Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.04 KB, 66 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khu công nghiệp, khu chế xuất là mô hình kinh tế mới của đất nước ta,
được hình thành và phát triển trong những năm đầu thập kỉ 90. Để đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp phát triển. Chủ trương phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã được Đảng và Chính phủ sớm khẳng định và thực tế đã
mang lại bước phát triển mới vượt bậc của công nghiệp nước ta, đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước.
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra nhanh chóng với quy mô
và tốc độ ngày càng lớn đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hóa thương mại và
đầu tư tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu. Các nền kinh tế ngày càng
phụ thuộc vào nhau nhiều hơn và đều theo xu hướng mở cửa và theo quỹ đạo
của kinh tế thị trường.
Các doanh nghiệp của các nước phát triển đang tìm kiếm cơ hội đầu tư ra
nước ngoài để giảm chi phí, tận dụng lợi thế so sanh các ở các nước khác, có thị
trường mới, nguồn nguyên liệu mới. Các nước đang phát triển thiếu vốn đầu tư,
thiếu kĩ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lý, công nhân lành nghề
trình độ cao. Các nước phát triển di chuyển vốn ra nước ngoài, các nước đang
phát triển cố gắng tạp ra một môi trường kinh tế thích hợp thu hút đầu tư nước
ngoài.
Trong thời gian đầu, các cơ sở công nghiệp của các nước đang phát triển phần
lớn có quy mô vừa và nhỏ do hạn chế về nguồn vốn, phân bố phân tán, khả năng
xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường thấp. Các nước đang phát triển cần tạo ra
một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư về cả môi trường pháp lý, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội để thu hút đầu tư theo quy hoạch cho phù
hợp với phát triển kinh tế- xã hội trước mắt cũng như lâu dài của quốc gia. Để
thực hiên được mục tiêu trên, các nước đang phát triển đã thành lập các khu vực
cá biệt với những ưu đãi nổi bật về tài chính, thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật
và xã hội để thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài. Đó là khu
công nghiệp, khu chế xuất.


Việt Nam cần làm gì để xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn cho các khu
công nghiệp, khu chế xuất, có biện pháp gì để giải quyết vướng mắc trong môi
trường đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất thật sự trở thành một điểm
đến an toàn, một địa bàn thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Được sự giúp đỡ của Thạc sĩ Nguyễn Thị Ái Liên, em chọn đề tài “ Thực
trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở

1
Việt Nam” để làm bài tập đề án môn học của mình, và cũng mong có thể đi sâu
tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư tại một số khu công nghiệp,
khu chế xuất ở nước ta, từ đó có thể xem xét và đề xuất một số giải pháp tăng
cường thu hút hơn nữa vốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các Thầy, Cô giáo trong
Khoa Kinh tế đầu tư, đặc biệt là Thạc sĩ Nguyễn Thị Ái Liên đã trực tiếp hướng
dẫn em làm đề tài này. Tuy nhiên do hạn chế về trình độ và tài liệu thu thập nên
luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sot. Em mong nhận được sự chỉ bảo,
góp ý của các Thầy, Cô và mọi người để đề án môn học của em được hoàn thiện
hơn.

2
PHẦN I: NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ, KHU
CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU
HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ
XUẤT Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất và phân loại nguồn vốn đầu tư.
1.1.1. Khái niệm về nguồn vốn đầu tư:
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng
giá được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội
Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư

phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và xã hội.
1.1.2. Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích lũy mà nền kinh tế có thể huy động được đưa vào quá trình tái sản xuất xã
hội. Điều này được thể hiện cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác-
Leenin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
* Theo lý thuyết của Adam Smith
Trong tác phẩm của cải của các dân tộc năm 1776, Adam Smith, người đại
diện điển hình cho kinh tế học cổ điển đã khẳng định: “Tiết kiệm là nguyên nhân
trực tiếp của việc gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để cho quá trình tiết
kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu đi chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì
vốn không bao giờ tăng lên.”
* Theo lý thuyết của Các Mác
Trong một nền kinh tế với 2 khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và
khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều
bao gồm (c+v+m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới
sang tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì
nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất
(c) của khu vực II. Tức
(v+m)
I
> c
II

3
Hay nói cách khác:
(c+v+m)
I
>c
II

+ c
I
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi
hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế ( của cả hai khu vực) mà còn phải
dư thừa đẻ đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp
theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo :
(c+v+m)
II
< (v+m)
I
+ (v+m)
II

Có nghĩa toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn gía trị sản phẩm
sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế
mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn
đầu tư sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cô sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư,
một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử
dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả 2 khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản
xuất tư liệu tiêu dùng trong sinh hoạt của cả 2 khu vực.
Với phân tích như trên, chung ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mac, con
đường cơ bản và quan trọng về lầu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản
xuất và thực hành tiết kiệm ở trong cả khu vực sản xuất và tiêu dùng, hay nói
cách khác, nguồn lực cho tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự
gia tăng sản xuất và tích lũy nền kinh tế.
* Theo lý thuyết của John Maynard Keynes
Trong tác phẩm nổi tiếng “ Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền
tệ” của mình, Kyenes đã chứng minh rằng : Đầu tư chính bằng phần thu nhập

mà không chuyển vào tiêu dùng. Đông thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính
là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng:
Tức là:
Thu nhập= Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm= Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:

4
Đầu tư= Tiết kiệm
Hay
(I)= (S)
Theo Kyenes, sự cân bằng giũa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất
song phương của các giao dịch giũa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người
tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hóa
hoặc cung ứng dịch vụ và tổng ch phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải
được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư
hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy,
xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dungfmaf người ta gọi là tiêt
kỉệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu
tư.
Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong
đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết
kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ
toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hoặc
doanh nghiệp nào.Có thể có cá nhân, hoặc doanh nghiệp tại một thời điểm nào
đó tích lũy nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số
cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích lũy chưa đủ. Khi
đó, thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn từ
nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ,
nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu ( nếu đáp ứng được một số điều

kiện nhất định và tuân thủ quy trình thủ tục nhất định) để huy động vốn thực
hiện một số dự án nào đó từ các doanh nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân-
người dư thưa hoặc tạm thời dư thừa vốn.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải lúc nào cũng được thiết lập. Phần tích lũy của nền kinh tế có thể lớn
hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước
khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích lũy của nền kinh tế có thể ít nhu
cầu đầu tư, khi đó nền tế phai huy động tiết kiệm từ nước ngoài Trong trường
hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm vaf đầu tư được thể hiện trên tai khoản
vãng lai.
CA= S- I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai ( current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ
của nền kinh tế và tài khoản vãng lai lại bị thâm hụt thì có thể huy động vốn từ

