Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

quản lý nguồn rác thải sinh hoạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 35 trang )

Chương 1
Giới thiệu
1.1. Đặt vấn đề
Tân Châu là một thị xã đầu nguồn sông Tiền, có cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương
và có truyền thống thương mại lâu đời, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
trong năm 2010 là 12,80% cao hơn so với năm 2009 là 1,30% (Trần Thị Thu
Hiền, 2010). Trong cơ cấu phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) thị xã Tân Châu
năm 2009 cho thấy Tân Châu ưu tiên phát triển Thương mại – Dịch vụ (TM –
DV) với tỷ trọng 55,86% và trong kế hoạch phát triển KTXH đến năm 2020 thì
TM – DV chiếm 68,60% (UBND thị xã Tân Châu, 2010). Cùng với sự phát
triển KTXH ở mức cao, rác thải đang ngày càng gia tăng về số lượng, chủng
loại và tính độc hại, đã đặt ra nhiều thách thức đối với công tác quản lý và xử lý
rác thải. Đó là kết quả tất yếu của quá trình sinh hoạt và sản xuất, rác thải tác
động cùng lúc lên cả ba môi trường đất, nước, không khí, là một hiểm họa
chung của tỉnh An Giang. Tuy nhiên, nguồn rác thải sinh hoạt (RTSH) ở An
Giang tập trung tại các chợ chiếm 49,02%, kế đến là cụm tuyến dân cư 38,20%,
tại các hộ gia đình nông thôn là 11,30%, tại các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch
vụ là 1,48%, còn lại là từ các nguồn khác (Dinh Thi Viet Huynh, 2009). Ở Tân
Châu hiện nay việc thu gom và xử lý rác thải chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tế dẫn đến tình trạng vứt rác bừa bãi, vứt xuống sông, kênh gây ảnh hưởng đến
môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Là một thị xã cù lao được bao bởi hệ thống sông ngòi và kênh rạch chằng chịt,
nên sự phát tán RTSH của Tân Châu đến các vùng khác qua các tuyến sông,
kênh là vấn đề không thể tránh khỏi. Phần lớn các chợ xã ở thị xã Tân Châu đều
nằm dọc theo các tuyến kênh, đặc biệt là ở chợ xã Long An và Châu Phong đều
nằm dọc theo kênh Xáng, với mật độ dân cư cao nhất vùng nông thôn thị xã Tân
Châu là xã Châu Phong là 1.110 người.km
-2
(Phòng Thống kê thị xã Tân Châu,
2009). Do ý thức của người dân xã Long An và Châu Phong về việc quản lý
RTSH, bảo vệ môi trường còn kém nên có nhiều người theo thói quen thường


vứt RTSH xuống kênh Xáng dẫn đến sự lưu chuyển rác trên sông theo dòng
chảy, khi thủy triều lên thì rác di chuyển qua sông Tiền và khi thủy triều xuống
thì rác thải di chuyển qua sông Hậu gây ảnh hưởng đến các vùng lân cận.
Việc rác lưu chuyển trên sông như vậy đã gây ảnh hưởng đến sức khỏe những
hộ dân sử dụng nước sông để sinh hoạt. Theo Phòng Thống kê thị xã Tân Châu
(2009) thì những hộ dân sử dụng nước sạch trong sinh hoạt chiếm 35,75%, số
còn lại là những hộ sử dụng nước giếng và nước sông để sinh hoạt, nên dễ gây
1
ra các bệnh như dịch tả, tiêu chảy, thương hàn, ảnh hưởng tiêu cực đến sức
khỏe cộng đồng. Do đó việc tìm hiểu thực trạng quản lý RTSH tại chợ xã Long
An và Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang là rất cần thiết nhằm nắm
được hiện trạng quản lý RTSH, từ đó có những giải pháp phù hợp khắc phục
những khó khăn, hạn chế ô nhiễm môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người dân, góp phần đưa thị xã Tân Châu phát triển đúng hướng trong kế
hoạch phát triển KTXH đến năm 2015 của UBND tỉnh An Giang về việc xây
dựng nông thôn mới.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng quản lý RTSH tại các khu vực chợ nông thôn ở thị xã Tân
Châu, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp điều kiện của địa phương để khắc
phục tình trạng ô nhiễm môi trường do RTSH, góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người dân.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu thực trạng quản lý RTSH tại địa phương
- Tìm hiểu ý thức của người dân trong việc quản lý RTSH tại khu vực chợ
nông thôn
- Đề xuất một số giải pháp để quản lý nguồn RTSH một cách hiệu quả
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nơi đây?
- RTSH tác động như thế nào đến cuộc sống người dân trong vùng?

