Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Tăng cường thu hút và triển khai dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.86 KB, 93 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một tất yếu khách quan. Việt Nam xây dựng,
phát triển nền kinh tế từ một xuất phát điểm thấp và thiếu vốn. Vì vậy, nhu
cầu vốn đầu tư nước ngoài trở nên cấp thiết để đẩy nhanh hơn tốc độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Học tập kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển đi trước. Việt
Nam đã xây dựng mô hình “khu công nghiệp” để thu hút đầu tư nhằm thực
hiện các mục tiêu đã đặt ra. Mỗi địa phương trong nước, tùy theo điều kiện tự
nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và lợi thế so sánh của mình mà có những định
hướng phát triển khu công nghiệp phù hợp. Mô hình khu công nghiệp chính là
nơi tập trung điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài, làm tăng
tính hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cho môi trường đầu tư Việt Nam.
Những năm vừa qua, Hà Nội đã chủ trương xây dựng đồng bộ các khu
công nghiệp nằm trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước. Hà Nội có năm khu công nghiệp tập trung là: Nội Bài, bắc Thăng Long,
Sài Đồng B, Hà Nội – Đài Tư và khu công nghiêp nam Thăng Long. Các khu
công nghiệp này nằm ở vị trí hết sức thuận lợi, là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài. Các công ty đa quốc gia đang hoạt động sản xuất trong các khu
công nghiệp của Hà Nội như: Pentax, Orion – Hanel, Canon, Sumitormo,
Toto…Các doanh nghiệp này có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm rất cao qua đó làm
tăng tỷ lệ xuất khẩu của thành phố, đồng thời cũng thu hút và đào tạo nhiều
lao động có tay nghề góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế - xã hội
của thủ đô Hà Nội. Các khu công nghiệp Hà Nội đã góp phần làm dịch
chuyển cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, phát triển các
ngành dịch vụ và công nghiệp phụ trợ. Tính đến hết năm 2007 vốn đầu tư
nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội trên 2 tỷ USD. Tỷ lệ vốn thực
hiện so với tổng vốn được đăng ký đầu tư là trên 60%.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được thì hoạt động thu hút và triển


khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội
đã bộc lộ một số khiếm khuyết. Ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất
Hà Nội với vai trò là cầu nối giữa nhà đầu tư với các cơ quan chủ quản chưa
tích cực phối hợp với các đơn vị trong thành phố đẩy mạnh hoạt động xúc tiến
đầu tư, môi trường đầu tư và kinh doanh, thủ tục hành chính “một cửa, tại
chỗ” chưa được cải cách triệt để, cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng
rào chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ, công tác giải phóng mặt bằng gặp
khó khăn, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong các khu công nghiệp còn thiếu
và chất lượng chưa cao, cơ cấu giá kinh doanh có sự khác nhau giữa các khu
công nghiệp…khiến cho sự hấp dẫn, thu hút và triển khai các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội chưa đạt được hiệu quả
như mong đợi. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đánh giá một cách sát thực
hoạt động thu hút và triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các
khu công nghiệp của Hà Nội, từ đó đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm
đẩy mạnh hoạt động này là việc làm hết sức cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả đã
chọn đề tài: “Tăng cường thu hút và triển khai dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội” để nghiên cứu trong luận văn của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2. 1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường thu hút và triển khai
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện các nhiệm
vụ sau:
Hệ thống hóa lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu công nghiệp,
thu hút và triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công
nghiệp.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thu hút và triển khai các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội, từ đó làm rõ

những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong hoạt động thu hút và triển
khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội.
Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường thu hút và triển khai
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thu hút và triển khai dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp (5 khu công nghiệp
tập trung là: Nội Bài, bắc Thăng Long, Sài Đồng B, Hà Nội – Đài Tư và khu
công nghiêp nam Thăng Long). Cụ thể luận văn sẽ nghiên cứu hoạt động thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở giác độ thành phố và Ban quản lý các khu
công nghiệp và chế xuất Hà Nội từ khâu xúc tiến đầu tư đến khâu cấp Giấy
chứng nhận đầu tư và đi vào triển khai dự án các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong các khu công nghiệp Hà Nội.
Về thời gian: luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về hoạt động thu hút và
triển khai dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp Hà Nội
từ năm 2001 (năm bắt đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế Hà Nội giai
đoạn 2001 – 2010) đến năm 2007 và đề xuất một số định hướng và giải pháp
nhằm đẩy mạnh hoạt động này từ nay đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng đồng
thời nhiều phương pháp nghiên cứu để luận giải các vấn đề lý luận và thực
tiễn về thu hút và triển khai dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu
công nghiệp Hà Nội như:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở phương pháp luận.
Phương pháp thống kê: tổng hợp và hệ thống các số liệu thống kê về hoạt
động thu hút và triển khai dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công
nghiệp Hà Nội, đồng thời kết hợp với các phương pháp quy nạp, diễn giải,
phân tích…
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các thông tin được công bố chính thức,

