Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.14 KB, 30 trang )

Chương 1
Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với
nền kinh tế ở Việt Nam.
1.1 Khái niệm chung về thị trường tài chính
1.1.1 Tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn
liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.
1.1.2 Hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính là tổng thể các bộ phận khác nhau trong một
cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh
vực khác nhau nhưng có mối quan hệ với nhau theo những quy luật
nhất định. Hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận
dẫn vốn:
- Các tụ điểm vốn : là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính
được tạo ra, đồng thời cũng là nơi thu hút trở lại các nguồn vốn ở các
mức độ và phạm vi khác nhau, gồm có:
oTài chính doanh nghiệp
oNgân sách Nhà Nước
oTài chính dân cư,tổ chức xã hội
oTài chính đối ngoại
- Các bộ phận dẫn vốn: thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các
tụ điểm vốn trong hệ thống tài chính, gồm có :
SV: Trần Thị Hoàn
1
o Thị trường tài chính: bộ phận dẫn vốn trực tiếp thực hiện
chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ thống tài
chính.
o Các trung gian tài chính: là các tổ chức tài chính thực hiện
chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Tuy nhiên
không như dạng tài chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn
trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài


chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối nghĩa là người
người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó
chính là các tổ chức tài gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung
gian.
Như vậy, các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các
lĩnh vực: tạo ra các nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn lực tài chính
và chu chuyển các nguồn tài chính(dẫn vốn). Với các hoạt động này,
toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế
xã hội.
1.1.3 Thị trường tài chính
1.1.3.1 Khái niệm
Thị trường tài chính là bộ phận dẫn vốn trực tiếp, thực hiện
chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ thống tài
chính. Trong đó, hoạt động dẫn vốn của thị trường tài chính được thể
hiện bằng cách người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với
nhau : những người cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ, các cổ
phiếu hoặc thông qua các công cụ tài chính khác còn những người cần
vốn sẽ mua các công cụ nợ, các cổ phiếu hay các công cụ tài chính đó.
SV: Trần Thị Hoàn
2
1.1.3.2 Chủ thể của thị trường tài chính
1.1.3.2.1 Chủ thể đi vay
Đây là các chủ thể cần vốn để thực hiện các hoạt động của mình.
Chủ thể đi vay trên thị trường tài chính bao gồm có Chính phủ, các
doanh nghiệp và các hộ gia đình, các cá nhân.
- Chính phủ: vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành trái
phiếu, tín phiếu kho bạc… để bù đắp sự thiếu hụt Ngân sách Nhà Nước
hoặc huy động vốn cho các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…
của đất nước.

- Các doanh nghiệp: thường là đối tượng vay vốn với khối lượng lớn
và thường xuyên nhất vì yêu cầu của sản xuất kinh doanh là luôn phải
đầu tư thêm vốn để mở rộng, phát triển sản xuất: mua máy móc, cơ sở
vật chất, thuê nhân công, đổi mới công nghệ…
- Các hộ gia đình: Hộ gia đình vay vốn trên thị trường tài chính để đáp
ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác trong gia
đình.
- Cá nhân : vay vốn trên thị trường tài chính để đáp ứng các nhu cầu cá
nhân: mua sắm, học hành…
1.1.3.2 .2 Chủ thể cho vay hay đầu tư
Đây là các chủ thể sẽ cung cấp vốn hay nói cách khác là tạo vốn
cho thị trường tài chính:
- Các hộ gia đình, cá nhân: Các chủ thể này cung cấp vốn bằng cách
mua trái phiếu, tín phiếu,cổ phiếu,gửi tiền vào ngân hàng hoặc các công
cụ tài chính khác.
- Các trung gian tài chính :Các tổ chức tài chính trung gian bao
gồm: các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các hiệp hội cho vay,
các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài
SV: Trần Thị Hoàn
3
chính...cung cấp vốn thông qua các hoạt động: cho vay tiền, chứng
khoán, phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành thương phiếu, hối
phiếu…
- Các doanh nghiệp và Chính phủ: Các doanh nghiệp và Chính phủ
khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách sinh lợi dưới dạng: mua trái phiếu,
mua cổ phiếu hay mua các công cụ tài chính khác…
1.3 Cấu trúc của thị trường tài chính
Có nhiều cách xem xét cấu trúc thị trường tài chính dựa theo
từng khía cạnh khác nhau:
1.3.1 Theo tính chất của các công cụ tài chính