- Giải pháp nào là bền vững để quản lý RTSH tại địa phương?
1.4. Giới hạn nghiên cứu
1.4.1. Giới hạn nội dung
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của RTSH đến môi trường và
cuộc sống cộng đồng nông thôn vùng nghiên cứu, từ đó đưa ra những giải pháp
khả thi để quản lý hiệu quả nguồn RTSH.
1.4.2. Giới hạn không gian
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại khu vực chợ chính xã Long An (thuộc ấp
Long Hiệp) và xã Châu Phong (thuộc ấp Vĩnh Tường I), thị xã Tân Châu.
1.4.3. Giới hạn thời gian
Đề tài nghiên cứu được thực hiện từ 18/10/2010 đến 31/12/2010.
Chương 2
2
Lược khảo tài liệu
2.1. Khái niệm chợ
Theo Vũ Xuân Bình (2009), chợ là công trình phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng
ngày, là nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ ở nông
thôn. Có 2 loại chợ là chợ nông thôn và chợ trung tâm xã.
Chợ nông thôn bao gồm: chợ trong nhà, diện tích mua bán ngoài trời, đường đi,
nơi để xe và nơi thu gom rác.
Chợ trung tâm xã (chợ chính):
- Chợ loại III bao gồm chợ dân sinh xã, cụm xã, liên xã, thị tứ, có dưới 200
điểm kinh doanh.
- Vị trí chợ phải thỏa mãn các khoảng cách về an toàn phòng cháy chữa cháy
và điệu kiện an toàn vệ sinh môi trường. Không bố trí chợ gần trường học,
bệnh viện, những công trình có yêu cầu cách ly tiếng ồn. Đặt ở khu vực dân
cư thuộc xã, cụm xã, liên xã, thị tứ. Kinh doanh các loại hàng hóa chủ yếu
phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp
với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức dịch vụ giữ xe.
- Bán kính phục vụ 1.200m, phục vụ từ 15.000 – 20.000 dân.

- Diện tích đất xây dựng: ≥3.000m
2
, riêng đối với khu vực miền núi
≥1.500m
2
, có dưới 200 hộ kinh doanh. Tỷ lệ diện tích đất xây dựng các hạng
mục trong chợ được quy định như sau:
• Diện tích xây dựng trong nhà chợ chính: <40%.
• Diện tích mua bán ngoài trời: >25%.
• Diện tích đường giao thông nội bộ và bãi xe: >25%.
• Diện tích cây xanh: ≥10%.
2.2. Tổng quan về rác thải sinh hoạt
2.2.1. Khái niệm
Theo Trần Kiên và Mai Sỹ Tuấn (2007), RTSH là chất thải do con người thải ra
sau khi sử dụng những sản phẩm trực tiếp từ thiên nhiên hoặc qua chế biến xử
lý của con người từ các khu dân cư và nó được xuất phát từ sinh hoạt hằng ngày
của con người.
Theo Nguyễn Văn An (2005), RTSH (hay chất thải rắn sinh hoạt) được định
nghĩa: là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được sinh ra từ mọi người và mọi nơi như:
gia đình, trường học, chợ, nơi mua bán, nơi công cộng, nơi vui chơi giải trí, cơ
sở y tế, cở sở sản xuất kinh doanh, bến xe, bến đò…
2.2.2. Phân loại
3
Theo Lê Văn Khoa (2000), RTSH được chia làm 2 loại chính: chất hữu cơ dễ bị
phân hủy và các chất còn lại tạm gọi là rác tái sinh bao gồm có chất thải rắn.
- Rác hữu cơ dễ bị phân hủy là các loại rác hữu cơ dễ bị thối rữa trong điều
kiện tự nhiên sinh ra mùi hôi thối như các loại thức ăn thừa, thức ăn hư
hỏng, vỏ trái cây, các chất thải tách ra do làm bếp.
- Rác tái sinh là rác khó phân hủy và có khả năng tái sử dụng như các chất
thải rắn, bọc nilon.

Theo Nguyễn Văn An (2005), RTSH được chia làm 3 loại:
- Rác khô (rác vô cơ): gồm các loại phế thải thủy tinh, sành sứ, kim loại, giấy,
cao su, nhựa, vải, đồ điện, đồ chơi, cát sỏi, vật liệu xây dựng…
- Rác ướt (rác hữu cơ): gồm cây cỏ loại bỏ, lá rụng, rau quả hư hỏng, đồ ăn
thừa, rác nhà bếp, xác súc vật và phân động vật.
- Chất thải nguy hại: là những phế thải rất độc hại cho môi trường và con
người như pin, bình ắc quy, hóa chất, thuốc trừ sâu, bom đạn, rác thải y tế
và rác thải điện tử.
2.2.3. Tác động của rác thải sinh hoạt
2.2.3.1. Ảnh hưởng đến môi trường không khí
Nguồn rác thải từ các hộ gia đình thường là các loại thực phẩm chiếm tỷ lệ cao
trong toàn bộ khối lượng rác thải ra. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và mưa nhiều ở
nước ta là điều kiện thuận lợi cho các thành phần hữu cơ phân hủy, thúc đẩy
nhanh quá trình lên men, thối rửa và tạo nên mùi khó chịu cho con người. Các
chất thải khí phát ra từ các quá trình này thường là H
2
S, NH
3
, CH
4
, SO
2
, CO
2
(Lê
Văn Khoa, 2010).
2.2.3.2. Ảnh hưởng đến môi trường nước
Theo thói quen, nhiều người thường đổ rác tại các bờ sông, hồ, ao, cống rãnh.
Lượng rác này sau khi bị phân hủy sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng nước
mặt, nước ngầm trong khu vực. Rác có thể bị cuốn trôi theo nước mưa xuống