5
nước ngoài. Khi đó, đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong
những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh
tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điền kiện thặng dư tài khoản vãng lai
thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoaì vay vốn
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
1.1.3. Phân loại nguồn vốn đầu tư
1.1.3.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước
* Nguồn vốn Nhà nước
Vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn vốn được trích lập từ ngân sách của Nhà
nước chi cho các hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn vốn quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và thường được đầu tư cho
các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ các dự án
của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho
công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội

vùng, lãnh thổ quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước : Nguồn vốn này có tác dụng tích
cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín
dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn
vay. Chủ đầu tư là người vay vốn nay phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn
tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá
độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng
đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ công
tác quản lý và điều tiết vĩ mô. Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư, nhà nước
thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng lĩnh vực
theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ
mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín
dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải
quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp phát triển Nhà nước : Nguồn vốn này chủ
yếu từ khấu tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo
Bộ Kế hoạch va Đầu tư, thông thường nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư

6
theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị hiện đại hóa dây chuyền công
nghệ của doanh nghiệp.
* Nguồn vốn đầu tư của tư nhân và dân cư
Nguồn vốn tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các
doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân

khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp
vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết
kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết
kiệm được. Đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan
trong đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp va kinh tế nông thôn, mở mang
ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ,
vận tải trên các địa phương. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một
trong số những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ
gia dình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển
của một nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ
lệ tiết kiệm thấp ); tập quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của nhà
nước thông qua chính sách phát triển thuế thu nhập và các khoản đóng góp của
xã hội.
1.1.3.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
* Nguồn vốn ODA
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các
chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giup các nước đang phát triển.
So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn ODF
nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất , thời hạn cho vay dài, khối
lượng vốn cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn
gọi là thành tố tài trợ) đạt ít nhất 25%.
Trong thời gian qua, việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có
rất nhiều thuận lợi. Kể từ năm 1993 đến hết năm 2006, Việt Nam tổ chức được
14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tổng mức vốn cam kết hơn 36 tỉ
USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay Việt Nam có trên 45 đối tác hợp
tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang
hoạt động.


7
Trong số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm cả viện trợ không hoàn lại
chiếm khoảng 15-20% và phần chủ yếu còn lại là vay ưu đãi. Số vốn ODA cam
kết này được sử dụng trong nhiều năm, tùy thuộc vào thời hạn của các chương
trình và sự án cụ thể. Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA, Chính phủ
Việt Nam đã đinh hướng nguồn vốn ODA ưu tiên cho các lĩnh vực giao thông
vận tải; phát triển hệ thống nguồn điện, mạng lưới chuyển tải và phân phối điện;
phát triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp
kết hợp xóa đói giảm nghèo; cấp thoát nước và bảo vệ môi trường; y tế giáo dục
và đào tạo; khoa học và công nghệ, tăng cường thể lực và thể chế….
Khi xem xét trên góc độ nguồn vốn đầu tư, ODA là một trong những nguồn
vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong quản lý và sử dụng nguồn vốn này một phần
vốn ODA có thể đưa vào ngân sách Nhà nước đáp ứng mục tiêu phát triển của
Nhà nước, một phần có thể đưa vào chương trình tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà
nước và một phần có thể đưa vào dự án độc lập. Theo ước tính phần chuyển vào
ngân sách nhà nước chiếm khoảng 15% tổng vốn đầu tư của ngân sách nhà
nước.
* Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn
vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các rằng
buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường
là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những
trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro của nước đi vay, của thị trường thế giới
và xu hướng quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường
được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu và thường là ngắn hạn.
Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng
của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc
biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay sang sủa. Đối với Việt Nam việc

tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn hạn chế.
* Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển. Nó có đặc điểm là
tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước nhận vốn. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn
nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề
đòi hỏi cao về kĩ thuật hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng
cực kì to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.

8
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản
vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài cho ngân sách nhà nước cũng hết sức đáng kể. Đặc biệt
nguồn vốn nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy
đủ và tốt hơn hệ cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…hình
thành lên các khu công nghiệp, khu chế xuất khu công nghệ cao, hiện đại hóa
các khu vực phát triển, hình thành các khu dân cư mới tạo việc làm cho hàng
vạn lao động tại các địa phương.
Đối với Việt Nam sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới mở cửa, nguồn
vốn đầu tư nước ngoài đã từng bước đóng góp phần bổ sung vốn quan trọng cho
đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực khai thác nâng cao hiêu quả sử dụng các
nguồn lực trong nước như dầu khí, điện lực bưu chính viễn thông…Tính từ năm
1988 đến giữa năm 2007, trên phạm vi cả nước đã có hàng nghìn dự án được cấp
giấy phép với tổng số vốn đăng kí là hơn 75 triệu USD. Trong giai đoạn 2001-
2006, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư của
toàn xã hội. Cho đến nay, Viết Nam đã thu hút được khoảng 70 quốc gia và
vùng lãnh thổ đưa vốn đầu tư dưới các hình thức khác nhau.
* Thị trường vốn quốc tế
Với xu thế toàn cầu hóa mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn

quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn
cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên toàn cầu. Thực tế
cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm qua qua tất cả các nguồn vốn đã đều có sự
gia tăng về khối lượng nhưng nguồn vốn đầu tư thông qua thị trường chứng
khoán có mức gia tăng nhanh hơn so với các nguồn vốn khác. Tính từ đầu
những năm 1970 cho đến cuối những năm 1990, vốn đầu tư trực tiếp của các
nước G7 chỉ tăng 30 lần, trong khi đầu tư chứng khoán đã gia tăng gấp 200 lần.
Riêng trong thập kỉ 1990, gia trị cổ phiếu của các nước công nghiệp phát triển
đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng gấp 6 lần đạt khoảng 4 ngàn tỷ
USD. Trong những năm gần đây dòng vốn này có xu hướng là tiếp tục gia tăng.
Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thi trường chứng
khoán đã có sự gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào cuối những năm 1990, có sự xuất
hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối
lượng giao dịch chứng khoán tại một số thị trường mới nổi vẫn rất đáng kể.
Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào thị trường châu Á đã
tăng gấp 3 lần năm 1998 đạt 15 tỷ USD. Năm 2005, dòng vốn đầu tư cỏ phần
gián tiếp đạt 42.3 tỷ USD vượt qua con số kỉ lục năm 2004 là 35.3 tỷ USD.
Riêng khu vực châu Á- Thái Bình Dương đã thu hút được gần 30 tỷ USD. Được
đánh giá là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, Châu Á hiện vẫn là nơi thu
hút dòng vốn đầu tư gián tiếp đáng kể và xu hướng ngày càng gia tăng.