Thị trường tài chính bao gồm có: Thị trường nợ và thị trường vốn
cổ phần:
- Thị trường nợ: Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để
vay vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ
như trái khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả
thuận có tính chất hợp đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào
cuối kì hạn. Kì hạn dưới 1 năm là ngắn hạn, trên 1 năm là trung và dài
hạn. Thị trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể
trên.
-Thị trường vốn cổ phần: Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các
công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần
tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau
khi trừ chi phí, thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu
công cụ nợ) .
SV: Trần Thị Hoàn
4
1.3.2 Theo cách thức tổ chức của thị trường
Thị trường chứng khoán bao gồm: Thị trường cấp một và thị
trường cấp hai :
- Thị trường cấp một: Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc
mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua
bán chứng khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông
qua trung gian là các ngân hàng.
- Thị trường cấp hai : Là thị trường mua bán lại những công cụ tài
chính đã phát hành.
1.3.3 Theo cơ sở kỳ hạn thanh toán của các công cụ tài chính
Thị trường tài chính bao gồm có: Thị trường tiền tệ và thị trường
vốn. Đây là cách phân loại phổ biến nhất:
- Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt
động của cung và cầu về vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn bao gồm cả trái

phiếu ngắn hạn, có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ ngắn hạn rủi
ro thấp, tính thanh khoản cao. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông
qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ thể
quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn. Hàng
hóa mua bán trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao, thường
được giao dịch thường xuyên và có giao động nhỏ hơn trên thị trường
tiền tệ nên thường an toàn hơn.
- Thị trường vốn: Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ
dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ
phận là thị trường cổ phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu.
SV: Trần Thị Hoàn
5
1.1.4 Các công cụ chủ yếu của thị trường tài chính
1.1.4.1 Các công cụ của thị trường tiền tệ
- Tín phiếu kho bạc: là những công cụ vay nợ của ngắn hạn của Chính
phủ thường được phát hành với kì hạn thanh toán 3, 6 hoặc 12 tháng.
Chúng được trả với mức lãi suất cố định và được hoàn trả vốn khi đến
hạn thanh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá. Đây là loại lỏng
nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ nên an toàn nhất và
được mua bán nhiều nhất.
- Chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng: là một công cụ vay nợ do ngân
hàng thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi tiền được thanh
toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định và khi đến kì hạn thanh toán
thì hoàn thành trả gốc theo giá mua ban đầu. Hiện nay, đây là công cụ
được hầu hết các ngân hàng sử dụng.
- Thương phiếu: là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và
các doanh nghiệp nổi tiếng phát hành. Thương phiếu là chứng chỉ có
giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không
điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương
phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu:

o Hối phiếu: là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu
người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi
có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người
thụ hưởng.
o Lệnh phiếu: là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc
vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
- Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận: là một hối phiếu ngân hàng
(sự hứa hẹn thanh toán như một tấm séc), do một công ty phát hành,
SV: Trần Thị Hoàn
6
được thanh toán trong thời hạn xác định trước và được ngân hàng đóng
dấu “ đã chấp nhận” lên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu phải
gửi món tiền bắt buộc vào tìa khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả
cho hối phiếu. Nếu công ty không có khả năng thanh toán thì ngân hàng
buộc phải thanh toán theo số tiền đã ghi trên hối phiếu. Các hối phiếu
đã chấp nhận này thường được giao dịch trên thị trường cấp hai nên nó
có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc.
1.4.2 Các công cụ trên thị trường vốn
- Cổ phiếu: là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công
ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc
bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của
công ty đó. Người nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là
chủ sở hữu của công ty phát hành.
- Các khoản cho vay thế chấp: Đây là thuật ngữ để chỉ các khoản cho
vay được bảo đảm bởi các tài sản thế chấp. Thông thường các khoản
cho vay có thế chấp chịu mức lãi thấp hơn so với các hình thức cho vay
khác bởi vì giá trị của chính tài sản thế chấp đã phần nào giảm bớt rủi
ro đối với người cho vay.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay

vốn dài hạn. Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song
không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có
loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới
mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể
hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có
những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho
khoản vay.
SV: Trần Thị Hoàn
7
- Trái phiếu chính phủ hay công trái: là trái phiếu được phát hành bởi
chính phủ một quốc gia. Trái phiếu chính phủ có thể được phát hành
bằng đồng tiền nước đó hoặc ngoại tệ (trường hợp sau gọi là sovereign
bond). Trái phiếu chính phủ thường được coi là không có rủi ro bởi
chính phủ có thể tăng thuế hoặc in thêm tiền mặt để chi trả trái phiếu
đáo hạn.
1.4.3 Các công cụ tài chính phái sinh
Công cụ tài chính phái sinh là những công cụ được phát hành
trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác
nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị
của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ
giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ
tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ
hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng
kỳ hạn (forward contracts), hợp đồng tương lai (future contracts),công
cụ hoán đổi. Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với
những khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên các
công cụ lai tạo...
1.2 Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với nền kinh tế ở Việt
Nam
1.2.1 Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với nền kinh tế nói

chung.
Thị trường tài chính là một hệ thống phức tạp trong đó có hàng
nghìn các tổ chức thành viên, hàng triệu đơn vị tham gia và hàng tỉ giao
dịch được thực hiện mỗi ngày. Hoạt động giao dịch trên những thị
trường tài chính vượt qua các giới hạn về địa lý và thời gian, những
SV: Trần Thị Hoàn
8
đơn vị giao dịch (cá nhân và tổ chức) từ những điểm hoàn toàn khác xa
nhau có thể trao đổi và giao dịch với nhau vào bất kỳ thời điểm nào. Sự
toàn cầu hóa trong các giao dịch này thậm chí còn làm người ta đặt ra
câu hỏi về vai trò của chính phủ các nước và khả năng giám sát những
giao dịch đang diễn ra hàng ngày trên khắp thế giới này. Liên tục mở
rộng hơn trên phạm vi quốc tế, các giao dịch tài chính đang diễn ra liên
tục kín mỗi vòng quay đồng hồ, tương ứng là những thị trường tài
chính liên tục vận động và liên tục thay đổi.
Tuy nhiên nếu xét về bản chất, chức năng cơ bản mà thị trường tài
chính thực hiện cho nền kinh tế trên thực tế là không nhiều nhưng lại
có vai trò rất quan trọng. Những chức năng này nằm ở vị trí trung tâm
của nền kinh tế, nhờ đó mà các hoạt động đầu tư, tích kiệm, giao dịch
được đảm bảo thực hiện thông suốt, đầy đủ và không gặp phải khó
khăn, rủi ro.
Ba chức năng cơ bản của thị trường tài chính xoay quanh vấn đề
luân chuyển vốn từ những chủ thế kinh tế thừa vốn đến những chủ thế
kinh tế thiếu và có nhu cầu vốn. Điều này đảm bảo sự luân chuyển các
nguồn lực giữa các đơn vị kinh tế khác nhau trong một nền kinh tế nói
chung. Và thị trường tài chính hỗ trợ quá trình này bằng cách cung cấp
các dịch vụ tài chính cần thiết.
• Thứ nhất, thị trường tài chính hỗ trợ cho sự hình thành và phân phối
của các công cụ vốn (sở hữu) và các công cụ nợ.
• Thứ hai, thị trường tài chính thúc đẩy sự hình thành của những cơ