ao, hồ, sông ngòi, kênh rạch, sẽ làm nguồn nước mặt bị nhiễm bẩn. Mặt khác,
lâu dần những đống rác này sẽ làm giảm diện tích ao hồ, giảm khả năng tự làm
sạch của nước gây cản trở các dòng chảy, tắc cống rãnh thoát nước. Hậu quả
của hiện tượng này là hệ sinh thái nước trong các ao hồ bị hủy diệt. Việc ô
nhiễm các nguồn nước mặt này cũng là một trong những nguyên nhân gây các
bệnh tiêu chảy, tả, lị trực khuẩn, thương hàn, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe
cộng đồng (Lê Văn Khoa, 2010).
2.2.3.3. Ảnh hưởng đến môi trường đất
4
Trong thành phần rác thải có chứa nhiều chất độc. Do đó, khi rác thải được đưa
vào môi trường thì các chất độc xâm nhập vào đất sẽ tiêu diệt nhiều loài sinh
vật có ích cho đất như: giun, vi sinh vật, nhiều loài động vật không xương sống,
làm cho môi trường đất bị giảm tính đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ
phá hoại cây trồng. Đặc biệt hiện nay việc sử dụng tràn lan các loại túi nilon
trong sinh hoạt và đời sống, khi xâm nhập vào đất, nilon cần tới 50 – 60 năm
mới phân hủy hết và do đó chúng tạo thành các “bức tường ngăn cách” trong
đất hạn chế mạnh quá trình phân hủy, tổng hợp các chất dinh dưỡng, làm cho
đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất cây trồng giảm sút (Lê Văn
Khoa, 2010).
2.2.3.4. Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
Trong thành phần RTSH, thông thường hàm lượng hữu cơ chiếm tỉ lệ lớn. Loại
rác này rất dễ bị phân hủy, lên men và bốc mùi hôi thối. Rác thải không được
thu gom, tồn tại trong không khí, lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe con
người sống xung quanh. Chẳng hạn, những người tiếp xúc thường xuyên với rác
như những người làm công việc thu nhặt các phế liệu từ bãi rác, dễ mắc các
bệnh như viêm phổi, sốt rét, các bệnh về mắt, tai, mũi, họng, ngoài da và phụ
khoa. Hàng năm, theo Tổ chức Y tế Thế giới, trên thế giới có 5 triệu người chết
và có gần 40 triệu trẻ em mắc các bệnh có liên quan đến rác thải, đặc biệt là
những xác động vật bị thối rửa, trong hơi thối có chất amin và các chất dẫn xuất
sunfua hydro hình thành từ sự phân hủy rác thải, kích thích sự hô hấp của con

người, kích thích nhịp tim đập nhanh gây ảnh hưởng xấu đến những người mắc
bệnh tim mạch. Ngoài ra, trong các bãi rác thường chứa nhiều loại vi trùng gây
bệnh thật sự phát huy tác dụng khi có các vật chủ trung gian gây bệnh tồn tại
trong bãi rác như chuột, ruồi, muỗi và nhiều loại ký sinh trùng gây bệnh cho
người và gia súc, một số bệnh điển hình do các trung gian truyền bệnh như:
chuột truyền bệnh dịch hạch, bệnh sốt vàng da do xoắn trùng, ruồi, gián truyền
bệnh đường tiêu hóa, muỗi truyền bệnh sốt rét, sốt xuất huyết (Lê Văn Khoa,
2010).
2.2.3.5. Ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị
Rác thải chưa qua xử lý được thải ra lưu vực sông ngày càng nhiều, kéo theo
việc gây ô nhiễm môi trường sông ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành du
lịch nói chung. Nhất là du lịch sông nước hiện đang chiếm 80% lượng khách
nước ngoài đến Việt Nam (Nguyễn Ngọc Thành, 2008). Hiện nay, tình trạng
vứt rác bừa bãi trên đường phố, công viên, những nơi công cộng nhất là tại các
khu vực chợ đã làm mất đi vẻ đẹp của cảnh quan đô thị. Đây là vấn đề xuất phát
từ ý thức mỗi người.
5
2.2.4. Một số biện pháp quản lý và xử lý rác thải hiện nay
2.2.4.1. Nhà máy xử lý rác thải
Theo Nguyễn Thương (2007), nhà máy xử lý RTSH công suất 400 tấn.ngày
-1
chính thức đi vào hoạt động tại khu phố 3, phường Trảng Dài, thành phố Biên
Hoà. Ưu điểm của dây chuyền công nghệ này là có thể xử lý rác tươi trực tiếp
mà không qua phân loại và chôn lấp. Rác được xử lý theo quy trình công nghiệp
hoàn toàn có thể kiểm soát mức độ thổi khí, nhiệt độ, độ ẩm nên khả năng phân
giải của vi sinh vật ổn định, nhanh chóng. Ngoài ra do trực tiếp nhập rác từ xe
ép rác thu gom từ trong dàn vào thẳng hệ thống xử lý rác của nhà máy nên hạn
chế được nước rỉ từ bãi rác xuống tầng nước ngầm, thu hồi các thành phần hữu
cơ trong rác tái chế thành phân hữu cơ vi sinh (compost), giảm thiểu tối đa chất
thải rắn phần chôn lấp và thu hồi các thành phần vô cơ có trong rác. Đặc biệt

