Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tình hình chuyển giao công nghệ qua các dự án nước ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.66 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................3
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ......1
1.1. Công nghệ..................................................................................................1
1.1.1. Khái niệm và nội dung công nghệ................................................1
1.1.2. Phân loại công nghệ......................................................................3
1.2. Chuyển giao công nghệ............................................................................7
1.2.1.Khái niệm và đối tượng chuyển giao công nghệ..........................7
1.2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ.........................................8
1.2.3. Cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ. ..........................10
1.2.4. Vai trò của chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư nước
ngoài.......................................................................................................11
1.3. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở một số nước...........................13
1.3.1.Những thuận lợi và khó khăn trong CGCN ở các nước đang phát
triển.........................................................................................................13
1.3.2. Kinh nghiệm CGCN của một số nước.......................................15
Chương 2:
THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.........................................20
2.1. Tình hình tổng quát kinh tế- xã hội Việt Nam và trình độ công nghệ
tại Việt Nam...................................................................................................20
2.1.1.Tình hình kinh tế- xã hội tổng quát............................................20
2.1.2. Trình độ khoa học công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam.22
2.1.3. Quản lý nhà nước về hoạt động chuyển giao công nghệ..........24
2.2. Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
nước ngoài tại VN thời gian qua..................................................................25

2.2.1. Đặc điểm chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.................................................................................26


2.2.2. Đánh giá chung............................................................................27
2.3. Đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ thời gian vừa qua..........30
2.3.1. Những kết quả đạt được.............................................................30
2.3.2. Những mặt còn tồn tại........................................................................36
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ CGCN QUA CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VN.......................................................44
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả CGCN ở Việt Nam.......................44
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả CGCN qua các dự án đầu tư
nước ngoài......................................................................................................45
3.3. Một số kiến nghị.....................................................................................47
KẾT LUẬN:..........................................................................................52
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................53

LỜI MỞ ĐẦU
Chuyển giao công nghệ là một khái niệm mới xuất hiện trong mấy thập
niên gần đây, nhưng đã nhanh chóng trở thành vấn đề thời sự, được nhiều người
quan tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế toàn cầu, đặc biệt
đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt
Nam. Việc tiếp thu kinh nghiệm chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước
ngoài cũng như tìm ra giải pháp để ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu
trong nước vào cuộc sống là khâu then chốt đảm bảo phát triển nhanh và bền
vững.
Thực tế cho thấy thành công trong lĩnh vực kinh tế những năm qua của Việt
Nam thì hoạt động phát triển khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ
đóng vai trò quyết định. Điều đó không những làm cho nền kinh tế VN tăng
trưởng nhanh mà còn tăng khả năng cạnh tranh trên cả ba cấp độ: sản phẩm và
dịch vụ, doanh nghiệp và quốc gia.
Hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các hình
thức chủ yếu là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, chuyển

giao công nghệ trong nước và chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước
ngoài, trong đó chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt nam thông qua
các dự án FDI chiếm tỷ trọng lớn, đã và đang tạo hiệu ứng tích cực cho sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế, cũng như tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ
cho đất nước. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Tình hình chuyển giao công
nghệ qua các dự án nước ngoài ở Việt Nam” để nghiên cứu nhằm đánh giá một
cách chung nhất những hiệu quả nó tạo ra cũng như những hạn chế còn tồn tại,
từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
chuyển giao công nghệ qua các dự án nước ngoài .

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG
NGHỆ
1.1. Công nghệ.
1.1.1. Khái niệm và nội dung công nghệ.
1.1.1.1 Khái niệm:
Có thể nói công nghệ xuất hiện đồng thời với sự hình thành xã hội loài người.
Từ “công nghệ- technology” xuất phát từ chữ Hi Lạp là techne và logos, techne
có nghĩa là phương pháp cần thiết để làm ra một vật nào đó, còn logos có nghĩa
là sự hiểu biết về một vật nào đó. Như vậy technology được hiểu là sự hiểu
biết(hay kiến thức) về một phương pháp cần thiết để làm ra một vật(sản phẩm).
Cho đến nay , người ta vẫn chưa đi đến một khái niệm thống nhất về công nghệ.
Đó là do số lượng các công nghệ hiện có nhiều đến mức không thể thống kê
được, công nghệ lại hết sức đa dạng, khiến những người sử dụng một công nghệ
cụ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh không giống nhau sẽ dẫn đến sự khái
quát của họ về công nghệ sẽ khác nhau. Các tổ chức quốc tế về khoa học – công
nghệ đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra một định nghĩa công nghệ có thể
dung hòa các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hòa nhập
của các quốc gia trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Trong đó có bốn
khía cạnh cần bao quát trong định nghĩa công nghệ: Đó là “công nghệ là máy

biến đổi”; “ công nghệ là một công cụ”; “ công cụ là kiến thức”; “ công nghệ
hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”.
- UNIDO (United Nations Industrial Development organization) định nghĩa
công nghệ “ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các
kết quả nghiên cứu và xử lý chúng một cách có hệ thống và phương pháp”.
- ESCAP: Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương( Economic
And Social Commision For Asia and the Pacific) : “ Công nghệ là một hệ thống
kiến thức về qui trình và kĩ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin” và mở

1
rộng ra “ nó bao gồm tất cả các kĩ năng , kiến thức, thiết bị và phương pháp sử
dụng trong sản xuất chế tạo dịch vụ, quản lý, thông tin”
- Luật Chuyển giao công nghệ Việt Nam 2006: “ công nghệ là giải pháp, qui
trình, bí quyết kĩ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để
biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.”
Công nghệ là sản phẩm của những khả năng về kĩ thuật và tổ chức khi những
yếu tố đó quyết định phương thức chuyển các nguồn lực vô hình và hữu hình
thành các hàng hóa và dịch vụ trung gian hay cuối cùng. Theo nghĩa hẹp hơn thì
công nghệ là đầu ra của các hoạt động nghiên cứu và phát triển và hàm kĩ thuật
sản xuất của một doanh nghiệp. Dù được định nghĩa như thế nào thì công nghệ
cũng giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng của các yếu tố
sản xuất và đó là yếu tố quyết định sự tăng trưởng của các nền kinh tế.
1.1.1.2. Nội dung công nghệ.
Bất cứ một công nghệ nào, từ đơn giản đến phức tạp đều bao gồm bốn
thành phần: trang thiết bị(Technoware – T), kĩ năng của con người(Humanware
– H), thông tin(inforware – I), tổ chức(Organware – O) có mối liên hệ chặt chẽ,
tác động qua lại với nhau. Điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau:
Các yếu tố cấu thành công nghệ:
*Phần cứng: Bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ, kết cấu nhà xưởng...
Phần cứng tăng năng lực cơ bắp và trí lực con người.