9
Đối với Việt Nam, để thúc đầy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm
mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Nhà nước rất coi trọng việc huy động
mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn
việc làm, cải thiện đời song của nhân dân. Trong đó, nguồn huy động thị trường
vốn cũng được chính phủ quan tâm. Các đề án phát hành trái phiếu chính phủ và
trái phiếu doanh nghiệp ra nước cũng đã và đang được triển khai. Năm 2005,
chính phủ Việt Nam đã phát hành đợt trái phiếu đầu tiên trên thị trường trái
phiếu Hoa Kỳ với kết quả được đánh giá là khá thành công. Tuy nhiên đây là

hình thức huy động vốn rất mới mẻ. Việc phát hành ra thị trường quốc tế vừa có
những thuận lợi vừa có những khó khăn nhất định mà Chính phủ phải có những
chính sách khắc phục và điều tiết phù hợp
1.2. Khái niệm, đặc điểm Khu công nghiệp, khu chế xuất:
1.1.1. Khái niệm KCN, KCX:
Khái niệm về khu công nghiệp (KCN) bắt đầu xuất hiện ở châu Á vào đầu
thế kỷ 19 dưới hình thức hải cảng tự do. Sau đó nó còn xuất hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như: khu mậu dịch tự do, đặc khu kinh tế… Khu công
nghiệp có thể được hiểu là một khu vực địa lý được phân chia và phát triển một
cách có hệ thống, theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp các dịch vụ kỹ
thuật cần thiết, cơ sở hạ tầng phù hợp với sự phát triển của một liên hợp ngành
công nghiệp và sản phẩm không nhất thiết phải xuất khẩu.
Hay theo nghĩa rộng thì KCN bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ
nước sở tại cho phép chuyên môn hóa sản xuất công nghiệp. KCN là khu biệt
lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng, không phụ thuộc vào chế độ mậu
dịch và thuế quan phổ thông ở nước đó.
Còn khu chế xuất (KCX) được hình thành từ những năm đầu thập kỷ 60
nhưng mãi đến năm 1996 thì châu Á mới xuất hiện KCX đầu tiên. Chúng xuất
hiện tại Ấn Độ, Đài Loan và sau đó lan rộng ra các nước khác trong khu vực.
KCX là khu vực địa lý được khoanh vùng với các quy chế đặc biệt tách khỏi các
quy định về thuế quan, thương mại của một nước. Chúng hình thành chủ yếu để
phát triển công nghiệp chế tạo và sản phẩm dùng để xuất khẩu. Tuy nhiên tên
gọi KCX cũng tồn tại dưới nhiều hình thái ở các quốc gia khác nhau. Nếu như
Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan vẫn gọi là khu chế xuất (export processing zones)
thì ở Malayxia gọi là khu thương mại tự do (FTZs), Hàn Quốc gọi là khu xuất
khẩu tự do (FEZs), Trung Quốc là đặc khu kinh tế (SEZs) hay ở các nước Bắc
Mỹ lại gọi là khu thương mại và đầu tư tự do (FTIZs)…
. Theo Quy chế về KCN, KCX, khu công nghệ cao, ban hành kèm theo Nghị
định số 36/ 1997/ NĐ-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ, KCN ở Việt Nam
được hiểu là “khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công


10
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất”.
Cũng theo Quy chế về KCN, KCX, khu công nghệ cao thì KCX ở Việt
Nam được hiểu là “khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập”.
Các KCN, KCX có đóng góp quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
các địa phương theo hướng CNH, HĐH, đa dạng hoá ngành nghề... góp phần
chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế của cả nước, mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của KCN, KCX:
Ở các nước khác nhau KCN có sự khác nhau về quy mô, địa điểm và
phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngày nay, các KCN đã xuất hiện phổ biến
tại hầu hết các quốc gia và đang phát triển hết sức mạnh mẽ. Nhưng nói chung
các KCN đều có những đặc điểm chung sau đây:
* Thứ nhất về tính chất hoạt động:
Theo điều 6 Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm Nghị
định 36/ CP thì doanh nghiệp trong các KCN có thể là doanh nghiệp Việt Nam
thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các
bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp này và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ tại những nơi không có
dân cư, tập trung lại tạo thành các KCN. Hay nói cách khác KCN là nơi xây
dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh
doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Các lĩnh vực mà các doanh
nghiệp này được quyền kinh doanh cụ thể như: Nghiên cứu, triển khai khoa học
công nghệ đêt nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới; Xây dựng

và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng; Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản
phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước; Phát triển và kinh
doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghê…
* Thứ hai về cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống
điện nước, điện thoại… được thuận lợi thì các KCN đều cần được xây dựng hệ
thống cơ sở hạ tầng phù hợp. Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong
KCN do một công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Ở Việt

11
Nam những công ty này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài hoặc các doanh nghiệp trong nước tự thực hiện. Các công ty
phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép
cho các doanh nghiệp khác thuê lại.
* Thứ ba về tổ chức quản lý:
Mỗi KCN đều thành lập hệ thống ban quản lý KCN cấp tỉnh tại các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý
Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KCN. Bên cạnh đó, các
Bộ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp cũng tham
gia vào quản lý tại các KCN. Điều đó tạo nên một hệ thống quản lý chặt chẽ và
thích hợp
1.1.3. Vai trò của các KCN, KCX:
Nhìn lại 20 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta có thể rút ra
được những bài học quí giá cho quá trình hội nhập. Nhưng bài học quí giá nhất
là phải mở cửa để đón nhận, hòa mình vào dòng chảy của thời đại, mới có thể
mưu cầu sự phát triển cho đất nước. Trong quá trình mở cửa ấy lựa chọn chính
sách và lộ trình ra sao cho phù hợp là một bài toán lớn, cần được nghiên cứu,
phân tích một cách khoa học, chính xác và đầy đủ nhất. Trong 20 năm thực hiện
cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể trên mọi phương diện, đặc biệt phải kể đến về mặt kinh

tế. Tạo nên những thành quả đó có sự đóng góp của rất nhiều các yếu tố. Trong
đó không thể không kể đến sự đóng góp đáng kể của các KCN, KCX. Chúng có
vai trò quan trọng và được thể hiện cụ thể như sau:
* Đầu tiên phải kể đến vai trò quan trọng của các KCN, KCX đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
Trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam phải kể đến sự
đóng góp to lớn của các KCN, KCX. Chúng giữ một vai trò quan trọng trong
định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng cường khả năng
tiếp nhận công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiến tiến, tạo việc làm cho
người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy xuất nhập khẩu. Điều đó
được thể hiện rõ ở các mặt cụ thế sau:
- Trước hết về giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong các
KCN- KCX cả nước đạt 16.8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm
khoảng 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước trong năm 2006.