công nghệ này có thể tái chế nilon, nhựa, kim loại, thủy
tinh… Do vận hành khép kín nên giải quyết được vấn đề mùi hôi và rác thải,
đồng thời giảm thiểu nước rỉ rác, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí và ô
nhiễm nguồn nước. RTSH sau khi xử lý sẽ cho ra loại rác sạch không có vi sinh
vật gây bệnh, thân thiện với môi trường và có thể dùng làm phân bón vi sinh
hữu cơ để cải tạo đất nông nghiệp. Dự tính trong 3 tháng đầu nhà máy sẽ hoạt
động với công suất 300 tấn rác tươi mỗi ngày. Với công suất này thì toàn bộ
nguồn RTSH tại thành phố Biên Hoà sẽ được thu gom về bải rác và đưa vào
nhà máy để xử lý.
2.2.4.2. Sử dụng chế phẩm E.M
Theo Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ An Giang (2005),
Chế phẩm sinh học E.M (Effective Microorganisms) có nghĩa là vi sinh vật hữu
hiệu do Giáo sư Tiến sĩ Teruo Higa người Nhật phát minh vào năm 1980. Vi
sinh vật hữu hiệu gồm có 5 nhóm cơ bản. Nhóm vi khuẩn quang hợp
(Rodopseudomonas), nhóm vi khuẩn Lactobacillus, nhóm nấm men
(Saccharomyces), nhóm nấm sợi (Aspergillus & Penicillium). Vai trò thể hiện
rõ nhất ở “khả năng tiêu thụ” các chất hữu cơ có trong môi trường. Hiện nay
chế phẩm sinh học E.M được ứng dụng rộng rãi ở các tỉnh ĐBSCL, việc sử
dụng chế phẩm này rất có hiệu quả trong việc cải tạo môi trường nước (làm
trong sạch, khử mùi hôi của nước); tăng sức đề kháng cho vật nuôi và cây trồng,
đồng thời góp phần cải thiện môi trường khử mùi hôi chuồng trại, thải rác sinh
hoạt... Do nhóm vi sinh vật hữu hiệu E.M sống cộng sinh trong cùng một môi
trường tạo ra một môi trường sinh thái đồng nhất, sản sinh ra nhiều sản phẩm
khác nhau, hỗ trợ lẫn nhau cùng sinh trưởng và phát triển nên hiệu quả của hoạt
động tổng hợp của chế phẩm E.M tăng lên rất nhiều như:
6
- Hiệu quả sử dụng chế phẩm sinh học E.M vào trong chăn nuôi: E.M ngăn
chặn mùi hôi trong chuồng trại; làm giảm quầng thể ruồi và côn trùng có hại
khác; tăng chất lượng các sản phẩm của động vật; làm giảm nhu cầu sử
dụng thuốc thú y, kháng sinh trong chăn nuôi.