2
Tổ chức
Con người
Trang thiết bị Thông tin
*Phần mềm: Bao gồm.
+ Phần con người: Là đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, kĩ năng, kĩ xảo, kinh
nghiệm sản xuất, khả năng lãnh đạo, tính gia truyền,tính sáng tạo, khả năng phối
hợp… làm việc có trách nhiệm và năng suất cao. Phần này biểu thị năng lực của
con người, tạo ra sự vận hành và duy trì hoạt động của mọi phương tiện. Một
trang thiết bị hoàn hảo nhưng nếu thiếu con người có trình độ chuyên môn tốt và
kỉ luật lao động cao sẽ trở nên vô tích sự.
+ Phần thông tin: Bao gồm các dữ liệu, chỉ dẫn kĩ thuật, mô tả sáng chế,
thuyết minh, dự án, điều hành sản xuất, các bí quyết kĩ thuật(know-how).Đây là
phần rất quan trọng quyết định sự thành công của chuyển giao công nghệ bới nó
biểu thị những vấn đề đã được tư liệu hóa, tồn trữ các tri thức đã được tích lũy
để rút ngắn thời gian hoạt động của con người.
+ Phần tổ chức: Bao gồm những liên hệ, bố trí, sắp xếp đào tạo đội ngũ cán
bộ cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo mạng lưới, lập kế hoạch,
kiểm tra, điều hành. ..Phần này biểu thị mọi khung tổ chức để cho việc hoạch
định chiến lược, tổ chức thực hiện, động viên thúc đẩy, kiểm soát các hoạt động.
+ Phần thị trường đầu ra : nghiên cứu thị trường đầu ra là nhiệm vụ quan
trọng và cũng nằm trong phần mềm của hoạt động chuyển giao công nghệ.
1.1.2. Phân loại công nghệ.
Theo tính chất.
Công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ,công nghệ thông tin, công nghệ
đào tạo- giáo dục.
Theo ISO 8004.2, Dịch vụ có bốn loại:
-Tài chính, ngân hàng , dịch vụ, tư vấn.
-Tam quan, du lịch, vận chuyển.

-Tư liệu thông tin.
-Huấn luyện, đào tạo.
Theo nghành nghề:
Có các loại công nghệ công nghiệp;nông nghiệp, công nghệ sản xuất hàng
tiêu dùng, công nghệ vật liệu.

3
Theo sản phẩm: tuỳ thuộc loại sản phẩm có các loại công nghệ tương ứng
như công nghệ thép công nghệ xi măng công nghệ ô tô...
Theo đặc tính công nghệ: công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng loạt, công
nghệ liên tục,
Trong phạm vi quản lý công nghệ, một số loại công nghệ được đề cập như
dưới đây:
Theo trình độ công nghệ (căn cứ mức độ phức tạp, hiện đại của các thành
phần công nghệ ) có các công nghệ truyền thông, công nghệ tiên tiến , công
nghệ trung gian.
Các công nghệ truyền thống thường là thủ công, có tính độc đáo, độ tinh
sảo cao, song năng suất không cao và không đồng đều. các công nghệ truyền
thống có ba đặc trưng cơ bản: tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền.
Các công nghệ tiên tiến là thành quả khoa học hiện đại, nhưng công nghệ
này có năng suất cao, chất lượng tốt và đồng đều, giá thành sản phẩm của chúng
hạ.
Công nghệ trung gian nằm giữa công nghệ truyền thống và công nghệ tiên
tiến xét về trình độ công nghệ
Theo mục tiêu phát triển công nghệ :có công nghệ phát triển, công nghệ
dẫn dắt, công nghệ thúc đẩy.
Các công nghệ phát triển bao gồm các công nghệ bảo đảm. cung cấp các
nhu cầu thiết yếu cho xã hội như ăn, ở, mặc, đi lại.
Các công nghệ thúc đẩy bao gồm các công nghệ tạo lên sự tăng trưởng
kinh tế trong quốc gia.

Các công nghệ dẫn dắt là các công nghệ có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới
Theo góc độ môi trường có công nghệ ô nhiễm và công nghệ sạch
Công nghệ sạch là công nghệ mà quá trình sản xuât tuân theo điều kiện
giảm ảnh hưởng đến môi trường, sử dụng các nguồn nguyên liệu thô và năng
lượng hợp lý

4
Theo đặc thù của công nghệ có thể chia thành hai loại: công nghệ cúng và
công nghệ mềm. cách phân loại này xuất phát từ quan niệm công nghệ gồm bốn
thành phần trong đó kĩ thuật là phần cứng còn ba yếu tó còn lại là phần mềm.
một công nghệ mà phần cứng của nó được đánh giá là vai trò chủ yếu thì công
nghệ đó được coi là công nghệ phần cứng và ngược lại. cũng có quan niệm coi
công nghệ cứng là công nghệ khó thay đổi;còn công nghệ mềm là công nghệ có
chu trình sống ngắn phát triển nhanh
Theo đầu ra của công nghệ, có công nghệ sản phẩm và công nghệ quá
trình:công nghệ sản phẩm liên quan thiết kế sản phẩm(thường bao gồm các phần
mềm) và việc sử dụng, bảo dưỡng sản phẩm (thường bao gồm các phần mềm sử
dụng sản phẩm); trong khi công nghệ quá trình để chế tạo ra sản phẩm đã được
thiết kế (liên quan tới bốn thành phần công nghệ ).
1.1.3. Công nghệ thích hợp.
Trong giai đoạn những năm 50 đến 70 của thế kỉ XX, các nước CNH đã có
những bước tăng trưởng kinh tế rất lớn và hàng loạt công nghệ mới ra đời. Tuy
nhiên cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1972- 1973 đã làm cho các nước này nhận ra
rằng chính những ngành công nghiệp lớn của họ là nguy cơ đe dọa sự tồn tại của
họ. Bên cạnh đó các nước đang phát triển cũng nhận thấy rằng không thể tiếp
tục khai thác nguồn tài nguyên hạn chế của nước mình một cách tùy tiện được
nữa. Điều đó cho thấy không phải bất cứ công nghệ mới nào cũng tốt và vấn đề
lựa chọn công nghệ thích hợp được đặt ra đối với tất cả các quốc gia.
Công nghệ thích hợp là những công nghệ phù hợp với khả năng và trình độ