chế nhờ đó những công cụ nói trên có thể được chuyển đổi ngược lại
thành tiền và tăng tính thanh khoản chung cho thị trường.
SV: Trần Thị Hoàn
9
• Thứ ba, thị trường tài chính thúc đẩy sự hình thành và phát triển của
những tổ chức có khả năng hỗ trợ các giao dịch được tiến hành một
cách đầy đủ và an toàn.
1.2.2 Sự cần thiết của thị trường tài chính đối với nền kinh tế ở Việt
Nam
Qua trên, ta đã thấy được sự cần thiết của thị trường đối với nền
kinh tế. Đối với Việt nam hiện nay, thị trường tài chính không chỉ cần
thiết mà còn có thể nói là một bộ phận không thể thiếu đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay. Bởi lẽ, Việt Nam đang là một trong nước có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới, lại đang tham gia vào
các sân chơi lớn của các nước trong khu vực và trên thế giới như
WTO, AFTA… nên nhu cầu vốn cho các lĩnh vực trong nền kinh tế là
rất lớn, đồng thời muốn thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài thì thị
trường tài chính càng cần phải hoạt động hiệu quả và liên tục phát triển.
Thứ nhất, thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng nhất trong
nền kinh tế Việt Nam hiện nay do đây là kênh dẫn vốn từ người tiết
kiệm đến người kinh doanh, giúp cho việc chuyển vốn từ người không
có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi nên
có thể huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh
tế.
Thứ hai, thị trường tài chính Việt Nam đã và đang thúc đẩy việc
tích lũy và tập trung tiền vốn để tạo nên nguồn vốn lớn, cần thiết để đáp
ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh tạo
nên nền tảng cở sở hạ tầng vững chắc tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế đất nước .
Thứ ba, chỉ khi thị trường tài chính Việt Nam hoạt động hiệu quả

mới tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách mở cửa,
SV: Trần Thị Hoàn
10
cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như phát hành
trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước...
Như vậy, thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu
quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người
vay tiền để đầu tư. Vì vậy, thị trường tài chính Việt Nam thông suốt sẽ
tạo nên ngày càng nhiều các công ăn việc làm cho người dân, huy động
và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho nền kinh tế cho nền kinh tế
phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước; cải thiện
chất lượng cuộc sống, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người
dân.
Chương 2
Thực trạng thị trường tài chính
Việt Nam hiện nay
SV: Trần Thị Hoàn
11
2.1 Đánh giá chung về thị trường tài chính Việt Nam hiện nay
Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống tài chính Việt Nam đã có bước
chuyển từ hành chính, bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường.
Nước ta đã có nhiều cải cách về hệ thống thuế, đổi mới hệ thống ngân
hàng và tiền tệ, phát triển thị trường bảo hiểm, xây dựng thị trường
chứng khoán... có thể nói, đến nay, nước ta đã có một cấu trúc thị
trường tài chính khá đầy đủ. Tuy nhiên, hệ thống thị trường tài chính
Việt Nam vẫn còn thiếu đồng bộ và bất cập cả trên 3 phương diện: cơ
sở pháp lý, cơ chế vận hành và năng lực tổ chức giám sát thực hiện. Có
thể nói, thị trường tài chính còn tụt hậu khá xa so với nhu cầu phát
triển.

Có thể thấy điều đó qua những biểu hiện như: duy trì những rào
cản đối với việc gia nhập của các ngân hàng nước ngoài nên 4 ngân
hàng thương mại vẫn giữ thế khống chế thị trường. Ngân hàng Nhà
nước vẫn hay sử dụng các biện pháp hành chính để điều tiết thị trường
tiền tệ. Thị trường chứng khoán tuy đã được hình thành, nhưng vẫn còn
rất nhỏ bé và chưa trở thành một kênh huy động vốn hữu hiệu như
mong muốn. Trong khi đó, hoạt động giao dịch cổ phiếu phi chính
thức, thị trường trái phiếu vẫn còn rất sơ khai, mang tính tự phát và
tiềm ẩn nhiều rủi ro do chưa có luật điều chỉnh.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại chưa được kinh doanh theo
nguyên tắc thương mại và thị trường một cách triệt để, đôi khi vẫn phải
chấp nhận cho vay các khoản tín dụng chính sách. Bên cạnh đó, hệ
thống pháp luật về thị trường chứng khoán chưa hoàn chỉnh và còn
nhiều chồng chéo đôi khi còn mâu thuẫn nhau. Chúng ta đã có một
Nghị định về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhưng hoạt động
kinh doanh chứng khoán còn phải chịu sự điều chỉnh của nhiều luật
SV: Trần Thị Hoàn
12

×