12
- Giá trị xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trong các KCN- KCX
năm 2006 đạt khoảng 8.3 tỷ USD, tăng hơn 22% so với năm 2005 và chiếm 28%
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp xuất khẩu của cả nước.
- Cũng trong năm 2006, 880 triệu USD là số tiền mà các doanh nghiệp
này đã nộp cho ngân sách, tăng 35.4% so với năm trước.
- Các KCN, KCX còn được ví như các thỏi nam châm thu hút một lượng
lớn vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Phần lớn số vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2006 đã chảy vào vùng trũng là các
khu công nghiệp trên cả nước. Dự báo, với Quy hoạch phát triển các khu công
nghiệp đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt, các khu công nghiệp sẽ là tâm điểm hút nguồn vốn FDI, dự kiến đạt
khoảng 6 tỷ USD/năm. Con số cuối cùng về thu hút FDI trong năm 2006, theo
công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vào khoảng 10 tỷ USD, trong đó vốn cấp
mới là 7,5 tỷ USD, còn lại là vốn đăng ký bổ sung. Và trong tổng vốn đăng ký

cấp mới cho 797 dự án, riêng các khu công nghiệp và khu chế xuất trong cả
nước đã chiếm tới 48,6% tổng vốn đăng ký. Các KCN, KCX trên cả nước có
5056 dự án còn hiệu lực, bao gồm 2433 dự án đầu tư nước ngoài, 2623 dự án
đầu tư trong nước, đã có gần 3424 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và trên
856 dự án đang triển khai xây dựng cơ bản. Như vậy, tính từ trước đến nay, các
khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút gần 7000 dự án đầu tư nước ngoài với
tổng số vốn đăng ký trên 42 tỷ USD.
- Các doanh nghiệp trong các KCN- KCX đã đi tiên phong trong việc thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng công nghệ, dây chuyền sản xuất tiên tiến. Từ
đó góp phần quan trọng vào việc đổi mới hoàn thiện thể chế kinh tế, hệ thống
pháp luật, thủ tục hành chính, nhất là thể chế tiền tệ và tín dụng, ngoại hối của
các địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Như vậy các doanh nghiệp này
đã thúc đẩy việc đổi mới và hoàn thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh, góp phần thay đổi bộ mặt và cấu trúc mạng lưới thương mại
hàng hóa và dịch vụ, cơ cấu hệ thống hậu cần thương mại cũng như toàn bộ lĩnh
vực phân phối, lưu thông và dịch vụ xã hôi.
- KCN- KCX góp phần quan trọng trong việc mở rộng thị trường, đẩy mạnh
kinh tế đối ngoại và tăng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực hành lang kinh tế.
Các KCN có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu nhờ đa dạng hóa thị trường, đa phương
hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Giá trị xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp đạt
khoảng 8.3 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp của
cả nước.
- Các KCN- KCX tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế mạnh đặc
thù vốn có của mình đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ phát triển sản xuất
trong vùng, miền và cả nước. Chúng góp phần tạo ra những năng lực sản xuất

13
mới, ngành nghề và công nghệ mới. Điều đó làm cho cơ cấu kinh tế của địa
phương từng bước chuyển biến theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

- Bên cạnh đó, các KCN- KCX còn tạo ra nhiều công ăn việc làm, góp
phần giải quyết tình hình thất nghiệp. Trong năm 2006 các KCN đã thu hút thêm
gần 118,000 lao động trực tiếp, tăng 15% so với năm trước, đưa tổng số lao
động trực tiếp trong KCN- KCX lên 918,000. Các KCN- KCX phát triển cũng
đòi hỏi một lượng lao động có kỹ năng chất lượng hơn, đội ngũ lành nghề để
phục vụ tốt trong giai đoạn hội nhập thế giới hiện nay. Có như vậy mới tăng
được tính cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy mà làm gia tăng chất lượng nguồn
nhân lực.
* Vai trò của các KCN- KCX trong quá trình mở cửa, hội nhập thế giới
hiện nay:
Đại hội Đảng khóa VI năm 1986 đã đưa ra quan điểm “sẵn sàng mở rộng
quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở hau bên
cùng có lợi và không có điều kiện chính trị ràng buộc, nhưng phải chủ động
phòng ngừa, tránh bị lệ thuộc”. Quan điểm này cũng được nâng cao qua các kỳ
đại hội. Đại hội VII, 1991 là “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế”. Đại
hội Đảng khóa IX năm 2001 là “trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; tích cực chủ động
thâm nhập, mở rộng thị trường quốc tế” và đến Đại hội Đảng khóa X năm 2006
là “lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất và là nguyên tắc chủ đạo;
đồng thời linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thông lệ quốc tế”. Như vậy có thể
thấy rõ nhà nước ta đã ý thức rõ vai trò của việc mở cửa hợp tác quốc tế trong
việc phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Xuất phát điểm nước ta rất thấp, điều kiện nền tích lũy nội bộ còn chưa
cao nên việc thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. KCN, KCX
là một mô hình quản lý kinh tế hiện đại, tập trung, hiệu quả, là giải pháp hữu
hiệu nhằm huy động vốn đầu tư nước ngoài, cũng là điểm giao thoa của nền
kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải từng
bước học hỏi, nâng cao nhận thức cho phù hợp. Đồng thời phải chuẩn hóa luật
pháp cho phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp đất nước trở thành một quốc gia có
nền kinh tế phát triển khá trong khu vực. Đặc biệt hướng theo mục tiêu đến năm

2020, Việt Nam căn bản sẽ trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành viên của WTO, đây là
một bước ngoặt lớn đánh dấu sự trưởng thành mạnh mẽ của đất nước ta. Việc
gia nhập WTO đã tạo nhiều cơ hội cho nước ta trong việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, biến Việt Nam trở thành điểm đầu tư hấp dẫn với các nhà đầu tư
nước ngoài, đặc biệt là các thành viên trong WTO. Các doanh nghiệp nước