gồm số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết về đầu tư trực tiếp nước ngoài của
Bộ kế hoạch và Đầu tư, sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, Ban quản lý các khu
công nghiệp và chế xuất Hà Nội và và các tài liệu khác có liên quan đến hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
luận văn được chia thành 03 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thu hút và triển khai dự án FDI và sự cần
thiết phải tăng cường thu hút và triển khai dự án FDI vào các KCN Hà Nội
Chương 2: Thực trạng thu hút và triển khai dự án FDI vào các KCN Hà
Nội
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp tăng cường thu hút và triển
khai dự án FDI vào các KCN Hà Nội
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT VÀ TRIỂN KHAI DỰ ÁN FDI
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ TRIỂN KHAI
DỰ ÁN FDI VÀO CÁC KCN HÀ NỘI
Chương này, luận văn đề cập đến những vấn đề lý luận về thu hút và
triển khai dự án FDI vào các KCN; Chỉ ra sự cần thiết phải thu hút và triển
khai dự án FDI vào các KCN Hà Nội.
1.1. TỔNG QUAN VỀ KCN
1.1.1. Khái niệm KCN
KCN là mô hình kinh tế linh hoạt, hấp dẫn các nhà ĐTNN, vì họ hy vọng
vào thị trường nội địa, một thị trường có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hóa
của mình. Việc cho phép tiêu thụ hàng hóa tại thị trường nội địa sẽ kích thích
cạnh tranh sản xuất trong nước từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu, góp phần
tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu. Theo Luật đầu tư số
59/2005/QH10 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì:
“KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất hàng công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập

theo quy định của Chính phủ.
Khu chế xuất là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ
cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công
nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ
cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo quy định của Chính phủ”
1
.
Đây là định nghĩa về KCN được xây dựng phù hơp với sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam, tập trung điều chỉnh ba đối tượng chính là: KCN, khu
chế xuất và khu công nghệ cao.
1.1.2. Đặc trưng của KCN
Măc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng xét về bản chất các KCN
có những đặc trưng sau:
KCN được coi là một địa bàn tự do thu nhỏ về chính sách kinh tế - xã
hội. KCN là nơi thử nghiệm chính sách mới tốt nhất và là đầu tầu tiên phong
trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Việc xây dựng các KCN có thể
làm thay đổi diện mạo một vùng kinh tế, tạo điều kiện cho dân cư được tiếp
cận với một nền công nghiệp hiện đại, làm thay đổi tập quán sinh hoạt ở địa
phương.
KCN là nơi tiếp nhận, chuyển giao và áp dụng có hiệu quả nhất những
thành tựu của khoa học công nghệ, áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh
và dịch vụ bởi một địa bàn tương đối rộng, được quy hoạch theo một kế
hoạch và chiến lược phát triển lâu dài của nền kinh tế, với hệ thống cơ sở hạ
tầng kỹ thuật tương đối hiện đại, đồng bộ, cùng với những chính sách ưu đãi
mà Nhà nước dành cho các KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các KCN có thể
tiếp nhận các công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, tận dụng được lợi thế
của nước đi sau để rút ngắn dần khoảng cách về khoa học công nghệ với các