phát triển của quốc gia trong một thời kì nhất định, tạo điều kiện khai thác tối đa
những lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước và đưa lại hiệu quả kinh tế – xã
hội cao.
Như vậy, một công nghệ thích hợp phải thoả mãn 3 tiêu chuẩn sau:
- Có hiệu quả kinh tế
- Có hiệu quả xã hội
- Có tính thích dụng với trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong
từng thời kì.

5
Đặc biệt, một công nghệ được coi là thích hợp đối với những nước đang
phát triển phải đáp ứng được các điều kiện sau:
- Sản phẩm công nghệ phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của một số đông dân
cư , đặc biệt là dân nông thôn.
- Thu hút nhiều lao động , trong đó có lao động nữ.
- Có chi phí sản xuất thấp và kĩ thuật không quá cao.
- Sử dụng tiết kiệm năng lượng và các nguồn tài nguyên không phục hồi
được.
- Sử dụng nhiều nguyên vật liệu và dịch vụ trong nước .
- Cung cấp các phương tiện phù hợp với sản xuất vừa và nhỏ .
- Bảo tồn và duy trì các ngành nghề truyền thống và tạo thêm ngành mới.
- Có thể thực hiện lan tỏa rộng rãi và làm giảm sự chênh lệch mức độ phát
triển giữa các vùng lãnh thổ .
- Phù hợp với nền văn hóa , chính trị xã hội, không gây xáo trộn đối với
văn hóa xã hội.
-Tạo một sự tăng trưởng kinh tế cho một số đông dân cư.
- Tạo điều kiện tiền đề để tăng cướng xuất khẩu, phân công hợp tác quốc tế,
nâng cao tiềm lực công nghệ của quốc gia mình.
Trong hoạt động chuyển giao công nghệ, đòi hỏi bên tiếp nhận công nghệ
phải nắm vững các thông tin để lựa chọn được công nghệ thích hợp theo những

tiêu chuẩn nêu trên. Đó là các thông tin liên quan đến bên cung cấp và bên nhận
công nghệ (lịch sử và kinh nghiệm ; địa vị hiện tại; chiến lược và kế hoạch của
doanh nghiệp ); các thông tin về mức độ tiên tiến của công nghệ cũng như về
tình hình công nghệ thế giới. Việc lựa chọn công nghệ phải trên cơ sở chủ động
tích cực và xuất phát từ đòi hỏi của bản thân doanh nghiệp.
Việc tìm hiều kinh nghiệm của nhiều nước, chúng ta không dập khuôn bất
kì mô hình nào đó mà tiếp thu những ưu điểm, loại trừ các khuyết tật của mô
hình chuyển giao công nghệ, từ đó hình thành mô hình của riêng mình , phù hợp
với thực tiến đất nước, truyền thống dân tộc và xu thế thời đại.

6
1.2. Chuyển giao công nghệ.
1.2.1.Khái niệm và đối tượng chuyển giao công nghệ.
1.2.1.1.. Khái niệm
- Tổng quát: Chuyển giao công nghệ là việc đưa kiến thức kĩ thuật ra khỏi
ranh giới nơi sản sinh ra nó.
- Theo quan điểm quản lí công nghệ: chuyển giao công nghệ là tập hợp các
hoạt động thương mại và pháp lí nhằm làm cho bên nhận công nghệ có được
năng lực công nghệ như bên giao công nghệ , trong khi sử dụng công nghệ đó
vào một mục đích đã định.
- Nghị định 45/1998/NĐ- CP: chuyển giao công nghệ là hình thức mua và
bán công nghệ trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được thỏa thuận
phù hợp với các qui định của pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao các
kiến thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc thiết bị, dịch vụ,
đào tạo…kèm theo các kiến thức công nghệ cho bên mua và bên mua có nghĩa
vụ thanh toán cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo
các điều kiện đã thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Nhà nghiên cứu Nhật Bản Prayyoon Shiowattana đưa ra định nghĩa mới: “
chuyển giao công nghệ là một quá trình học tập trong đó tri thức về công nghệ
được tích luỹ một cách liên tục và nguồn tài nguyên con người đang được thu

hút vào các hoạt động sản xuất; một sự chuyển giao công nghệ thành công cuối
cùng sẽ đưa tới sự tích luỹ tri thức sâu hơn và rộng hơn”. Cách nhìn nhận mới về
chuyển giao công nghệ đứng trên góc độ của một quốc gia đã và đang có những
hoạt động chuyển giao công nghệ tích cực vào các nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam cho ta thấy sự đánh giá của họ về hiệu quả chuyển giao công
nghệ, đặc biệt là nhân tố con người.
1.2.1.2. Đối tượng chuyển giao công nghệ.
- Các đối tượng sở hữu công nghiệp có hoặc không kèm theo máy móc,
thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao.

7
Sở hữu công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và các đối tượng khác do luật
định.
- Bí quyết , kiến thức kĩ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công
nghệ, các giải pháp kĩ thuật, qui trình công nghệ, phần mềm máy tính, tài liệu
thiết kế, công thức, thông số kĩ thuật, bản vẽ, sơ đồ kĩ thuật có hoặc không kèm
theo máy móc thiết bị.
- Các giải pháp hợp lí hóa sản xuất , đổi mới công nghệ.
- Các hình thức dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ chuyển giao công nghệ như:
Hỗ trợ lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây
chuyền..
Tư vấn quản lý công nghệ, quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện qui
trình công nghệ được chuyển giao;
Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của công
nhân, cán bộ kĩ thuật và cán bộ quản lí để nắm vững công nghệ được chuyển
giao
1.2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ.
a. Phân theo luồng
Theo cách phân loại này, có hai luồng chuyển giao công nghệ là chuyển

