điểm. Do nhiều nguyên nhân khác
nhau, tình hình thực hiện vượt kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các Bộ, ngành
và địa phương vẫn tiếp diễn và có xu hướng tăng (sau khi rà soát lại, số nợ vẫn còn trên
5 nghìn tỷ đồng, Trung ương khoảng 2 nghìn tỷ đồng, địa phương khoảng 3 nghìn tỷ
đồng).
• Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư còn chậm được sửa đổi, bổ sung và
hoàn chỉnh, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay: Công
tác quản lý đầu tư còn nhiều thiếu sót, buông lỏng: công tác giám sát đầu tư, giám sát thi
công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể. Cơ
chế tín dụng đầu tư ưu đãi còn nhiều bất cập: đối tượng cho vay dàn trải, mở rộng quá
mức; lãi suất cho vay thấp, kéo dài thời gian trả nợ, khoanh nợ, dùng ngân sách để trả
nợ vay. Hiện tồn tại nhiều mức lãi suất trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,
gây phức tạp trong quản lý, đồng thời dễ phát sinh tiêu cực. Về hình thức tín dụng, chủ
yếu vẫn là cho vay theo dự án, hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư mới được áp dụng.
• Những tồn tại trong công tác đấu thầu: Việc nhận thức công tác Đấu thầu còn
nhiều hạn chế cả về nội dung đấu thầu, quy trình, trình tự và các quy định khác. Một số
cán bộ thuộc đơn vị Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được
đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu

thầu. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng Quy chế Đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ
định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tình hình thức, đặc biệt là hình
thức đấu thầu hạn chế... Chất lượng các công tác phục vụ cho đấu thầu (trực tiếp hoặc
gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán
còn thấp. Các quy định trong một số hộp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ,
chưa gắn trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, dồn sức ép vào một phía, thiếu các
điều kiện chi tiết gây khó khăn cho thực hiện.
• Tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư Công tác giám sát và đánh giá đầu tư
chưa được tất cả các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức và thực hiện nghiêm
túc theo quy định; chỉ có khoảng 30% các chủ dự án sử dụng vốn ngân sách có báo cáo
về giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài,
chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo. Công tác giám sát nói chung còn
chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo theo quy định, chưa có tác
dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được
chú trọng.
• Thanh, quyết toán công trình còn chậm do thủ tục phức tạp: Việc giải ngân,
thanh toán khối lượng vốn đầu tư hoàn thành còn chậm, chủ yếu do các thủ tục thanh
toán phức tạp, công tác nghiệm thu của các chủ đầu tư và các ban quản lý công trình còn
chậm. Chất lượng công tác tư vấn thiết kế chưa đảm bảo yếu cầu, nên trong quá trình
triển khai thi công đã phát sinh nhiều khối lượng không được chủ đầu tư bổ sung kịp
thời, ảnh hưởng đến công tác thanh toán.
2.Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam trong những năm
gần đây
2.1.Tình hình chung về thất thoát và lãng phí trong đầu tư ở Việt Nam những năm
gần đây
Lãng phí và thất thoát là hai căn bệnh trầm kha trong đầu tư ở Việt Nam. Theo đánh
giá của giáo sư Dapice: “Tỉ lệ thất thoát, lãng phí vốn đầu tư hàng năm của Việt Nam
phải lên tới hàng tỉ USD”. Thực tế là qua kiểm tra đã phát hiện tình trạng thất thoát và
lãng phí diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực, nhiều cấp; tỷ
lệ thất thoát và lãng phí của những công trình có mức lãng phí và thất thoát thấp cũng

tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Đó là chưa tính
đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản xuất ra các
sản phẩm với chất lượng kém, giá thành công và không tiêu thụ được... Đúng là sờ đâu
trúng đó, thanh tra tới đâu thì phát hiện sai phạm đến đó. Trên phạm vi cả nước, mỗi
năm có không dưới 500 cuộc thanh tra, kiểm tra quy mô khác nhau và kết quả là không
có cuộc thanh tra, kiểm tra nào là không tìm ra được những sai phạm.
Nếu chỉ lấy con số thất thoát, lãng phí là 15% với dao động 3% như đề tài đánh giá
tỉ lệ lãng phí, thất thoát do Tổng hội Xây dựng Việt Nam báo cáo, thì con số lên tới hàng
chục ngàn tỉ đồng/năm.
Bảng: Mức thất thoát và lãng phí trong đầu tư trong những năm gần đây trong
các dự án tiến hành kiểm tra
Bảng: Thất thoát, lãng phí trong năm 2002-2003
Năm Số dự án kiểm
kiểm tra
Tổng số vốn
đầu tư (tỷ đồng)
Mức thất thoát
và lãng phí (tỷ
đồng)
2002 995 20.736 1.151
2003
14 14
(cấp Trung ương)
2.138
(cấp địa phương)
8.193
6.571
1.235
217
(Nguồn vietnamnet)

Cụ thể, kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án với tổng vốn đầu tư 20.736 tỷ
đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng vốn đầu tư là 1.151 tỷ đồng, bằng
khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do
Thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm tra phát hiện sai phạm tài chính lên tới 13%. Đó là
chưa kể đến các lãng phí lớn do chậm triển khai công trình và nhất là do sai sót trong
chủ trương đầu tư mà hiện chưa có cách đánh giá thống nhất. Năm 2003, qua thanh,
kiểm tra 14 dự án, công trình cấp Trung ương có tổng vốn đầu tư hơn 8.192 tỷ đồng đã
phát hiện sai phạm 1.225 tỷ đồng, chiếm 14% tổng số vốn được thanh tra. Thanh tra các
điạ phương kiểm tra 2.138 dự án có tổng vốn đầu tư hơn 6.571 tỷ đồng đã phát hiện sai
phạm hơn 217 tỷ đồng, chiếm 4,6% tổng số vốn được thanh kiểm tra. Tỷ lệ thất thoát
trung bình của các dự án, công trình cấp Trung ương là 5%, cấp địa phương là 6% và ở
các ngành là 7%. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đầu tư”. Trong 6 tháng đầu
năm 2004, thanh tra cũng đã phát hiện sai phạm về kinh tế trị giá 539 tỷ đồng. Năm
2005, lần đầu tiên căn bệnh thất thoát, lãng phí này được "bắt mạch" một cách rõ ràng
thông qua việc Tổng hội Xây dựng (HXD) VN công bố 59 địa chỉ công trình có thất
thoát trong đầu tư, xây dựng. Tuy đến năm 2006, con số này dù có giảm, song vẫn là
con số "nóng" về thất thoát, lãng phí. Theo thống kê này, vẫn còn tới 43 dự án đầu tư
xây dựng có thất thoát, lãng phí.
2.2.Thực trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư theo nguồn vốn
2.2.1.Thất thoát và lãng phí trong đầu tư sử dụng nguồn vốn trong nước
2.2.1.1.Thất thoát và lãng phí trong đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế
quy mô tổng thu ngân sách Nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn
thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở
hữu Nhà nước...). Đi cùng sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư đặc biệt là
đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Cụ thể được thể hiện
qua bảng số liệu sau:
Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước
%
2000 2001 2002 2003 2004