- Hiệu quả trong xử lý nước ao nuôi thủy sản: E.M làm gia tăng hàm lượng
oxy hòa tan, ổn định mức dao động pH; làm giảm khối lượng bùn tạo ra
trong ao nuôi; hạn chế các loại khí sản sinh ra trong ao nuôi (NH
3
, H
2
S, CH
4
,
NO
2
…); làm giảm mức sử dụng thuốc thú y, kháng sinh; cải thiện môi
trường ao nuôi.
- Sử dụng vào xử lý mùi hôi RTSH (hộ gia đình 5 người): trung bình lượng
RTSH (hộ 5 người), sau khi phân loại đã tách loại bỏ riêng kim loại, bọc
nilon, miễng sành, nhựa... chỉ còn rác thải từ thực vật, động vật, giấy vụn,
rơm rạ, phân chuồng, rác độn chuồng, vỏ trái cây... Theo tính toán lượng
RTSH trung bình hộ gia đình có từ: 5 người thì lượng rác thải ra trung bình
mỗi ngày từ 1,5 – 2kg rác. Rác thải sau 5 ngày.10kg
-1
rác thải. Vậy lượng
E.M cần dùng để xử lý: Pha 0,6 – 1ml E.M.100ml
-1
nước tưới trên hố rác.
Nếu sử dụng liên tục trong 30 ngày tương đương khoảng 60kg rác thải cần
lượng 6ml E.M.60ml
-1
nước tưới trên hố rác. Nếu sử dụng trong thời gian 60
ngày tương đương khoảng 120kg rác thải cần lượng 12ml E.M.120ml
-1

nước
tưới trên hố rác. Nếu sử dụng trong thời gian 90 ngày tương đương khoảng
180kg rác thải cần lượng 20ml E.M.2000ml
-1
nước tưới trên hố rác.
- Sử dụng vào xử lý mùi hôi và ủ RTSH thành phần hữu cơ: (cụm dân cư từ 5
– 10 hộ gia đình): Cụm dân cư có 5 – 10 hộ gia đình có khoảng từ 25 – 60
người tương đương lượng rác thải từ 50 – 120kg.ngày
-1
. Rác thải sau khi đã
tiến hành phân loại, sau đó tập trung cho vào hố chứa rác cứ một lớp khoảng
30cm tưới lên một lớp dung dịch E.M pha (tỷ lệ 1:100). Rác mới ngày nào
phun ngày đó. Sau đó dùng bao nilon hoặc tấm bạc đậy lên bề mặt hố rác để
tạo điều kiện kỵ khí. Nếu lượng RTSH mỗi ngày khoảng 50kg rác thì lượng
E.M cần dùng 5ml E.M pha với 500ml nước, sau đó tưới đều lên mặt rác.
Nếu sử dụng liên tục trong thời gian 30 ngày tương đương lượng rác thải ở 5
– 10 hộ gia đình có khoảng 1.500 – 3.600kg rác thì lượng E.M cần dùng từ
150 – 360ml pha với 15.000 – 36.000ml nước tưới đều lên mặt rác. Rác mới
ngày nào phun ngày đó.
2.2.4.3. Công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt Seraphin
7
Theo Lê Thanh Hiếu (2010), Công nghệ xử lý RTSH Seraphin là công nghệ do
Công ty Công nghệ Môi trường xanh Seraphin nghiên cứu phát triển từ năm
2002, được Cục Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam cấp bằng độc quyền sáng chế số
4631. Công nghệ Saraphin đã được đầu tư áp dụng tại thị xã Sơn Tây (tỉnh Hà
Tây cũ). Công nghệ Seraphin là sự kết hợp của đa hợp phần công nghệ bao
gồm: phân loại rác thải, xử lý cơ học – sinh học – nhiệt và tái chế các vật liệu
khác nhau, nhằm đạt được hiệu quả xử lý và thu hồi cao nhất từ chất thải, giảm
thiểu tối đa các phần chất thải phải chôn lấp. Nhà máy xử lý RTSH đô thị theo
công nghệ Seraphin gồm 5 hợp phần công nghệ: chất thải rắn đô thị được phân

loại và xử lý sơ bộ bằng các phương pháp thủ công và cơ học thành 4 loại
chính, phù hợp với các quá trình công nghệ tiếp theo:
- Hợp phần công nghệ ủ phân compost: xử lý rác thải hữu cơ dễ phân hủy
- Hợp phần công nghệ đốt thu hồi nhiệt: xử lý hỗn hợp hữu cơ khó phân hủy
- Hợp phần công nghệ tái chế nhựa: xử lý phế thải dẻo
- Hợp phần công nghệ đóng rắn sản xuất vật liệu xây dựng: xử lý hỗn hợp vô
cơ trơ
Tuy nhiên, qua 4 năm thực hiện (2005 – 2009) hợp phần xử lý rác bằng công
nghệ vi sinh và tái chế nhựa đã phát sinh nhiều điểm hạn chế như: giá bán phân
compost, nhựa tái sinh quá thấp, thành phần rác đầu vào có sự thay đổi so với
thời điểm khảo sát năm 2004 làm hạn chế khả năng xử lý của nhà máy. Vì vậy,
tháng 02/2010 thành phố Hà Nội đã chấp thuận cho Công ty Cổ phần Công
nghệ Môi trường Seraphin được chuyển đổi công nghệ tại khu xử lý rác Sơn
Tây từ công nghệ xử lý rác tái chế nhựa và sản xuất compost sang công nghệ
đối với công suất 300 tấn.ngày
-1
.
2.2.4.4. Quản lý rác thải theo phương thức 3R
Theo Đoàn Thị Uyên Trinh và Nguyễn Văn Quán (2010), trong quản lý và xử lý
chất thải rắn hiện nay, vấn đề được quan tâm nhất là phương thức quản lý đồng
bộ chất thải rắn 3R (Reduce – Giảm thiểu, Reuse – Tái sử dụng, Recycle – Tái
chế) để giảm thiểu lượng chất thải rắn phải chôn lấp.
Phương thức 3R được coi là giải pháp để ngăn ngừa các vấn đề suy thoái môi
trường, tiết kiệm nguồn tài nguyên, tiết kiệm chi phí thu gom và xử lý rác thải,
giảm thiểu quỹ đất cần cho chôn lấp.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện 3R ở Việt Nam vẫn tồn tại một số khó
khăn như sau:
- Reduce – Giảm thiểu: giảm thiểu là công việc khó khăn nhất vì lý do công
nghệ, tổ chức sản xuất và nhân lực… còn chưa phù hợp, việc giảm thiểu
8