14
ngoài đã liên tục đến Việt Nam để tìm hiểu các cơ hôi đầu tư, do đó số dự án đã
không ngừng tăng qua các năm. Đã có nhiều dự án với vốn đầu tư trên 500 triệu
USD đang được cấp phép để đi vào hoạt động, trong đó KCN- KCX đã thu hút
được một lượng rất lớn.
* KCN góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng:
Các KCN một khi được đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng sẽ có tác
dụng kích thích sự phát triển của địa phương. Từ đó sẽ rút ngắn được khoảng
cách giữa nông thôn với thành thị. Cùng với quá trình phát triển của các KCN
thì các điều kiện về cơ sở hạ tầng trong khu vực cũng sẽ được cải thiện đáng kể
đồng thời thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sỏ dịch vụ trong vùng. Khi
một doanh nghiệp nước ngoài xem xét có đầu tư vào nước nhận vốn hay không
thì vấn đề cơ sở hạ tầng có một ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định đó.
Hay việc xây dựng hoàn thiện và đồng bộ kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trò
quyết định trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Việc
các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng KCN- KCX không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong KCN- KCX hoạt động có hiệu quả mà còn tạo sự đa dạng hóa
thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn trong
việc thu hút doanh nghiệp công nghiệp vào các KCN.
Bên cạnh đó việc hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN-KCX không
những thu hút các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
mở rộng quy mô để tăng năng lực sản xuất cạnh tranh. Điều này còn giúp cho

các địa phương giải quyết được các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị,
tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ cho các lợi ích cộng đồng. Nguồn vốn
Ngân sách không thể giải quyết hết việc cải tạo kết cấu hạ tầng, điều đó đòi hỏi
có một nguồn vốn rất lớn, một thời gian dài và công sức bỏ ra đáng kể. Chính vì
vậy mà cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư như
ngành điện, giao thông vận tải, cảng biển… là một giải pháp khá hữu hiệu nhằm
đáp ứng nhu cầu hoạt động của các KCN.
* KCN, KCX giúp nâng cao trình độ công nghệ, hiện đại hóa cách thức
quản lý sản xuất:
Khi một doanh nghiệp nước ngoài đem vốn đầu tư đến tại nước sở tại để
hoạt động kinh doanh thì đồng thời cũng mang theo những công nghệ tiên tiến,
hiện đại cùng với trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp. Điều
đó góp phần giúp các nước đang phát triển tiến dần hơn với công nghệ phát triển
trên thế giới, tạo điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế trong nước. KCN- KCX là
nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các
KCN- KCX không chỉ là nơi hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài mà còn là nơi

15
tiếp nhận những dây chuyền sản xuất tiên tiến, công nghệ cao. Đối với nền kinh
tế còn yếu kém, chưa phát triển thì việc tiếp cận với các công nghệ trên thế giới,
học tập các nước bạn là một việc cần khuyến khích nên làm. Với tỷ lệ trên 50%
các ngành công nghiệp nhẹ đã thu hút được nhiều dự án đầu tư vào các KCN
như da giầy, dệt may… Trong quá trình kinh doanh các ngành này thu hút một
lượng lớn lao động đảm bảo cả về chất lượng và số lượng. Còn các ngành đòi
hỏi vốn lớn và công nghệ cao như sản xuất lắp ráp ôtô, dầu khí, vật liệu xây
dựng… thì chiếm tỷ trọng ít hơn nhưng cũng góp phần đáng kể vào công cuộc
đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề công nghiệp.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp nước ngoài có
yêu cầu gắt gao về chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng nguồn nhân lực.

Vì muốn tạo những sản phẩm tốt thì người lao động cũng phải có tay nghề cao.
Chính vì thế khi doanh nghiệp nước ngoài sang đầu tư tại nước ta cũng sẽ góp
phần đào tạo một đội ngũ lao động lành nghề. Từ đó trình độ dân trí của chúng
ta cũng được nâng cao, đồng thời người dân Việt Nam cũng sẽ được tiếp cận với
cách làm việc khoa học, kỷ luật cao, tác phong công nghiệp của các nước phát
triển trên thế giới. Từ đó học tập, rút ra bài học góp phần xây dựng đất nước
giàu mạnh hơn.
1.3. Sự cần thiết của việc thu hút vốn đầu tư vào các khu KCN, KCX ở Việt
Nam
Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế, và từ đó để thoát ra khỏi
cảnh nghèo thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn
tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ
tầng…Do đó trong những bước đi ban đầu, để tạo ra được cú “hích” đầu tiên
cho sự phát triển, để có được tích lũy ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát
triển kinh tế, không thể không huy động vốn từ nước ngoài, và các nguồn vốn
đầu tư từ trong nước.
* Trước hết có thể thấy rõ rằng việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt vốn FDI vào
các KCN- KCX sẽ tạo ra sức hấp dẫn với các công ty xuyên quốc gia (TNCs)
hay các công ty có tiềm lực tài chính lớn. Việt Nam đã thu hút được các tập
đoàn lớn vào kinh doanh tại Việt Nam. Điều đó đã tạo ra uy thế cho Việt Nam
cũng như giá trị sản phẩm trên trường quốc tế. Hiện có trên 110 các tập đoàn đa
quốc gia (TNCs) trong danh sách 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới (do
tạp chí uy tín Fortune 500 công bố) đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng
ký là 11,09 tỉ USD, chiếm một tỉ trọng lớn, 20% tổng vốn FDI của cả nước.
KCN- KCX được hiểu là những nơi được hưởng ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu
tư, phát triển công nghiệp, dịch vụ. Trong năm 2007, Việt Nam có hơn 1.400 dự
án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư

16
đăng ký đạt 17,86 tỷ USD. Như vậy môi trường đầu tư trong các KCN sẽ hấp

dẫn các công ty TNCs trên th
* Các KCN- KCX trở thành nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả các thành
tựu khoa học – công nghệ tiên tiến trên thế giới, tiếp thu kinh nghiệm quản lý
cao vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đất nước ta còn nghèo, chính vì
vậy sự thiếu thốn đầu tư cho phát triển lại càng nổi lên như một cản trở chủ yếu
đối với yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Việc ra đời các KCN- KCX với cơ sở vật
chất hiện đại sẽ tạo điều kiện phát huy được tốt nhất những lợi thế về công nghệ,
về kinh nghiệm quản lý do các nhà đầu tư nước ngoài mang lại. Vì khi các nhà
đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại nước sở tại, họ không chỉ mang theo một lượng
vốn lớn mà còn mang theo dây chuyền công nghệ hiện đại tiên tiến, trình độ kỹ
thuật quản lý cao. Đó cũng là những điều mà nước ta còn yếu kém và cần phải
học hỏi nhiều ở các nước phát triển trên thế giới. Quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước cùng với hội nhập kinh tế quốc tế sẽ kéo theo quá trình đổi
mới khoa học, công nghệ. Quá trình đó bao gồm nhiều mặt, nhiều hoạt động
nhưng chủ yếu tập trung chú ý vào đổi mới công nghệ: nhập công nghệ mới,
nắm bắt và đưa công nghệ mới vào sản xuất, cải tiến và sáng tạo công nghệ.
Công nghệ mới bao gồm các thành phần chính: thiết bị, kỹ thuật, phương pháp
chế tạo sản phẩm; công nhân kĩ sư am hiểu công nghệ mới; tổ chức, quản lý
công nghệ mới. Quá trình đổi mới công nghệ diễn ra rộng khắp, từ doanh
nghiệp, các công ty, hợp tác xã, cá ngành, đến các địa phương.