TỔNG CHI 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
Trong tổng chi
Chi đầu tư
phát triển 27.19 31.00 30.51 32.91 30.87
Trong đó: Chi
XDCB 24.06 27.85 27.49 30.04 28.83
Chi phát triển
sự nghiệp kinh
tế xã hội 56.74 55.14 52.66 52.77 50.42
(Nguồn tổng cục thống kê)
Tuy nhiên không phải tất cả số tiền từ Ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư phát
triển đều được sử dụng hiệu quả.Trong khi nhu cầu sử dụng ngân sách để phát triển kinh
tế, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc ở tất cả các tỉnh, thành phố đều rất lớn thì một
số bộ, ngành, địa phương vẫn sử dụng ngân sách một cách vô lối. Tình trạng lãng phí
thất thoát diễn ra phổ biến và nghiêm trọng ở hầu hết các công trình dự án sủ dụng vốn
từ ngân sách Nhà nước. Tiền của của dân, của nước cứ như không cánh mà bay,
đây đó họ xài ngân sách như xài tiền chùa. Thực tế hiện nay tình trạng sử dụng Ngân
sách Nhà nước sai mục đích, chi sai chế độ, chi vượt dự toán xảy ra khá phổ biến tại
nhiều địa phương, gây thất thoát, lãng phí lớn đối với Ngân sách Nhà nước, tức là tiền
đóng thuế của người dân. Ai cũng biết rằng Luật Ngân sách nhà nước đã nghiêm cấm
các trường hợp cho vay và sử dụng ngân sách nhà nước trái quy định. Nhưng, như lời
Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng tại QH: “Một số địa phương, bộ ngành vẫn sử
dụng ngân sách nhà nước cho vay, tạm ứng tương đối lớn và kéo dài nhiều năm”. Kết
quả kiểm tra cho thấy nhiều bộ, ngành, đơn vị đã cho vay, tạm ứng tới 683 tỉ đồng.
Đứng đầu là TP Hồ Chí Minh (cho vay 357,5 tỉ đồng), tỉnh Quảng Nam (83 tỉ đồng)...
Một phần không nhỏ trong số đó là tạm ứng cho các cá nhân.
Theo kêt quả kiểm toán tiến hành trong năm 2003 của 55 dự án vốn ngân sách
nhà nước với tổng vốn đầu tư 701 tỉ đồng, có 22 dự án vi phạm với tổng số tiền 40 tỉ
đồng, chiếm 5,7%; Chỉ một đợt kiểm toán trên đã giúp tăng thu và giảm chi được 162 tỉ
đồng... Vậy là một con số rất ấn tượng bởi vì nếu kiểm tra đầy đủ ở tât cả các địa

phương, bộ ngành, doanh nghiệp còn lại thì còn làm dôi ra cho ngân sách biết bao nhiêu.
Kết quả kiểm toán niên độ ngân sách năm 2005 tại 32 tỉnh, thành phố, 10 bộ cơ quan
Trung ương, 16 dự án chương trình trọng điểm, 22 công ty doanh nghiệp công nghệ... đã
phát hiện, kiến nghị xử lý về tài chính 7.622 tỉ đồng chi sai nguyên tắc, trong đó có hơn
1.399,5 tỉ đồng từ ngân sách đã mất, thất thoát không thể thu hồi, xử lý các khoản tạm
thu, tạm giữ 286,7 tỷ đồng, cho vay tạm ứng không đúng quy định, sai phạm khác là
2.735,8 tỉ đồng... Kiểm toán còn phát hiện một loạt sai phạm khác trong việc sử dụng
ngân sách tùy tiện, sai mục đích, quy định gây thất thoát và lãng phí lớn, đặc biệt là lĩnh
vực đầu tư phát triển và chi tiêu công. Chẳng hạn vụ bê bối trong việc thực hiện Đề án
112 (Tin học hoá) gây thất thoát và lãng phí hàng ngàn tỷ đồng ngân sách Nhà nước.
Một đề án lớn, được thực thi tùy tiện, sai phạm, vụ lợi được thực hiện và tiếp tay từ một
số cán bộ của Văn phòng Chính phủ. Họ không chỉ yếu kém về năng lực chuyên môn
mà còn tha hoá về đạo đức cách mạng. Họ đã tự nâng khống giá thiết bị, in ấn tài liệu để
bòn rút tiền đóng của dân. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, hàng ngàn tỉ đồng của dân
đã ném xuông sông xuống biển và chui vào túi riêng của không ít quan tham, do Đề án
112 bất khả thi, không đưa vào ứng dụng được.
Thậm chí có địa phương sử dụng sai ngân sách dự phòng dành cho công tác phòng
chống lụt bão, nhưng gây bức xúc nhất là có địa phương sử dụng đến 17 tỉ đồng ngân
sách dự phòng để mua xe con. Người dân bức xúc nhất là việc sử dụng xe công sai mục
đích diễn ra tràn lan tại nhiều địa phương. Tình trạng sử dụng xe công vào việc riêng,
dùng để đi chùa trong dịp lễ hội đã được dư luận phản ánh nhiều. Người ta còn sử dụng
xe cứu thương để đi nhậu, đi chơi thì không thể chấp nhận được. Trong lĩnh vực đầu tư
bằng nguồn vốn trong nước, chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước thì trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng cơ bản thất thoát và lãng phí diễn ra phổ biến và nghiêm trọng nhất. “Thất
thoát trong đầu tư xây dựng hiện nay đã trở nên phổ biến, và giới chuyên môn có nhiều
nhận định khác nhau về tỷ lệ thất thoát, nhưng tỷ lệ đó có thể lên đến 30%”. Tuy nhiên,
khó có bằng chứng xác thực về vấn đề này. Nếu lấy tỷ lệ thất thoát của Sở Giao thông
Công chính Hà Nội là 7% làm cơ sở, thì mỗi năm thành phố cũng “mất” đến hàng nghìn
tỷ đồng.
Hiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây

dựng nên chưa có thể khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay đề cập.
Tuy nhiên có thể đưa ra một số đánh giá về thất thoát vốn đầu tư:
Năm Số DA
tiến hành
thanh tra
Tổng
mức vốn đầu
tư (tỷ đồng)
Sai phạm
về tài chính
(tỷ đồng)
Tỉ lệ
(%)
2002 17 9.385 871 13,6
2003 14 8.193 1.235 19
2004 64 6.000 1.134 18,9
2005 84 2.054,2 402 19,6
Nguồn: Báo cáo của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ bản trình bày trước Quốc
hội sáng 16/11).
Thanh tra Nhà nước năm 2002 đã tiến hành thanh tra 17 dự án có tổng mức
đầu tư là 9.385 tỷ đồng, tổng giá trị vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra là 6.407 tỷ
đồng. Tổng số sai phạm về tài chính phát hiện ở 17 dự án là 871 tỷ đồng, chiếm 13,6%.
Năm 2003 đã thanh tra 14 dự án lớn với tổng mức đầu tư là 8.193 tỷ đồng trong đó giá
trị vốn đầu tư được thanh tra là 6.450 tỷ đồng. Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai
phạm về kinh tế do làm trái các quy định của Nhà nước là 1.235 tỷ đồng, chiếm khoảng
19%. Năm 2004, tổng vốn đầu tư của ngành giao thông công chính là 3.149 tỉ đồng, thì
mới thấy được số tiền thất thoát lớn đến mức nào – 220 tỉ đồng. Trong 648 dự án được
kiểm toán với giá trị khoảng 6.000 tỷ đồng có sai sót 159 tỷ đồng, chiếm 2,6% giá trị
được kiểm toán. Năm 2005 được thành phố xác định là năm chống lãng phí thất thoát -
chủ yếu là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách thì số tiền thất

thoát cũng lên đến gần 1.200 tỉ đồng. Trong 585 dự án được giám sát đã phát hiện và xử
lý một số sai phạm bằng nhiều biện pháp. Cụ thể, ngừng đầu tư 4 công trình, với tổng số
vốn đầu tư là 34,3 tỉ đồng; điều chỉnh 3 dự án từ 161,1 tỉ đồng vốn đầu tư, xuống còn
72,4 tỉ đồng, tiết kiệm được 73,7 tỉ đồng. Riêng kết quả thanh tra 84 công trình, với tổng
vốn đầu tư 2.054,2 tỉ đồng đã phát hiện được 29/84 dự án có sai phạm tài chính gần 41
tỉ đồng.
Như vậy, nếu được sử dụng hiệu quả, vồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho cơ sỏ
hạ tầng sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế Việt Nam nhiều hơn nữa.
2.2.1.2.Thất thoát và lãng phí trong đầu tư sử dụng nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy
của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm tỉ lệ bình quân
khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào
khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của
dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng khoảng 33% số tiết kiệm
được. Vì là phần tiền tiết kiệm của mình, nên hầu hết nguồn vồn này đều được sử dụng
một cách hiệu quả “đầu tư là phải mang lại lợi nhuận”, do đó thất thoát lãng phí hầu
như không xảy ra, nếu có chẳng qua chỉ là do các nguyên nhân khách quan gây ra: thủ

×