giao dọc và chuyển giao ngang.
- Chuyển giao dọc: là sự chuyển giao các công nghệ hoàn toàn mới mẻ, đòi
hỏi các bước đi khá đồng bộ từ nghiên cứu, thử nghiệm, triển khai sản xuất thử
đến sản xuất hàng loạt để đảm bảo độ tin cậy về kinh tế và kĩ thuật.
- Chuyển giao ngang: là sự chuyển giao công nghệ đã hoàn thiện từ doanh
nghiệp này sang doanh nghiệp khác, từ nước này đến nước khác. So với chuyển
giao dọc, kiểu chuyển giao này ít rủi ro hơn song thường phải tiếp nhận một
công nghệ dưới tầm người khác, không hoàn toàn mới mẻ.
b. Phân theo quyền lợi và trách nhiệm của người mua và người bán.
Phân loại theo kiểu này áp dụng trong trường hợp đánh giá mức độ tiên tiến
và giá cả của công nghệ; gồm các hình thức sau:

8
Chuyển giao giản đơn: là hình thức người chủ công nghệ trao cho người
mua quyền sử dụng công nghệ trong một thời gian và phạm vi hạn chế.
Chuyển giao đặc quyền: người bán trao quyền sử dụng công nghệ cho
người mua giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ.
Chuyển giao độc quyền: là hình thức người bán trao toàn bộ quyền sở hữu
công nghệ cho người mua trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng.
c. Phân theo kiểu chuyển giao hay chiều sâu của chuyển giao công nghệ.
Trao kiến thức: việc chuyển giao chỉ dừng lại ở mức truyền đạt kiến thức
bằng cách đưa công thức, hướng dẫn, tư vấn về kĩ thuật.
Chuyển giao công nghệ dưới dạng chìa khoá giao tay: người bán phải thực
hiện các công việc như lắp đặt máy móc, hướng dẫn quy trình, hoàn tất toàn bộ
quá trình sản xuất.
Trao sản phẩm: người bán không những có trách nhiệm hoàn tất toàn bộ
dây chuyền sản xuất mà còn giúp người mua sản xuất thành công sản phẩm sử
dụng kĩ thuật chuyển giao.
Trao thị trường: ngoài trách nhiệm như ở mức độ “trao sản phẩm” người
bán còn phải bàn giao một phần thị trường đã xâm nhập thành công cho bên mua

công nghệ.
Hiện nay, ở Việt Nam tồn tại các kiểu chuyển giao công nghệ chính như
sau:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài kiểu cổ điển(phía nước ngoài kiểm soát, điều
hành)
- Liên doanh
- Bán li xăng
- Các hợp đồng quản lí dịch vụ kĩ thuật
- Tiếp thị
- Hợp đồng chìa khóa trao tay.
- Các hợp đồng phụ

9
1.2.3. Cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ.
Ngày nay, sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá
nền kinh tế thế giới, áp lực cạnh tranh gia tăng cùng với sự phát triển không
đồng đều giữa các nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hoạt động chuyển giao công
nghệ trên phạm vi toàn cầu.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ với qui mô lớn và toàn diện đối với
các lực lượng sản xuất đã tạo ra sự chuyển biến sâu sắc về cơ cấu nền kinh tế thế
giới, về quan hệ kinh tế quốc tê và thay đổi bản chất cơ cấu phân công lao động
quốc tế. Trước 1970, thị trường công nghệ diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản
phát triển, giữa tam giác: Mỹ- Nhật- Tây Âu, còn công nghệ chuyển giao sang
các nước đang phát triển chủ yếu là mặt hàng tiêu dùng. Sau 1970, thị trường
công nghệ diễn ra ở khắp các nước: tư bản phát triển, NICs, các nước đang phát
triển.
Để hình thành, tồn tại, phát triển của công nghệ thì công tác nghiên cứu
phát minh, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, sản xuất thử, đòi hỏi phải có sự
đầu tư thích đáng về chi phí, thời gian và mang tính rủi ro, vì vậy thế mạnh
nghiêng hẳn về các nước phát triển có tiềm năng về kinh tế. Các nước đang phát

triển cũng có nhu cầu về áp dụng công nghệ mới song do hạn chế về khả năng
tài chính nên không thể tự tạo ra được công nghệ. Chỉ khi nào công nghệ đã
hoàn thiện và đưa vào sản xuất hàng loạt thì chi phí cho công nghệ mới giảm đi
và các nước đang phát triển mới có điều kiện mua lại công nghệ. Hơn nữa, các
nước phát triển sau khi đã khai thác triệt để công nghệ thì lại có nhu cầu tạo ra
công nghệ mới và bán lại công nghệ cũ. Để thu được nhiều lợi nhuận, các nhà
nghiên cứu, nhà kinh doanh, các hãng đều muốn kéo dài vòng đời công nghệ.
Cùng với quá trình phát triển khoa học – công nghệ trên thế giới, các công nghệ
cũng phải luôn được cải tiến được đổi mới. Hơn nữa, tranh thủ sự đầu tư nước
ngoài, các quốc gia tận dụng chuyển giao công nghệ như một giải pháp hữu hiệu
để cải tiến nền sản xuất trong nước. Xuất hiện yếu tố cung cầu công nghệ đã tạo
ra sự hình thành thị trường công nghệ.

10
1.2.4. Vai trò của chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư nước
ngoài.
1.2.4.1. Đối với bên chuyển giao công nghệ.
Bằng việc di chuyển nguồn lực công nghệ sang một quốc gia khác để thực
hiện hoạt động đầu tư thì nhà đầu tư nước ngoài có thể có được những lợi ích
sau:
- Cải tiến để đáp ứng với điều kiện áp dụng công nghệ của nước nhận công
nghệ.
Mỗi công nghệ sinh ra trong một môi trường nhất định và phải phụ thuộc ít
nhiều vào môi trường đó. Nếu áp dụng công nghệ này trong một môi trường
khác có diều kiện khắc nghiệt hơn thì bên cung cấp công nghệ buộc phải tiến
hành thử nghiệm, thí nghiệm để cải tiến công nghệ cho phù hợp.
- Sử dụng lao động rẻ.
- Sử dụng tài nguyên địa phương, tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển.
Ben cung cấp công nghệ cho rằng việc bán li xăng sử dụng công nghệ cho các
nước giàu tài nguyên và sức lao động là hình thức chuyển giao tốt nhất.