17
* Thu hút vốn đầu tư vào các KCN đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Việt Nam vừa trải qua 20 năm đổi mới, chúng ta đã
chuyển đổi thành công từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường. Đối với nguồn nhân lực, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ
dẫn tới sự chuyên môn hóa sâu sắc của ngưới lao động Việt Nam, thúc đẩy sự
phát triển, sự thay đổi về nhiều mặt trong cơ cấu nguồn nhân lực, làm biến
chuyển từ một cơ cấu lạc hậu sang một cơ cấu tiến bộ hơn. Việc mở cửa nền

kinh tế sẽ thu hút vốn đầu tư, đặc biệt nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công
nghệ mới vào Việt Nam kéo theo sự ra đời của nhiều công việc, các nghề, kinh
nghiệm và kỹ năng quản lý mới cho nguồn lao động ở Việt Nam. Từ đó buộc
các nhà kinh doanh sẽ tập trung đầu tư phát triển để người lao động có trình độ
và kĩ năng làm việc cao hơn, phong cách làm việc năng động hơn để phù hợp
với môi trường làm việc công nghiệp, chủ động. đồng thời quá trình hội nhập
kinh tế thế giới đòi hỏi hàng hóa, dịch vụ Việt Nam phải có sức cạnh tranh trên
thị trường thế giới, đòi hỏi người lao động cần phải đươc đào tạo sâu hơn về tay
nghề, trình độ kĩ thuật để có thể vận hành được những máy móc thiết bị hiện đại.
Thị trường lao động theo đó cũng được mở rộng ra quốc tế. phát triển thị trường
đồng nghĩa với phát triển, mở rộng phân công lao động, chuyên môn hóa sản
xuất, chuyên môn hóa lao động.
Bên cạnh đó thu hút vốn đầu tư vào các KCN- KCX sẽ tạo thêm năng lực sản
xuất mới trong nhiều ngành kinh tế then chốt đối với sự nghiệp CNH-HĐH, góp
phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo tài nguyên
kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề
mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kĩ thuật hay cần nhiều vốn. Vì
vậy nguồn vốn này có tác dụng cực kì to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước
nhận đầu tư. Đồng thời đẩy mạnh công nghiệp xuất khẩu và kim ngạch xuất
khẩu của đất nước.
Trong khi nền kinh tế đất nước còn gặp nhiều khó khăn, Việt Nam tập trung
đầu tư vào mô hình KCN- KCX là rất cần thiết và lâu dài sẽ xây dựng một môi
trường đầu tư bình đẳng giữa các khu vực trong và ngoài KCN. Rõ ràng việc
hình thành và phát triển các KCN- KCX như là những “khu vực riêng” với
những điều kiện ưu việt hơn khu vực ngoài KCN rất phù hợp với tình hình kinh
tế Việt Nam. Các KCN- KCX với kết cấu hạ tầng đồng bộ, môi trường pháp lý
thuận lợi và thống nhất để tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vai trò của
các KCN càng trở nên cấp thiết vì các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang

đứng trước thách thức rất lớn của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Đến cuối năm 2005 đã có 131 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ
tầng trên cả nước, với tổng vốn đầu tư đạt hơn 1 tỷ USD và 33.000 tỷ đồng. Đã

18
có 79 KCN, KCX hoàn thành xây dựng cơ bản với tổng vốn hơn 760 triệu USD
và 20.000 tỷ đồng, vốn thực hiện hơn 500 triệu USD và 8.000 tỷ đồng. Như vậy
Việt Nam đã phải huy động một lượng vốn rất lớn. Nếu không tận dụng hiệu
quả vốn để khai thác hết thế mạnh của các KCN- KCX thì sẽ gây ra một sự lãng
phí các nguồn lực. Như vậy nhìn chung ta thấy rằng nhu cầu tăng cường thu hút
vốn đầu tư vào các KCN ở Việt Nam hiện nay là sự cần thiết, đặc biệt trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước.
PHẦN II: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát chung tình hình thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam
2.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam.
Sự ra đời của các KCN-KCX là điều kiện cần thiết, đặc biệt trong quá trình
Việt Nam thực hiện Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Vì thế, quá trình
hình thành và phát triển các KCN-KCX ở Việt Nam gắn liền với các đường lối
chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước, của chính phủ và theo những quy
hoạch xác định. Tháng 9/1991, KCX Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh với
diện tích 300 ha ra đời, được coi là cột mốc đầu tiên đánh dấu quá trình hình
thành và phát triển của các KCN-KCX ở Việt Nam. Trong 2 năm tiếp theo, chỉ
có thêm KCX Linh Trung 1 thành phố Hồ Chí Minh được thành lập thêm. Sau

19
khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 có quy định khuyến khích thu
hút đầu tư nước ngoài vào các KCN-KCX thì việc thành lập các KCN-KCX đa

tăng thêm. Tuy vậy, tính chung trong giai đoạn đầu, năm 1991-1995 mới chỉ có
khoảng 12 KCN-KCX được thành lập và đây được coi như là giai đoạn “thí
điểm” cho việc thành lập các KCN-KCX.
Bảng 1: số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập từ năm
1998- 2007
Chỉ tiêu Số lượng
KCN-KCX (cộng
dồn)
Tổng diện tích
(ha) (cộng dồn)
Diện tích bình
quân 1 khu (ha)
1991-1995 12 2370 197,5
1996 25 4569 182,8
1997 45 7619 162,1
1998 62 10108 163,0
1999 67 10452 156,0
2000 68 11023 164,7
2001 70 11800 173,5
2002 80 14376 179,7
2003 100 17627 176,3
2004 113 21892 195,5
2005 130 26517 204,0
2006 150 32671 217,8
2007 183 43687 238,7
Biểu đồ 1: Số KCN- KCX thể hiện qua các năm