chất thải trong các hoạt động sản xuất, dịch vụ, tiêu dùng đến nay vẫn chưa
được chú trọng.
- Reuse – Tái sử dụng: mới bắt đầu áp dụng, đang tiếp tục nghiên cứu để định
ra hướng đi có hiệu quả.
- Recycle – Tái chế: còn mang tính tự phát, chưa có định hướng. Hoạt động
tái chế hiện nay vẫn chưa xem chất thải rắn là nguồn nguyên liệu nên thiếu
cách tiếp cận đúng mực. Hơn nữa, vấn đề môi trường trong quá trình tái chế,
sản phẩm của tái chế như thế nào trong quan hệ với tài nguyên, môi trường
cũng chưa được nghiên cứu.
Đối với vần đề chất thải nói chung trong quá trình sản xuất thì định luật Bảo
toàn vật chất của Newton hoàn toàn đúng, tất cả nguyên vật liệu tham gia vào
quá trình sản xuất cuối cùng đều thải vào môi trường, khác nhau ở chỗ thời gian
thải vào đó nhanh hay chậm, như các phế phẩm của sản xuất, nước thải, khí
thải, chất thải rắn. Chất thải được thải vào môi trường ngay trong quá trình sản
xuất, còn sản phẩm cuối cùng sẽ được thải vào môi trường sau khi đã qua sử
dụng, mặc dù có tái sử dụng, tái chế như thế nào đi nữa thì cuối cùng chúng
cũng đi vào môi trường và trở thành rác thải. Đôi khi chính việc tái chế có thể
làm tăng thêm độc tính của sản phẩm hay tạo ra các chất ô nhiễm môi trường
hơn thông qua việc tái chế tự do, không có khoa học. Do đó việc giảm thiểu và
phân loại chất thải rắn ở đây cần được quan tâm nhiều hơn, nhìn nhận trong
phạm vi rộng hơn, không chỉ là kêu gọi mọi người giảm thiểu, tái chế, tái sử
dụng mà còn phải đưa ra chiến lược giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng, sau đó
đạt được mục đích cuối cùng là giảm việc phát thải và xả thải vào môi trường,
hạn chế gây ô nhiễm môi trường từ chất phải rắn.
9
Chương 3
Phương pháp nghiên cứu
3.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành thị xã Tân Châu
Năm 1837 Tân Châu là một trong những đô thị lớn vùng Đồng bằng sông Cửu

Long (ĐBSCL), là cầu nối quan trọng với Campuchia do có cửa khẩu quốc tế.
Năm 1870 Tân Châu là trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng cù lao biên giới.
Nhưng An Giang phát triển chủ yếu ở thành phố Long Xuyên và thị xã Châu
Đốc, còn các vùng khác chiếm 75% diện tích và 74% dân số thì không có một
vùng nào có quy mô đáp ứng nhu cầu phát triển KTXH của tỉnh (Bùi Thụy Đào
Nguyên, 2010).
Ngày 22/05/2007 Thủ tướng có Quyết định số 71/2007/QĐ-TTg về việc phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh An Giang đến năm 2020, nhằm
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, xây dựng An Giang
thành địa bàn kinh tế mở, đầu mối thông thương giữa các tỉnh khu vực ĐBSCL
với Campuchia và các nước Châu Á khác. Tăng cường, chủ động hội nhập và
tích cực khai thác tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế
gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường. Kết hợp tốt giữa công nghiệp hoá
nông nghiệp – hiện đại hoá nông thôn với mở rộng và xây dựng mới các khu đô
thị và các vùng kinh tế trọng điểm, có công nghiệp và dịch vụ phát triển năng
động. Đến cuối năm 2007, Tân Châu được công nhận là đô thị loại IV, theo đó
Chính phủ định hướng nhằm đưa khu vực Tân Châu – Vĩnh Xương trở thành
đầu tàu kinh tế, lôi kéo các vùng khác phát triển, đưa Tân Châu trở thành trung
tâm kinh tế văn hóa của vùng biên giới phía Bắc tỉnh An Giang (Nguyễn Tấn
Dũng, 2007).
Do có vai trò vị trí chiến lược quan trọng và đã có bước phát triển KTXH ổn
định nên Tân Châu được công nhận là thị xã vào tháng 08/2009 nhằm khai thác
những tiềm năng lợi thế để thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển trong giai
đoạn mới, thị xã Tân Châu cùng với thị xã Châu Đốc và thành phố Long Xuyên
trở thành tam giác tăng trưởng của tỉnh An Giang.
10
Hình 1: Vùng tam giác tăng trưởng tỉnh An Giang
Nguồn: Đề án UBND tỉnh An Giang, 2008
3.1.2. Vị trí địa lý
Tân Châu là một thị xã nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh An Giang, thuộc phạm vi