- Xâm nhập lẫn nhau về công nghệ có thể thực hiện được trong CGCN giữa
các nước phát triển.
- Tạo ra những ràng buộc khác đối với bên tiếp nhận công nghệ. Đó là song
song với CGCN bên cung cấp công nghệ đồng thời bán nguyên vật liệu, thiết bị
và các phần cứng khác cũng như những dịch vụ liên quan.
- Khi CGCN cho những nước đang phát triển thì bên cung cấp công nghệ
của nước phát triển sẽ không gặp nhiều khó khăn trong quá trình đàm phán hợp
đồng bởi năng lực công nghệ của bên tiếp nhận thông thường yếu hơn bên cung
cấp. Chính điều này đã khiến cho giá công nghệ cao hơn giá trị thực của nó.
- Những lợi ích không thể định trước: trong quá trình sản xuất ở nước sở tại
có thể có những phương án đa dạng hóa sản phẩm mà ngay bản thân bên cung
cấp công nghệ cũng chưa nghĩ đến và điều đó tạo cho họ cơ hội để thực hiện đầu
tư ở nước này.

11
1.2.4.2. Đối với bên nhận công nghệ.
- Không mất chi phí cho nghiên cứu và phát triển R&D.
- Có được những tiến bộ về khoa học và thương mại, thông qua việc đào
tạo và cung cấp tài liệu của bên bán công nghệ, trình độ và kiến thức của bên
tiếp nhận sẽ ngày càng một nâng cao, làm tăng khả năng sản xuất hoặc áp dụng
quy trình sản xuất một cách cớ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ về tài
chính, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm còn mở ra một khả năng thương mại cho
bên tiếp nhận.
- Có điều kiện tiếp xúc với những nguồn thông tin cần thiết, ngoài khả năng
có những tiến bộ trực tiếp về công nghệ và thương mại thì sự hợp tác chặt chẽ
thường xuyên với bên cung cấp công nghệ là điều kiện để bên nhận có được
những thông tin về cải tiến và các sáng kiến khác trong lĩnh vực hoạt động của
mình cũng như xu hướng phát triển.
Tuy nhiên một số hạn chế có thể xuất hiện đối với bên nhận công nghệ.
- Lệ thuộc vào công nghệ nhập cho đến khi hoàn toàn làm chủ công nghệ.

- Nếu năng lực công nghệ thấp và thiếu các điều kiện tiếp nhận công nghệ
thì sẽ không phát huy được ưu điểm của các công nghệ này dẫn tới thất bại.
1.2.4.3. Đối với chính phủ các bên liên quan.
+ Đối với chính phủ bên cung cấp công nghệ.
Nhiều nước phát triển cung cấp thiết bị cho các nước đang phát triển khẳng
định rõ ràng lợi ích của họ trong việc thực hiện CGCN. Thông qua CGCN kinh
tế của các nước đang phát triển dần dần cũng tăng trưởng kéo theo sự gia tăng
sức tiêu thụ các mặt hàng công nghiệp và tiêu dùng từ nước cung cấp. Ước tính
cứ 3% sự gia tăng kinh tế ở các nước đang phát triển dẫn đến 1% gia tăng ở các
nước phát triển. Như vậy sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc phát triển kinh tế
giữa các nước phát triển và đang phát triển là rất rõ ràng. Mặt khác, các nước
phát triển thừa nhận rằng rốt cuộc họ không thể duy trì được sự giàu có của
mình nếu như đại bộ phận dân số trên thế giới sống trong cảnh nghèo khổ bởi

12
những vấn đề kinh tế và xã hội sẽ là nguyên nhân gây ra những vấn đề về chính
trị và mất ổn định quốc tế.
+ Đối với chính phủ nước nhận công nghệ.
Những nước nhận công nghệ, đặc biệt những nước đang phát triển đều
nhận thấy lợi ích của hoạt động CGCN đi kèm với FDI mang lại.
- Chi phí để chế tạo ra công nghệ đòi hỏi vốn lớn, do vậy CGCN trong một
số lĩnh vực sẽ giúp cho chính phủ nước tiếp nhận công nghệ dành ngân sách cho
những lĩnh vực cần thiết, cấp bách hơn.
- Tạo thêm nhiều việc làm trong các doanh nghiệp FDI.
- Tăng thu ngoại tệ trong trường hợp sản phẩm của công nghệ được xuất
khẩu.
- Tiết kiệm ngoại tệ do sản phẩm có thể thay thế nhập khẩu.
- Khai thác và sử dụng nguyên liệu trong nước một cách hiệu quả. Tận
dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu công nghệ cần thiết.
1.3. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở một số nước.

1.3.1.Những thuận lợi và khó khăn trong CGCN ở các nước đang phát
triển.
1.3.1.1. Thuận lợi.
Trong hai thập kỉ vừa qua, quá trình chuyển giao công nghệ trên thị trường
công nghệ thế giới diễn ra sâu rộng và mạnh mẽ. Những yếu tố tạo thuận lợi cho
các hoạt động là:
- Xu thế mở rộng hợp tác và khuyến khích ngoại thương của thế giới.
- Tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra những công cụ tiên tiến giúp CGCN
dễ dàng.
- Các nước (cả bên giao và nhận) đã tích luãy được nhiều kinh nghiệm
CGCN trên phạm vi toàn cầu.
- CGCN là một hoạt động mang lợi ích cho cả hai bên tham gia.