nước khác. Việc tiếp nhận tiến bộ khoa học công nghệ đã tạo ra ưu thế nổi trội
của các KCN mà các khu vực kinh tế khác ít hoặc không có cơ hội.
KCN là bộ phận không thể tách rời của một quốc gia, thường là những
khu vực địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào giới hạn với các vùng lãnh
1
Điều 3, Luật đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005
thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó chính thức cho phép
thành lập.
1.2. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Khái niệm FDI
Theo Luật đầu tư tại Việt Nam,“FDI là việc nhà ĐTNN đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu
tư tại Việt Nam”.
2
Có thể hiểu FDI là một loại hình đầu tư quốc tế được thực hiện thông qua
việc thành lập các công ty con để mở rộng phạm vi hoạt động của các công ty
quốc tế ra toàn cầu và làm chủ từng phần hay toàn bộ công ty con đó. Việc
mở rộng sản xuất thông qua các hình thức FDI không chỉ đơn thuần là sự chu
chuyển tài chính quốc tế, mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ, bí
quyết quản lý và các tài sản vô hình khác. FDI là một loại hình di chuyển vốn
quốc tế trong đó chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý điều hành
hoạt động sử dụng vốn.
Như vậy, FDI là một hình thức đầu tư quốc tế, ở đó có sự thống nhất
giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn – người bỏ vốn đồng thời là
người sử dụng vốn. Họ trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý và
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án FDI. Họ tự chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án đó.
1.2.2. Đặc điểm của FDI
Một là, FDI là hình thức mà các nhà ĐTNN tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực
tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, làm ăn lâu dài ở nước sở tại, hoàn toàn tự

chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI ít phải chịu những
điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn như tiếp nhận ODA
2
Khoản 12, Điều 3, Luật đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005
(Official Development Assistance – hỗ trợ phát triển chính thức), kể cả kèm
theo những điều kiện về chính trị có ảnh hưởng đến công việc nội bộ, chủ
quyền của nước đi vay. Còn vay thương mại thì lãi suất thường cao, chính
phủ và các doanh nghiệp của nước đi vay thường không chịu đựng nổi, khó
có khả năng trả nợ. FDI là hình thức được các nước đang phát triển rất quan
tâm và sử dụng vì nó giúp họ khai thác được tối đa nguồn lực của đất nước về
tài nguyên, con người…
Hai là, theo hình thức FDI, vốn của nhà ĐTNN nằm trực tiếp trong nhà
xưởng, thiết bị trên đất nước tiếp nhận đầu tư. Trong trường hợp vì một lý do
nào đó chẳng hạn như khủng hoảng tài chính - tiền tệ, nhà đầu tư phải chuyển
đổi nó thành tiền bằng cách bán hoặc thanh lý nhà máy mới thu hồi vốn và
chuyển về nước được.
Ba là, các nước đang phát triển có đặc điểm là trình độ khoa học, công
nghệ thấp. Để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát
triển các nước này cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới, phương
thức quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Chính vì vậy, FDI có tác động
mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu
các thành phần kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghệ…
Bốn là, chủ thể chủ yếu của hoạt động FDI trên thế giới hiện nay là các
công ty xuyên quốc gia và công ty đa quốc gia (TNC
s
và MNC
s
) với mạng
lưới toàn cầu. Thông qua tiếp nhận đầu tư của các TNC

s
và MNC
s
, nước tiếp
nhận FDI có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế,
mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán thương mại quốc tế,
thích nghi nhanh với những thay đổi trên thị trường thế giới…
1.2.3. Các hình thức FDI
1.2.3.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
BBC là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều Bên tiến hành đầu tư,
kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả
kinh doanh cho mỗi Bên mà không thành lập pháp nhân mới.
Theo Luật đầu tư năm 2005, “BCC là hình thứ đầu tư được ký giữa các
nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm
mà không thành lập pháp nhân”
3
.
Đặc điểm cơ bản của hình thức BCC là các Bên cùng nhau góp vốn, cùng
tham gia quản lý hoạt động kinh doanh thông qua một Ban điều phối chung,
cùng phân chia kết quả kinh doanh theo tỷ lệ góp vốn. Hình thức pháp lý ở
Việt Nam là không được thành lập pháp nhân.
1.2.3.2. Doanh nghiệp liên doanh (DNLD)
Luật ĐTNN tại Việt Nam quy định, “DNLD là doanh nghiệp do hai Bên
hoặc nhiều Bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh
hoặc hiệp định ký giữa chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp FDI hợp tác với
doanh nghiệp Việt Nam hoặc do DNLD hợp tác với nhà ĐTNN trên cơ sở hợp
đồng liên doanh”
4
.