từ 10
o
47

53
’’
đến 10
o
55

33
’’
vĩ độ Bắc và từ 105
o
07

25
’’
đến 105
o
14

45
’’
kinh độ
Nam, là điểm đầu nguồn của sông Tiền khi chảy vào Việt Nam. Thị xã Tân
Châu gồm có 5 phường (Long Châu, Long Hưng, Long Phú, Long Thạnh, Long
Sơn) và 9 xã (Phú Lộc, Vĩnh Xương, Vĩnh Hòa, Tân Thạnh, Tân An, Long An,
Châu Phong, Lê Chánh, Phú Vĩnh).
Vị trí tiếp giáp:

- Phía Bắc giáp quận Lecdec, tỉnh Kandal (Campuchia)
- Phía Nam giáp huyện Phú Tân
- Phía Đông giáp thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
- Phía Tây giáp thị xã Châu Đốc và huyện An Phú
Với điều kiện như thế, Tân Châu càng phát huy được thế mạnh của vùng, thuận
lợi cho việc giao thương hàng hóa với các khu vực xung quanh, đặc biệt là với
Campuchia và các nước Châu Á khác, đồng thời phát triển mạnh lợi thế của
mình là dịch vụ và du lịch góp phần thúc đẩy KTXH của tỉnh.
11
Tân Châu
Hình 2: Bản đồ hành chính thị xã Tân Châu
Nguồn: Đề án UBND tỉnh An Giang, 2008
3.1.3. Điều kiện tự nhiên
Thị xã Tân Châu mang đặc trưng khí hậu vùng ĐBSCL, mỗi năm chia làm 2
mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 dương lịch, mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 10 dương lịch (Võ Thị Hồng Ngọc, 2010).
Nhiệt độ trung bình năm 2009 là 27,5
o
C, tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất
là tháng 4 (28,9
o
C) và tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là tháng 1
(24,6
o
C). Và độ ẩm trung bình là 81,7%, tháng có độ ẩm trung bình cao nhất là
12
Vùng
nghiên cứu
tháng 5 (85%), tháng có độ ẩm trung bình thấp nhất là tháng 1 (78%) (Phòng
Thống kê thị xã Tân Châu, 2009).

Nhìn chung khí hậu của vùng tương đối thuận lợi cho hoạt động du lịch. Đây là
khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới ẩm, đồng thời số lượng kênh
rạch tương đối nhiều và phân bố chằng chịt cũng là nguồn cung cấp ẩm cho khí
hậu. Một đặc điểm khác khá thuận lợi đối với việc phát triển du lịch là ít chịu
ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như giông, bão... Bên cạnh
đó, độ ẩm cao gây ra những khó khăn trong công tác xử lý rác thải tại địa
phương, làm giảm hiệu quả phương pháp đốt rác, đồng thời đây cũng là điều
kiện thuận lợi để nhiều vi sinh vật phát triển, đa số là các vi sinh vật có hại cho
con người, cây trồng và vật nuôi.
3.1.4. Kinh tế, văn hóa và xã hội
Theo Phòng Thống kê thị xã Tân Châu (2009), toàn thị xã có 43.358 hộ với
171.305 nhân khẩu, mật độ dân số 970 người.km
-2
, trong đó dân tộc thiểu số có
5.613 người chiếm 3,71% tổng dân số toàn thị xã, có 1.661 hộ nghèo chiếm
3,83% tổng số hộ. Trong đó số người trong độ tuổi lao động là 109.969 người,
chiếm khoảng 64,2% tổng dân số. Do vậy, thị xã Tân Châu là vùng có mật độ
dân số khá cao so với các huyện khác trong tỉnh An Giang, việc tập trung khá
đông dân cư như vậy dễ gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng sức
khỏe cộng đồng, gây khó khăn cho đội ngũ y tế ở địa phương.
Về thành phần dân tộc thị xã Tân Châu gồm có các thành phần dân tộc: dân tộc
Kinh chiếm hơn 96,7%, dân tộc Chăm (tập trung chủ yếu ở xã Châu Phong)
chiếm hơn 2,7% dân số, còn lại là các dân tộc khác như: Khmer, Hoa.
Bên cạnh đó, thị xã Tân Châu đa dạng về tôn giáo, phần lớn là Đạo Phật, Phật
Giáo Hòa Hảo, đặc biệt có Đạo Hồi của người dân tộc Chăm (thị xã Tân Châu
là vùng có dân tộc Chăm tập trung đông nhất ĐBSCL). Văn hóa mang đậm bản
sắc dân tộc thu hút nhiều khách du lịch bao gồm du khách trong nước và ngoài
nước đến tham quan và thưởng thức những món ăn độc đáo của vùng.
Về mặt kinh tế, thị xã Tân Châu có nhiều đề án phát triển KTXH nhưng trọng
điểm là đề án phát triển TM – DV và Du lịch giai đoạn 2008 – 2015 với mục