13
Sự thành công của một số nước thông qua hoạt động chuyển giao công
nghệ càng làm tăng tính hấp dẫn của CGCN quốc tế. Điển hình là Nhật Bản, sau
đó là 4 con rồng Châu Á: Hàn quốc, Đài loan, Hồng kông, Singapore.
1.3.1.2. Khó khăn.
Về khách quan:
- Bản thân công nghệ phức tạp, các công nghệ được coi là CGCN thường
có trình độ cao hơn trình độ của bên nhận.
- Công nghệ là kiến thức, do đó chuyển giao công nghệ mang tính chất ẩn,
mang tính bất định. Công nghệ không chỉ nằm trong máy móc, thiết bị, tài liệu
kĩ thuật, người có công nghệ khó truyền đạt tất cả những gì học có trong một
thời gian ngắn.
- Những sự khác biệt về ngôn ngữ nền văn hóa và khoảng cách về trình độ
dẫn tới những khó khăn trong giao tiếp, truyền đạt, hòa hợp.
Về phía bên giao:
- Động cơ của bên giao thường khó xác định, mục tiêu cao nhất của học
thường là thu lợi nhuận nhiều hơn ở chính quốc. Để có lợi nhuận cao họ thường

giảm chi phí đào tạo, làm cho bên nhận gặp khó khăn trong việc có đủ nhân lực
làm chủ công nghệ.
- Do lo lắng trong việc bản quyền công nghệ, lo ngại khả năng thu hồi vốn
đầu tư, do thị trường bên nhận nhỏ hẹp, lo ngại về việc bên nhận trở thành đối
thủ cạnh tranh( đã từng xảy ra) do đó bên giao thường cố ý trì hoãn hoặc chỉ
giao thông tin để đủ vận hành.
Về phía bên nhận:
- Cơ sở hạ tầng yếu kém, làm cho quá trình chuyển giao thực hiện, sử dụng
công nghệ không đủ điều kiện đòi hỏi.
- Cấu trúc hạ tâng công nghệ yếu kém(nhân lực, chính trị, văn hóa đặc biệt
năng lực nghiên cứu – triển khai nội bộ) dẫn tới không có khả năng đồng hóa,
tiến tới làm chủ công nghệ nhập.
- Phải đốt cháy giai đoạn trong phát triển công nghệ do thúc ép của việc
phải nhanh chóng CNH, HĐH.

14
Thực tế cho thấy, sau hơn 20 năm tăng cường chuyển giao công nghệ, các
nước đang phát triển thậm chí còn nghèo hơn trước( số liệu WB).
1.3.2. Kinh nghiệm CGCN của một số nước.
Để bắt đầu quá trình tìm hiểu kinh nghiệm chuyển giao công nghệ của một
số quốc gia tiêu biểu, chúng ta hãy cùng xem xét biểu đồ sau:
năm
Biểu đồ: những mô hình đuổi kịp về công nghệ của Nhật Bản và các nước
đang phát triển ở Châu á, so sánh với các nước phát triển.
Nguồn: Institute Of Developing Economies, Study on Technology And Trade
Friction Between Japan And Developing Nations(Tokyo: IDE, 195).
Từ một đống tro tàn sau thế chiến II , bằng con đường thực hiện chuyển
giao công nghệ, nghiên cứu ứng dụng và phát triển theo cách riêng của mình,
Nhật Bản đã trở thành một cường quốc trên thế giới, đắc biệt là ở khu vực Châu
Á Thái Bình Dương.

Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, điều kiện chính trị xã hội nghiêm ngặt
đã bắt rễ sâu trong thời đại phong kiến và đặc biệt là những thiệt hại lớn lao do
chiến tranh gây ra, người Nhật Bản đã rút ra bài học quý giá trong quá trình
chuyển giao công nghệ của mình là: “Tinh thần Nhật Bản cộng kỹ thuật phương
tây”. Người Nhật Bản đánh giá cao bốn năng lực trong các giai đoạn chuyển
giao công nghệ: năng lực lĩnh hội; năng lực thao tác; năng lực thích ứng và năng
lực đổi mới. Họ đặc biệt coi trọng nguồn tài nguyên con người với tư cách là

15
1860 1950 1980
nhân tố tích luỹ tri thức công nghệ. Từ những kinh nghiệm về chuyển giao công
nghệ, các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng: các nước đang phát triển nói
chung và Việt Nam nói riêng có thể trước tiên phải làm chủ công nghệ ở phần
ngoại vi của kĩ thuật, là phần mà hầu hết đầu tư nước ngoài có thể đem vào, và
dần dần họ phải mở rộng việc học tập để bao trùm lên phần cốt lõi của kĩ thuật.
Đối với các nước NIE Châu Á nhận thức được rằng chuyển giao công nghệ
có vai trò to lớn trong giai đoạn công nghiệp hoá đất nước, khi mà cuộc cách
mạng công nghệ phát triển như vũ bão, khoảng cách giữa các nước phát triển và
đang phát triển ngày càng cách xa nhau, lợi dụng kĩ thuật tiên tiến của nước
ngoài là việc làm cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Chuyển giao công
nghệ đã giúp các NIE Châu á trở thành “ những con rồng” với tốc độ tăng
trưởng cao, FDI tăng liên tục, hoà nhập vào thị trường thế giới và đời sống nhân
dân được cải thiện đáng kể... Trong thời gian qua, các NIE Châu Á rất chú trọng
việc nghiên cứu, phân loại, xác định tính chất, đặc điểm các kênh chuyển giao
công nghệ trên thế giới. Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước
công nghiệp phát triển, các NIE thông qua các công ty xuyên quốc gia(TNCs),
cụ thể là thông qua các chi nhánh đặt tại nhiều nước để tiếp cận với công nghệ
hiện đại. Đối với kênh chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển với các
nước đang phát triển, các NIE tập trung ưu đãi về tài chính, tạo điều kiện thuận
lợi để nhập và sử dụng công nghệ cho phù hợp điều kiện cụ thể. Đối với kênh

chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển, họ luôn ý thức được ưu
thế của mình, tiến hành đầu tư và chuyển giao công nghệ sang nhiều nước, đặc
biệt là sang các nước ASEAN. Các NIE Châu Á cũng thường sử dụng các hình
thức tiếp thu chuyển giao công nghệ như: qua liên doanh, tiếp nhận chuyển giao
trọn gói, qua mua bản quyền sở hữu công nghệ, thuê chuyên gia hướng dẫn, trao
đổi thông tin và đào tạo cán bộ kĩ thuật. Thông qua các hình thức tiếp thu công
nghệ như trên cùng với khả năng ứng dụng và đổi mới công nghệ, các NIE châu
Á đã đạt được những thành công rực rỡ, đặc biệt là trong phát triển công nghiệp.
Mặt khác, các NIE châu Á đã thực hiện phương châm “ đón đầu, đi tắt
trong công nghệ”. Thời kỳ đầu, với trình độ kỹ thuật còn thấp, họ chỉ tiến hành