20
Năm 1996, số KCN-KCX được tăng thêm 13 khu lên con số 25 KCN-KCX
Và đặc biệt, năm 1997, với việc ban hành “Quy chế quản lý KCN-KCX và Khu

công nghệ cao” kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính Phủ đã
tạo khung pháp lý thống nhất cho việc thành lập và hoạt động của các KCN. Vì
thế năm 1997, số KCN đã thành lập lên tới 45 khu với tổng diện tích là 7619 ha.
Các năm sau đó, chịu những khó khăn chung bởi cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ trong khu vực, số KCN-KCX có tăng lên song không lớn lắm. Từ năm
2001 trở đi, số KCN-KCX đã thực sự tăng lên nhanh chóng, trung bình năm sau
cao hơn năm trước 20%. Và cùng với văn kiện Đại hội IX năm 2001 chỉ rõ
“Quy hoạch phân bố hợp lý KCN trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN-
KCX , xây dựng Khu công nghiệp cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và
khu vực kinh tế mở”. Đến năm 2003, số KCN-KCX là tròn con số 100 khu với
tổng diện tích là 17.627 ha và đến hết năm 2007, con số này đã lên tới 183 khu
với tổng diện tích đất là 43.687 ha.
Sự phát triển các KCN-KCX tập trung trong giai đoạn vừa qua rộng khắp
trên phạm vi toàn quốc, song nhìn chung tập trung chủ yếu ở khu vực ba vùng
kinh tế trọng điểm. Trong tổng số 183 khu công nghiệp, thì tại 3 vùng kinh tế
trọng điểm đã có tới 133 khu công nghiệp (chiếm 72,7%) với tổng diện tích tự
nhiên 35.346 ha (chiếm 80,9%); riêng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có 87
khu công nghiệp (chiếm 47,5%) với tổng diện tích tự nhiên 24.198 ha (chiếm
55,3%)...

21
Không chỉ phát triển về lượng và việc xây dựng các KCN-KCX còn được
điều chỉnh, tính toán theo hướng ngày một hợp lý hơn, tức được chú trọng phát
triển cả về chất. Việc xây dựng, phát triển và phân bố các KCN-KCX phải được
thực hiện theo những nguyên tắc nhất định:
• Về địa điểm lựa chọn:
Trước hết, đó phải là nơi có khả năng tạo ra kết cấu hạ tầng, thuận lợi về giao
thông vận tải, cung cấp điện, cấp nước và thải nước. Là nơi có địa điểm đủ rộng
đảm bảo cho việc mở rộng và phát triển lâu dài trong tương lai. Là nơi có khả
năng xử lý môi trường bảo đảm có hiệu quả.

Thứ hai, địa điểm bố trí gần nơi cung cấp nguyên vật liệu và thích hợp với
việc tiêu thụ sản phẩm của dự án trong nước cũng như xuất khẩu nước ngoài.
Thứ ba, đặt tại nơi có nguồn lao động cả số lượng và chất lượng đáp ứng được
yêu cầu sản xuất với chi phí tiền lương thích hợp.
Thứ tư, tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp đặc biệt là trồng trọt trong việc sử
dụng đất để xây dựng khu công nghiệp.
Thứ năm, địa điểm xây dựng phải phù hợp với quy hoạch chung và đảm bảo
yêu cầu về an ninh quốc phòng trong những điều kiện cụ thể ở từng khu vực và
từng giai đoạn.
* Về việc lựa chọn các ngành công nghiệp phát triển trong các KCN-KCX.
Thứ nhất, lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển nhanh hơn, với
mức đầu tư tập trung hơn, tạo tiền đề thúc đẩy các ngành công nghiệp khác.
Điều này, xuất phát từ một thực tế khách quan là nước ta là nước có xuất phát
điểm thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, với việc lựa
chọn các ngành công nghiệp mũi nhọn sẽ tạo đà cho việc chuyển dịch cơ cấu sản
xuất và xuất khẩu của ngành công nghiệp nước ta, phục vụ chiến lược cho công
cuộc CNH-HĐH đất nước, đáp ứng được với nhu cầu thế giới đang gia tăng.
Thứ hai, việc lựa chọn các ngành phải khai thác được lợi thế so sánh, những
ưu thế vượt trội của Việt nam so với các nước… qua đó mà nâng cao sức cạnh
tranh. Những lợi thế so sánh đó có thể là: ưu tiên chọn những ngành sử dụng
nhiều lao động giản đơn như công nghiệp dệt-may, da-giầy, đồ gỗ…; ưu tiên
chọn những ngành sử dụng nhiều nguyên liệu từ nông nghiệp như các ngành
công nghiệp chế biến thuỷ hải sản, lương thực, thực phẩm, đồ hộp xuất khẩu…
Bên cạnh đó, là việc phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật
cao hơn như ngành công nghiệp chế tạo đồ gia dụng, điện công nghiệp, công

22
nghệ thông tin, điện tử viễn thông…thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ,
học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước tiên tiến trên thế giới.
2.1.2. Tình hình chung thu hút vốn đầu tư vào các KCN-KCX Việt Nam.

2.1.2.1 Khái quát chung tình hình thu hút vốn đầu tư vào các KCN- KCX
ở Việt Nam
KCN hiện nay là đầu mối quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong nước
và ngoài nước thuộc các thành phần kinh tế khác nhau: các Doanh nghiệp Nhà
nước, các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Vốn đầu tư vào các KCN-KCX là đầu tư để phát triển hạ tầng và
vốn đầu tư sản xuất kinh doanh.
Bảng 2: Tình hình thu hút đầu tư vào KCN-KCX cả nước tính đến cuối năm
2007
Chỉ tiêu
Vốn đầu tư phát
triển hạ tầng
Vốn đầu tư sản xuất kinh doanh
Đăng ký Hoạt động
Số dự án Số vốn Số dự án Số vốn
Số dự
án
Số vốn
Đầu
tư nước
ngoài
31 1.872
triệu
USD
3.020 29.87
2 triệu
USD
2012 14.046
triệu USD
Đầu

tư trong
nước
152 57.60
0 tỷ
đồng
3.070 197.3
82 tỷ
đồng
1930 104.261
tỷ đồng
Nguồn: tổng hợp từ Vụ Quản lý KCN-KCX, Bộ Kế hoạch Đầu tư
* Về đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng KCN-KCX:
Đây là nguồn vốn cũng rất quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn các KCN-
KCX ở Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, hình thành và phát triển. Vốn
đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng cũng tăng lên về số lượng tuyệt đối trong thời
gian vừa qua nhưng lại có xu hướng giảm tương đối so với vốn đầu tư vào sản
xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm 2007, các KCN-KCX đã thu hút được 31
dự án đầu tư nước ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng là với số vốn là 1.872
triệu USD, và 152 dự án đầu tư trong nước với số vốn là 57.600 tỷ đồng. Như
vậy, có thể thấy, vốn trong nước chiếm tỷ trọng chủ yếu trong việc đầu tư vào
phát triển cơ sở hạ tầng: chiếm khoảng 55% mà chủ yếu là vốn Ngân sách nhà
nước. Tuy vậy, với chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau
trong việc tham gia đầu tư vào xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, vốn nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực này đang có xu hướng tăng lên. Riêng trong năm 2007