Cơ sở pháp lý chủ yếu để thành lập DNLD là hợp đồng liên doanh. Tỷ lệ
góp vốn pháp định Luật pháp Việt Nam quy định tỷ lệ góp vốn tối thiểu của bên
nước ngoài là 30%.
Đặc điểm của DNLD là nhà đầu tư trong nước và nhà ĐTNN: Cùng góp
vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh, nghiên cứu theo sự thỏa thuận giữa các bên được thừa nhận
3
Khoản 16, Điều 3, Luật đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005
4
Khoản 7, Điều 2, Luật ĐTNN
trong hợp đồng liên doanh đã ký kết phù hợp với luật pháp nước sở tại và luật lệ
quốc tế.
1.2.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN
Doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN là đơn vị kinh doanh hoàn toàn thuộc
quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài, do họ thành lập, tự quản lý và
hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Luật ĐTNN tại Việt Nam quy định doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN là
doanh nghiệp do nhà ĐTNN đầu tư 100% vốn tại Việt Nam
Cơ sở pháp lý để thành lập doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN là GCNĐT
và Điều lệ doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuẩn y.
1.2.3.4. Hợp đồng xây dựng, kinh doanh và chuyển giao (BOT)
a. Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT)
BOT là việc nhà đầu tư bỏ vốn, công nghệ tiến hành đầu tư vào một công
trình kết cấu hạ tầng trên cơ sở một hợp đồng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Theo đó, nhà đầu tư sẽ tiến hành xây dựng công trình, tổ chức
kinh doanh trong một thời gian nhất định nhằm thu hồi vốn và có lợi nhuận
hợp lý rồi chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Theo Luật đầu tư năm 2005, “BOT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công
trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư

nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam”
5
.
b. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO)
BTO là việc nhà đầu tư bỏ vốn, công nghệ tiến hành đầu tư vào một công
trình kết cấu hạ tầng trên cơ sở một hợp đồng ký với cơ quan Nhà nước có
5
Khoản 17, Điều 3, Luật đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005
thẩm quyền. Sau khi xây dựng công trình xong chuyển giao không bồi hoàn
công trình cho Nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam dành cho nhà đầu tư
quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn
và có lợi nhuận.
Theo Luật đầu tư năm 2005, “BTO là hình thức đầu tư được ký giữa cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển
giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành cho nhà
đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận”
6
.
c. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT)
BTO là việc nhà đầu tư bỏ vốn, công nghệ tiến hành đầu tư vào một công
trình kết cấu hạ tầng trên cơ sở một hợp đồng ký với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Sau khi xây dựng công trình xong chuyển giao không bồi hoàn
công trình cho Nhà nước Việt Nam, Nhà nước tạo điều kiện cho nhà đầu tư
thực hiện một dự án khác nhằm thu hồi vốn và lợi nhuận.
Theo Luật đầu tư năm 2005, “BT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu
hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà

nước Việt Nam; Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự
án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư
theo thỏa thuận trong hợp đồng BT”
7
.
Doanh nghiệp được thành lập để thực hiện hợp đồng BOT có thể là
DNLD hoặc doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN. Hình thức này được ban hành
nhằm thu hút FDI vào phát triển cơ sở hạ tầng.
6
Khoản 18, Điều 3, Luật đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005
7
Khoản 19, Điều 3, Luật đầu tư số 59/2005/QH11, ngày 29/11/2005
1.2.3.5. Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A)
Trong đầu tư trực tiếp, các nhà ĐTNN có thể đưa vốn vào để làm tăng
thêm năng lực sản xuất, hoặc tạo ra những năng lực sản xuất mới, song cũng
có thể thông qua việc mua lại, hoặc sáp nhập các công ty với nhau, nhằm thu
được lợi tức cổ phần.
Đầu tư theo hình thức này có ưu điểm là không mất thời gian và chi phí
cho các thủ tục thành lập và triển khai dự án, có thể nhanh chóng tiếp cận
được thị trường nước ngoài, không bị mất cơ hội kinh doanh và tạo điều kiện
cho các công ty có thể thôn tính lẫn nhau, nhằm hình thành mạng lưới sản
xuất và phân phối toàn cầu.
Tóm lại, mỗi hình thức FDI đều có những lợi thế và bất lợi nhất định,
cho dù Việt Nam đã ban hành tương đối đầy đủ các hình thức thu hút FDI. Để
tăng cường thu hút FDI và hỗ trợ các nhà ĐTNN trong quá trình triển khai dự
án FDI thì bên cạnh việc đa dạng hóa hình thức FDI cần phải tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà ĐTNN có thể dễ dàng chuyển đổi giữa các hình thức
đầu tư và loại hình doanh nghiệp phù hợp với những biến động của môi
trường kinh doanh.
1.2.4. Tác động của FDI đối với nước tiếp nhận đầu tư