16
chuyển giao dây chuyền công nghệ của nước ngoài để lắp ráp hoặc qua gia công
sản phẩm cho các công ty nước ngoài. Sau khi đã đổi mới cơ cấu ngành, tăng
sản xuất những thành phẩm có hàm lượng công nghệ cao, không chỉ nhà nước
quan tâm mà cả các công ty tư nhân cũng quan tâm thực hiện đuổi bắt tiếp thu
và làm chủ công nghệ như chính nước xuất khẩu công nghệ. Các NIE cũng đưa
ra những chính sách ưu đãi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc trực tiếp
mua máy móc trên thị trường.Trên thực tế, tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội của
riêng mình, mỗi NIE châu á đều có những chính sách chuyển giao công nghệ hết
sức thận trọng để mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế.
-Trung Quốc có được sự thành công lớn, phát triển kinh tế theo kiểu đặc
sắc Trung quốc là nhờ một phần lớn từ hoạt động chuyển giao công nghệ .
Đạt được những thành công như hiện nay , Trung Quốc đã phải ban hành
tổng thế kế hoạch khoa học và công nghệ. Cuối những năm 80, trung quốc bắt
đầu một thời kì mới , dựa vào khoa học công nghệ để thúc đẩy phát triển kinh tế
và tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trung quốc đã tiền hành các
chương trình nhìn trước về công nghệ nhằm đưa ra các quyết định cho chính
sách phát triển khoa học và công nghệ cấp quốc gia: Chương trình nghiên cứu
chính sách công nghệ quốc gia, đề cương phát triển khoa học và công nghê quốc

gia trung và dài hạn, lựa chọn dự án công nghệ quốc gia then chốt quốc gia;
trong đó ưu tiên cho các ngành công nghệ mũi nhọn như: công nghệ sinh học,
công nghệ vũ trụ, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, công nghệ năng
lượng , công nghẹ vật liệu mới
-Tiếp nhận chuyển giao công nghệ ở Thái lan:
Thái lan có lợi thế tương đối về các mặt như đất đai, nhân công , hạ tầng cơ
sở .. để nắm bắt và tiếp thu xu thế tái triển khai cơ cấu công nghiệp của các nước
công nghiệp phát triển hơn. Nhật bản và NICs Châu Á , cũng như Mỹ và Tây Âu
đều coi Thái lan là nơi có thể tiến hành phân bố lại những cơ sở công nghiệp đã
mất ưu thế cạnh tranh ở trong nước họ. Trong khi đó để phục vụ cho mục đích
hướng ra xuất khẩu, khoảng cách về công nghệ hiện đại trong sản phẩm của
Thái lan là quá lớn so với thị trường thế giới, nhu cầu về sản phẩm mới , chất

17
lượng tốt trên thị trường trong và ngoài nước ngày càng cao trong khi Thái lan
bị bỏ xa so với công nghệ của các nước tiên tiến, thậm chí so với cả NICs….Đấy
là lí do buộc Thái lan phải nhập khẩu một lượng lớn công nghệ từ nước
ngoài.Trong đó kênh FDI là nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng nhất , với
chính sách đa dạng hóa nguồn đầu tư thực hiện trong suốt giai đoạn đầu của quá
trình phát triển kinh tế. Mạng lưới công nghiệp hướng về xuất khẩu của Thái lan
phải nhập nguyên vật liệu và máy móc thiết bị bên ngoài lên đến 70% . Chính
sác khuyến khích thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài của Thái Lan đã tạo điều
kiện cho các nguồn vốn vào Thái lan ngày càng tăng lên nhanh chóng Có thể nói
trong giai đoạn 1960-1990 Thái Lan là nước tiếp nhận đầu tư nước ngoài lớn
nhất rong các nước ASEAN. Đầu tư nước ngoài vào các ngành chế tạo, mỏ, xây
dựng, ngân hàng của Thái Lan rất đa dạng. Trong lĩnh vựa chế tạo đầu tư nước
ngoài vào các ngành dệt, điện, điện tử, hóa chất, chế tọa máy và thiết bị vận
chuyển , Mỹ , EU và Nhật Bản vẫn là các nhà đầu tư lớn nhất.
Có được những thành công lớn đó là nhờ vào một số nguyên nhân chủ yếu
sau: Chính sách thuế phù hợp, coi trọng công tác marketing vận động đầu tư ,

tập trung đầu tư xây dựng và mở rộng kết cấu hạ tầng, đầu tư nguồn nhân lực….
Nghiên cứu kinh nghiệm tiếp nhận chuyển giao công nghệ của các quốc gia
nói trên cho ta những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu: cải thiện môi trường
đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có hiệu quả, gắn
đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển giao công nghệ thích hợp; các hợp đồng
chuyển giao công nghệ phải được chú trọng, được tính toán cẩn thận cả trong
hiện tại và tương lai; chú trọng phát triển công nghệ truyền thống công nghệ
truyền thống trong nước tạo cơ sở để tiếp nhận một cách hợp lý có chọn lọc,
thích hợp với công nghệ mới ; xây dựng và thúc đẩy sự phát triển của khu công
nghệ cao là nơi thu hút các hoạt động chuyển giao công nghệ, đóng vai trò động
lực, đầu tàu trong việc đẩy mạnh phát triển công nghệ quốc gia; chuyển giao
công nghệ không được tách rời việc nâng cao đời sống của nhân dân - đây cũng
là mục tiêu “ xã hội công bằng văn minh ”của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra; ở

18
đây nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo, điều tiết giúp cho
hoạt động chuyển giao công nghệ có hiệu quả.
Trong quá trình học tập kinh nghiệm của các nước khác, không có một mô
hình nào là thước đo vạn năng, phổ biến rộng khắp, cần chú trọng điều kiện kinh
tế – xã hội cụ thể sẽ giúp chúng ta có được những bước đi thích hợp cho hoạt
động chuyển giao công nghệ, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt, con người là nhân tố quyết định đối với mọi
thành quả kinh tế – xã hội. Tri thức được tích luỹ bởi tài nguyên con người là
bài học kinh nghiệm không bao giờ cũ cho chúng ta.