23
đã có 14 dự án đầu tư nước ngoài và 31 dự án đầu tư trong nước vào phát triển
kết cấu hạ tầng khu công nghiệp với tổng vốn trên 870 triệu USD và 20.200 tỷ
đồng. Như vậy, riêng trong năm vừa qua, số vốn đầu tư của nước ngoài vào lĩnh
vực kết cấu hạ tầng đã chiếm phân nửa tống số vốn đầu tư của nước ngoài vào

phát triển kết cấu hạ tầng cho các KCN-KCX trong 17 năm vừa qua.
* Về đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong các KCN-KCX:
- Đầu tư nước ngoài:
Trong những năm đầu mới thành lập KCN giai đoạn 1991-1998, cùng với luật
Đầu tư nước ngoài khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các
KCN-KCX . Vì vậy, số dự án đầu tư nước ngoài cùng với số vốn đầu tư ở giai
đoạn này tăng với tốc độ cao và số dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn
nhiều so với số dự án đầu tư trong nước, trong giai đoạn từ 1995-1998, số dự án
đầu tư nước ngoài tăng bình quân hơn 40%/năm, số vốn đầu tư đăng ký tăng
bình quân 60%/năm, số lượng các dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn từ 3-
4 lần so với số dự án trong nước. Tiếp 2 năm sau, 1998-1999 do tác động của
khủng hoảng kinh tế - tài chính tại Châu á, số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài
đã tăng với tốc độ chậm hơn: số dự án tăng 20%, số vốn chỉ tăng 8% và đến năm
2000 số dự án tăng hơn 30% và số vốn tăng 40%. Từ năm 1998 đến nay, số dự
án đầu tư nước ngoài tăng bình quân 25% năm. Đến năm 2004, cả nước có trên
1700 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng
14,67 tỷ USD. Năm 2005 đã thu hút được 2.120 dự án có vốn đầu tư nước ngoài
còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt 16,843 tỷ USD và đến năm 2007 là 3.020 dự
án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn 29.872 triệu USD.
- Đầu tư trong nước
Trong những năm đầu xây dựng KCN, do chưa nhận thức được tầm quan
trọng việc huy động vốn trong nước vào các KCN, nên số vốn đầu tư của các
doanh nghiệp trong nước vào các KCN-KCX còn thấp. Các doanh nghiệp trong
nước đầu tư vào các KCN-KCX chủ yếu là các doanh nghiệp thành lập từ trước,
do nhu cầu mở rộng sản xuất, cần di dời từ ngoài vào trong các KCN.
Từ năm 1998, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành cùng với
các Nghị định quy định chi tiết thi hành có những ưu đãi và khuyến khích đối
với các dự án trong nước đầu tư vào KCN. Do vậy:
+ Về số dự án trong nước vào KCN: từ năm 1998 tăng đáng kể, năm 1998-
1999 tăng 84% từ 132 dự án lên 244 dự án, giai đoạn 1999-2000 tăng 93% từ

244 dự án lên 472 dự án. Các năm sau tăng đều đặn bình quân khoảng 35%.
Những năm gần đây, số lượng các dự án trong nước tăng với tốc độ cao hơn so
với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt Luật Thuế thu nhập doanh

24
nghiệp ra đời cùng với các Nghị định hướng dẫn đã dần đưa các ưu đãi về thuế
thu nhập doanh nghiệp của khu vực trong nước và ngoài nước về cùng một mặt
bằng, vì vậy đến năm 2004 số dự án trong nước đạt trên 1.800 dự án tăng 46%
so với năm 2003. Đến cuối năm 2005 là 2.367 dự án.
+ Về số vốn đầu tư, giai đoạn 1995-1998, vốn đầu tư của khu vực trong nước
vào KCN tăng bình quân mỗi năm khoảng 15%, sau năm 1998, vốn đầu tư tăng
với tốc độ cao hơn, đặc biệt các năm 1999 và 2000 vốn đầu tư tăng đột biến, hơn
20 lần so với năm trước do dự án Nhà máy điện Phú Mỹ I được triển khai tại
KCN Phú Mỹ I (Bà Rịa - Vũng Tàu). Đến năm 2004 tổng vốn đầu tư đăng ký
đạt gần 90.000 tỷ đồng, gấp hơn 13 lần về số vốn đầu tư so với năm 1995. Đến
cuối năm 2005, tổng vốn đầu tư hơn 113.000 tỷ đồng.
Tính chung, đến cuối năm 2007 các khu công nghiệp trong cả nước đã thu
hút được 3.020 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn 29.872 triệu USD,
và 3.070 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 197.382 tỷ đồng. Như
vậy, vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN-KCX trong 17 năm vừa qua cao gấp
khoảng 2,5 lần so với vốn đầu tư trong nước.
Trong số này đã có 2.012 dự án đầu tư nước ngoài và 1.930 dự án đầu tư trong
nước đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 14.046 triệu USD và
104. 261 tỷ đồng, tương ứng với 47% và 53% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Bảng 3: Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN-KCX so với cả nước

m
KCN-KCX Cả nước Tỷ trọng vốn đầu tư
Vốn nước ngoài vào
KCN-KCX so với cả

nước

m
Số dự
án thực
hiện
Số vốn
thực
hiện
Số dự
án thực
hiện
Số vốn
thực
hiện
200
1
211 884 555 2450,
5
36,1%
200
2
302 801 808 2591,
0
30,9%
200
3
259 873 791 2650,
5
32,9%

200
4
286 1.182 811 2852,
5
41,4%
200
5
343 2.173 970 3308,
8
65,67%
200
6
356 2430 987 4100,
1
59,26%
200
7
387 2.600 1445 8030,
0
32,4%

25

×