1.2.4.1. Tác động tích cực
FDI là yếu tố quan trọng để huy động vốn đầu tư trong nước, đặc biệt đối
với các nước có tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, thiếu ngoại tệ và quá trình tích luỹ
nội bộ từ nền kinh tế thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển của toàn bộ
nền kinh tế.
FDI góp phần bổ sung đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia thông
qua việc thực hiện nghĩa vụ về thuế của các doanh nghiệp FDI; Giúp doanh
nghiệp địa phương tiếp cận được với thị trường thế giới thông qua các liên
doanh với nước ngoài và thị trường rộng lớn của họ; Thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước đang phát triển; Tác động tích cực đến
lĩnh vực giáo dục, đào tạo của đội ngũ lao động các nước tiếp nhận đầu tư.
Như vậy, FDI giúp nước tiếp nhận đầu tư và các công ty địa phương về
chuyển giao công nghệ kỹ thuật tiên tiến, bí quyết quản lý, nâng cao trình độ
quản trị và tăng cường tính cạnh tranh.
1.2.4.2. Tác động tiêu cực
FDI là tăng khoảng cách giữa các vùng miền trong nước, giữa thành thị
và nông thôn, gia tăng khoảng cách giàu nghèo vì nhà đầu tư nước ngoài chỉ
đầu tư vào những vùng, ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Các doanh nghiệp FDI thường có lợi thế về vốn, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý so với các doanh nghiệp của nước sở tại. Vì vậy, các doanh
nghiệp trong nước có sức cạnh tranh kém hơn hẳn các doanh nghiệp FDI nên
về lâu dài thường bị phá sản hoặc sản xuất cầm chừng.
Các nhà ĐTNN lợi dụng những sơ hở về quản lý Nhà nước và luật pháp
của nước sở tại để vi phạm những quy định bảo vệ môi trường sinh thái và
các vấn đề khác.
Chuyển giao công nghệ qua hoạt động FDI vẫn còn nhiều hạn chế và tiêu
cực, nên dẫn tới hiện tượng công nghệ nhỏ giọt, công nghệ lạc hậu, công nghệ
gây ô nhiễm môi trường…và giá cả thường cao hơn giá cả mặt bằng thế giới.
Tiếp nhận FDI có những tác động tích cực và cả những tác tác động tiêu
cực đối với nước sở tại. Do đó, bên tiếp nhận phải đưa ra các giải pháp để

nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực này. Tuy nhiên, những lợi ích mà
hoạt động FDI đem lại cho cho các quốc gia tiếp nhận là rất lớn. Thực tế đã
chỉ ra thu hút FDI là một trong những giải pháp tối ưu để một quốc gia đang
phát triển như Việt Nam có thể vươn lên thành một quốc gia phát triển.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG THU HÚT VÀ TRIỂN KHAI DỰ ÁN FDI
VÀO CÁC KCN
1.3.1. Dự án FDI
1.3.1.1. Khái niệm dự án FDI
Có nhiều định nghĩa khác nhau về dự án FDI, các định nghĩa này được
tiếp cận dưới góc độ khác nhau:
Xét về hình thức của dự án, dự án FDI là một bộ hồ sơ, tài liệu trình bày
một cách chi tiết và có hệ thống một kế hoạch hoạt động trong tương lai của
các nhà ĐTNN ở nước sở tại.
Xét về nội dung của dự án, dự án FDI là một tập hợp các hoạt động có
liên quan với nhau, được kế hoạch hóa mà nhà ĐTNN phải thực hiện ở nước
sở tại nhằm đạt được những mục tiêu đã định, bằng việc tạo ra các kết quả cụ
thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác
định.
Nói một cách tổng quát: “Dự án FDI là những dự án đầu tư do các tổ
chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài tự mình hoặc cùng với tổ chức kinh tế
hoặc cá nhân ở nước tiếp nhận đầu tư (từ đây gọi là nước sở tại) bỏ vốn đầu
tư, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh doanh”
8
.
1.3.1.2. Các đặc trưng cơ bản của các dự án FDI
Các dự án FDI, trước hết cũng là một dự án đầu tư nên cũng có đầy đủ
các đặc trưng cơ bản của một dự án đầu tư nói chung như: Đầu tư là hoạt
động bỏ vốn, nên quyết định đầu tư thường và trước hết là quyết định tài
chính; Đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài (chiến lược); Đầu tư luôn luôn
có chi phí và kết quả; Đầu tư là hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi

ích trước mắt và lợi ích lâu dài và đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
8
Giáo trình, Quản trị dự án và doanh nghiệp FDI, Tr.12
So với dự án đầu tư trong nước, dự án FDI có những đặc trưng cơ bản
sau:
Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý, điều
hành đối tượng bỏ vốn.
Các bên tham gia vào dự án FDI có quốc tịch khác nhau, đồng thời
thường sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Dự án FDI chịu sự chi phối đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật (bao
gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các Bên và luật pháp quốc tế).
Quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế đòi hỏi các quốc gia đều
phải tiến hành cải tiến hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá trình hoạt
động của dự án.
Các dự án FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư có tính
đặc thù. Đó là việc hình thành các pháp nhân mới có yếu tố nước ngoài, hoặc
là sự hợp tác có tính đa quốc gia trong các hình thức BOT, hoặc là tạo ra
những khu vực đầu tư tập trung đặc biệt có yếu tố nước ngoài…
Hầu hết các dự án FDI đều gắn liền với quá trình chuyển giao công nghệ
với nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
“Cùng có lợi” được các Bên coi là phương châm chủ đạo là nguyên tắc
cơ bản để giải quyết quan hệ giữa các bên trong mọi giai đoạn của dự án FDI.
Tóm lại, các đặc trưng cơ bản trên của các dự án FDI đã cho thấy, dự án
FDI về bản chất, là sự hợp tác theo nguyên tắc thỏa thuận của nhiều quốc gia
với quốc tịch, ngôn ngữ, luật pháp, văn hóa và trình độ phát triển khác nhau.
Chính sự khác nhau về nhiều mặt trong quá trình hợp tác đầu tư giữa các Bên
(đại diện cho các quốc gia xuất thân) đã làm cho các dự án FDI trở nên hết
sức phức tạp trong quá trình soạn thảo, triển khai và vận hành dự án. Các đặc

trưng này đòi hỏi các Bên trực tiếp hợp tác đầu tư và cả các quốc gia cần
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà ĐTNN
một cách hữu hiệu nhất và hạn chế với mức cao nhất những rủi ro có thể xảy
ra trong quá trình hợp tác đầu tư với quốc gia khác.
1.3.2. Vấn đề thu hút dự án FDI vào KCN
1.3.2.1. Khái niệm thu hút các dự án FDI vào các KCN
Thu hút các dự án FDI vào các KCN là một quá trình bao gồm nhiều
hoạt động khác nhau và các quyết định nối tiếp nhau nhằm vận động và giúp
đỡ các nhà ĐTNN ra quyết định và thực hiện đầu tư vào một KCN cụ thể của
một quốc gia.
Hoạt động thu hút có nghĩa là các hoạt động nhằm gia tăng sự chú ý và
quan tâm của các nhà ĐTNN vào các dự án đầu tư cụ thể trong một KCN, có
thể mang lại lợi ích thương mại cho các nhà đầu tư. Hoạt động này bao gồm
nhiều nội dung, liên quan chặt chẽ với nhau. Việc thực hiện tốt và có sự phối
hợp đồng bộ giữa các nội dung sẽ mang lại kết quả cao cho hoạt động thu hút
FDI và các KCN của một quốc gia.
Các chủ thể trong nước sở tại tích cực, chủ động tìm kiếm nhà ĐTNN,
thuyết phục họ đầu tư vào các KCN thông qua những hoạt động như tham gia
triển lãm quốc tế, chủ động tìm kiếm đối tác đầu tư bằng cách tiếp xúc với
các doanh nghiệp tham gia triển lãm; Quảng cáo trên các tờ báo quốc tế có uy
tín; Quảng bá hình ảnh của các KCN trong nước thông qua hoạt động quan hệ
với công chúng. Hoặc các KCN chờ nhà ĐTNN đến, giới thiệu và đề xuất với
các nhà đầu tư những lợi thế về địa điểm, nhân lực của KCN để giúp các nhà
đầu tư đi đến quyết định đầu tư vào một KCN nào đó mà họ kỳ vọng.

×