19
Chương 2:
THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC
DỰ ÁN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.
2.1. Tình hình tổng quát kinh tế- xã hội Việt Nam và trình độ công nghệ tại

Việt Nam.
2.1.1.Tình hình kinh tế- xã hội tổng quát.
Kể từ sau khi đổi mới, tình hình kinh tế- chính trị xã hội của ta đã có nhiều
biến chuyển tích cực. Đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc
độ tăng trưởng nhanh và ổn định, tăng cường cơ sở vật chất tạo tiền đề cho giai
đoạn phát triển mới. Tổng sản phẩm trong nước giai đoạn 2001-2005 tăng bình
quân 7,5%/ năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra , trong đó nông nghiệp tăng 3,8%,
công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%. Qui mô tổng sản phẩm
trong nước của nền kinh tế liên tục tăng. GDP bình quân đầu người đạt….
- Đất nước đã tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế xã hội trong
quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Cân đối tích lũy tiêu dùng
được cải thiện theo hướng giảm dần tỷ lệ tiêu dùng trong cơ cấu tích lũy tiêu
dùng, tăng khả năng tích lũy để đầu tư phát triển, đảm bảo mục tiêu vừa cải
thiện mức sống của dân cư vừa tăng khả năng tích lũy để công nghiệp hóa. Tổng
tích lũy tăng bình quân thời kì 2001-2005 là 11,4% năm
- Tài chính quốc gia có nhiều cải thiện, tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước
hàng năm cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá cộng lại. Tỷ lệ
đầu tư phát triển trong GDP tăng nhanh. Mức huy động trong các năm gần đây
đạt 30%…
- Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, điện, viễn thông, thủy lợi, ngày càng
được nâng cấp và hoàn thiện .Trong đó hệ thống giao thông vận tải được tập
trung phát triển. Nâng cấp, mở rộng và làm mới các tuyến giao thông huyết
mạch và trọng yếu, đảm bảo thông suốt cả nước.

20
- Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phát triển khá. Giáo dục đào
tạo có những biến chuyển tích cực, mặt bằng dân trí đã được nâng lên, hoàn
thiện việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và phổ cập
giáo dục trung học cơ sở ở 31 tỉnh thành phố. Cơ sở vật chất cho giáo dục , đào
tạo được tăng cường. qui mô giáo dục tiếp tục phát triển, nội dung các chương

trình giảng day có nhiều đổi mới, phù hợp với dự thay đổi của thời đại. Hoạt
động khoa học công nghệ đã đóng góp không nhỏ không chỉ việc ứng dụng các
kết quả nghiên cứu vào sản xuất , đời sống xã hội mà cả trên phương diện nâng
cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
- Các thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được hình
thành, xuất hiện các thị trường mới như thị trường khoa học công nghệ, thị
trường lao động, thị trường thông tin…Khuôn khổ pháp lí, các cơ chế chính sách
, các chế tài quản lý cũng đã và đang được đổi mới phù hợp, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Công tác cải cách nên hành chính nhà nước được đẩy mạnh.Bộ
máy tổ chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ Chính phủ các Bộ, ngành
trung ương tới chính quyền địa phương đã được đổi mới, hoạt động ngày càng
có hiệu quả hơn.
Hoạt động kinh tế đối ngoại đã có bước phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta
nhanh chóng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đa phương hóa và đa dạng
hóa các mối quan hệ với các nước , các tổ chức tài chính quốc tế, Việt Nam dã
tham gia vào các diễn đàn, tổ chức liên kết như ASEAN,APEC, ASEM, AFTA,
WTO.. Quan hệ hợp tác phát triển của nước ta với cộng đồng tài trợ quốc tế
ngày càng được thắt chặt. Nguồn vốn tài trợ của các nước cho ta đều tăng đáng
kể, tốc độ dải ngân vốn cũng như hiệu quả sử dụng vốn tài trợ cũng được đẩy
nhanh.
Chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được củng cố, tạo môi
trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Hiệu lực hiệu quả quản lí nhà
nước được tăng cường một bước. Cải cách hành chính có những tiến bộ nhất
định. Dân chủ xã hội tiếp tục được phát huy. Nhiều vụ tiêu cực, tệ nạn xã hội, tội
tham nhũng bị phát hiện và xử lý nghiêm.

21
2.1.2. Trình độ khoa học công nghệ tại các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhiều cuộc khảo sát cho thấy trình độ công nghệ của một số ngành sản
xuất và của các doanh nghiệp còn lạc hậu. Theo kết quả điều tra về thực trạng

DN Việt Nam, hầu hết ở quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do đó khả năng
trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. trình độ
công nghệ của các doanh nghiệp (DN) sản xuất trong nước tụt hậu hai thế hệ so
với thế giới. Theo đó, hơn 70% máy móc thiết bị (MMTB) được sản xuất từ
những năm 1970; 75% MMTB đã hết thời gian khấu hao; 50% MMTB mới tân
trang.
Nhìn chung, có đến 52% MMTB được đánh giá là lạc hậu và rất lạc hậu.
Về trình độ công nghệ, không có DN nào đạt trình độ công nghệ tốt; trong khi
đó có 35% và 44% DN có trình độ công nghệ trung bình, lạc hậu và rất lạc hậu;
trình độ công nghệ khá cũng chỉ khiêm tốn ở mức 21%.
Mức đầu tư cho khoa học và công nghệ (KH&CN) tuy đã tăng, nhưng chưa
đáp ứng nhu cầu phát triển và vẫn dựa chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước,
chưa huy động được các nguồn đầu tư xã hội, nhất là từ các doanh nghiệp. Cơ
chế, chính sách đầu tư cho khoa học và công nghệ chưa được tháo gỡ để tạo
nguồn lực và động lực cho các tổ chức và các nhà khoa học phát huy tối đa năng
lực sáng tạo và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tế sản
xuất kinh doanh. Công tác hội nhập quốc tế về KH&CN cũng chưa được quan
tâm đẩy mạnh để tìm kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến công nghệ nhập từ
nước ngoài phục vụ đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa
đào tạo - nghiên cứu- sản xuất, kinh doanh; quan hệ hợp tác giữa các tổ chức
KH&CN; chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc đưa
kết quả nghiên cứu vào cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế.
Trong số 117 nước được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) điều tra năm
2005, chỉ số ứng dụng công nghệ của Việt Nam nằm trong nhóm nước lạc hậu
(đứng thứ 92); chỉ số đổi mới có cao hơn, song vẫn thua Thái Lan 42 bậc. Công

22

×