đích xây dựng một nền TM – DV và Du lịch tại địa phương phát triển vững
mạnh và hiện đại, coi trọng phát triển các doanh nghiệp nhỏ, các hộ kinh doanh,
khuyến khích và thúc đẩy quá trình hình thành các doanh nghiệp lớn. Phát huy
vai trò và vị trí của Thương mại, các loại hình Dịch vụ và Du lịch tại địa
phương trong việc định hướng và thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tề và tăng trưởng kinh tế. Đề án dựa vào các thế mạnh: tỷ
trọng TM – DV chiếm trên 50% qua các năm, du lịch với nhiều điểm thu hút
13
khách đến tham quan du lịch như khu du lịch văn hóa Núi Nổi, du lịch trên
sông, các công trình tôn giáo đặt trưng như: chùa Thiên Hoa, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Thánh Thất Cao Đài, Thánh Đường Hồi Giáo, tham gia các lễ hội văn
hóa của dân tộc Chăm (Nguyễn Văn Lên, 2008). Do vậy, thị xã Tân Châu được
xem là một trong bảy địa bàn du lịch trọng điểm của tỉnh An Giang với lợi thế
vùng sông nước, tính đa dân tộc, đó là nền móng vững chắc và tốt đẹp cho sự
phát triển của tỉnh An Giang trong những năm thực hiện đề án xây dựng nông
thôn mới.
3.1.5. Môi trường
Toàn địa bàn có 221 cơ sở sản xuất kinh doanh có liên quan đến môi trường bao
gồm: cơ sở sản xuất nước đá, xay xát lúa gạo, kinh doanh vật tư nông nghiệp,
thuốc bảo vệ thực vật, mua bán phế liệu và sản xuất khô cá tra phồng, trong đó
có 91 cơ sở đã đăng ký cam kết bảo vệ môi trường, các cơ sở còn lại không
đăng ký do quy mô sản xuất nhỏ. Do Tân Châu có thế mạnh trong lĩnh vực xay
xát (chủ yếu ở xã Long An và Tân An) nên vào vụ lúa nhiều nhất là vụ Đông
xuân và vụ ba giá lúa tăng cao nên các nhà máy đã hoạt động hết công suất,
lượng trấu thải ra nhiều quá mức không có kho chứa nên đã thải xuống sông
gây ô nhiễm môi trường (Trần Thị Thu Hiền, 2010).
Về nước thải: khu vực trung tâm thị xã có 17.393m cống thoát nước và nguồn
tiếp nhận nước thải là ao lắng có trồng lục bình với diện tích 6.000m
2
trên địa

bàn khóm Long Thị D, phường Long Thạnh (Trần Thị Thu Hiền, 2010). Các
chợ xã thì chỉ có cống dẫn nước và chất thải được thải ra kênh nội đồng gây ảnh
hưởng đến nguồn lợi thủy sản tự nhiên và góp phần ảnh hưởng đến sản xuất
nông nghiệp ở địa phương.
Về rác thải: toàn thị xã chỉ có một bãi chứa rác thải được thành lập năm 1995
với diện tích 6.800m
2
, chủ yếu thu gom rác cho các khu vực trung tâm thị xã, xã
Lê Chánh, xã Phú Vĩnh, một phần xã Châu Phong và khu vực chợ xã Long An.
Các xã còn lại vẫn chưa có khu xử lý rác thải nên người dân tự quản lý rác thải,
do vậy công tác bảo vệ môi trường của thị xã gặp nhiều khó khăn.
Nhìn chung, hiện trạng ô nhiễm môi trường tại nội ô thị xã được đảm bảo, chỉ
có các khu vực nông thôn thì chưa đảm bảo, do ý thức của người dân và chính
quyền địa phương chưa quan tâm đến việc quản lý rác thải từ các hoạt động sản
xuất kinh doanh trên địa bàn.
14

×