Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

CNXH không tưởng và CNXH khoa họ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.1 KB, 21 trang )

Câu 1: CNXH không tưởng và CNXH khoa học
Chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã khi xã hội có sự phân chia giai
cấp và sự tư hữu về tài sản và nhà nước ra đời dựa trên sự thống trị, áp
bức bóc lột của giai cấp chiếm giữ các TLSX quan trọng trong xã hội đối
với các giai cấp và tầng lớp khác. Cùng với sự phát triển của xã hội, mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị ngày càng lên cao và cuộc
đầu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp diễn ra là tất yếu. Trong quá trình đấu
tranh đó, những ước mơ, khát vọng vè một xã hội không có áp bức, không
có bóc lột được ra đời và phát triển.
Với sự phát triển không ngừng của LLSX, những QHSX mới cũng
được ra đời thay thế những SHSX cũ lỗi thời không còn phù hợp thì sự
phân hoá giai cấp diễn ra cũng mạnh mẽ hơn, kèm theo đó là những xung
đột giai cấp cũng diễn ra quyết liệt hơn. Tình trạng bất công xã hội, bất
bình đẳng và nghèo khó ngày càng đè nặng lên giai cấp bị thống trị. Một
bộ phận không nhỏ trong giai cấp bị thống trị đã đứng lên đấu tranh chống
lại áp bức bất công và các cuộc cách mạng đã nổ ra. Những điều kiện và
tiền đề ấy đã làm cho những ước mơ, khát vọng về một xã hội không áp
bức bóc lột trở thành lý luận của các nhà tư tưởng lớn với sự ra đời của
chủ nghĩa xã hội không tưởng và đỉnh cao là CNXH khoa học.
CNXH không tưởng là những tư tưởng, những học thuyết biẻu hiện
dưới dạng chưa đầy đủ, chưa chín muồi những nguyện vọng của quần
chúng nhân dân muốn xoá bỏ áp bức bóc lột và mọi bất công trong xã hội
mong muốn xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái, mọi người
sống tự do, hạnh phúc.
Các đại diện của CNXH không tưởng là: Tômát Morơ (TK16-17);
Grắc Babớp (TK18); Xanh Ximông, Sác lơ Phuriê và Rôbớt Ô-oen
(TK19).
CNXH khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác Lênin, là khoa học phản ánh và nghiên cứu cuộc đấu tranh của giai cấp
1



công nhân, khoa học về những nguyên lý quan trọng nhất, là cơ sở định ra
đường lối chính sách trong quá trình CM XHCN và xây dựng CNXH. Lý
luận CN XHKH là những quy luật chính trị xã hội khách quan trong quá
trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, là những quy luật cải
tạo và xây dựng XHCN
Sự khác nhau giữa CNXH không tưởng và CNXH khoa học:

1. ĐK

CNXH không tưởng
- Khi CNTB bắt đầu hình thành

CNXH khoa học
- CNTB đang trên đà phát triển

ra đời

và phát triển mạnh.

mạnh mẽ với sự phát triển của

- PTSX TBCN đang là PTSX

nền đại công nghiệp đã bộc lộ rõ

tiến bộ của loài người nên chưa

bản chất bóc lột và những mâu

bộc lộ được mặt bản chất sâu xa


thuẫn vốn có của nó

và những mâu thuẫn của nó

- Giai cấp VS đã trưởng thành

- Giai cấp công nhân hiện đại

với tư cách một lực lượng chính

chưa phát triển với tư cách một

trị độc lập trong cuộc đấu tranh

giai cấp đã trưởng thành, cuộc

chống giai cấp tư sản.

đấu tranh của họ còn ở trình độ

- Những phát kiến về KHTN ra

tự phát.

đời tạo cơ sở khẳng định thêm
những nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử.
- 3 trào lưu tư tưởng xuất hiện

cuối thế kỷ 19 là triết học cổ
điển Đức, kinh tế chính trị học
Anh và CNXH không tưởng phê
phán Pháp là tiền đề lý luận cho

2. Nội

sự ra đời CNXH khoa học.
CNXH không tưởng
CNXH khoa học
- Phê phán CNTB đã gây ra tình - Vạch ra được nguồn gốc sâu

dung

trạng bất công nhưng chưa xa của tình trạng áp bức bóc lột
khám phá được bản chất và quy đó là trong XHTB sức lao động
2


luật vận động trong XHTB, của giai cấp công nhân trở thành
không giải thích được nguyên hàng hoá đặc biệt và giai cấp
nhân chủ yếu dẫn tới sự bất CN bị giai cấp tư sản bóc lột
công nghèo đói

bằng giá trị thặng dư và đưa ra

học thuyết giá trị thặng dư.
- Luôn có ý thức đứng về phía - Chỉ ra trong PTSX TBCN thì
người lao động, thông cảm với giai cấp công nhân mâu thuẫn
họ, bênh vực họ, những chưa ai với giai cấp TS sẽ dẫn đến đấu

phát hiện ra được lực lượng xã tranh để xoá bỏ CNTB, cải tạo
hội có khả năng lật đổ chế độ xã xã hội cũ, xây dựng thành công
hội bóc lột ấy và xây dựng được XH mới XH XHCN, XH CSCN.
xã hội mới tốt đẹp hơn

Đây chính là sứ mệnh lịch sử

của giai cấp công nhân.
- Các nhà không tưởng đấu - Học thuyết đưa ra từ thực tiễn
tranh đòi xoá bỏ bất công cho của phong trào và phục vụ cho
những người lao động nghèo phong trào nên học thuyết của
những không có ai tự đặt mình Mác - Ănggen là hệ tư tưởng, lý
là người đại diện cho quyền lợi luận cho phong trào công nhân.
của giai cấp CN để đấu tranh
giải phóng họ mà luôn đứng
trên lập trường của giai cấp,
tầng lớp trên, đứng ngoài xã hội
để mưu giải phóng toàn xã hội
- Các nhà không tưởng về cơ - Khẳng định muốn phát triển xã
bản còn đứng trên quan điểm hội, muốn xoá bỏ CNTB, muốn
duy tâm để giải quyết xã hội, họ xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn
muốn cải tạo xã hội bằng giáo thì phải bằng con đường đấu
dục, bằng thuyết phục, bằng cải tranh cách mạng.
cách dần dần, bằng thực nghiệm
Giống nhau: CNXH không tưởng và CNXH khoa học đều mang
tính lịch sử vì nó được hình thành trong xã hội có giai cấp, có bất công xã
3


hội và sẽ mất đi khi xã hội không còn giai cấp, không còn bất công - XH

CSCN.
Câu 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Vào những năm 40 của thế kỷ 19, nền đại công nghiệp ở nhiều nước
TBCN đã phát triển mạnh, CNTB đã bộc lộ rõ bản chất và những mâu
thuẫn vốn có của nó. Đó là những mâu thuẫn giữa LLSX đã được xã hội
hoá cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Mâu thuẫn đó
ngày càng trở nên không điều hoà và được biểu hiện ra ngoài xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.
Trong thời kỳ này, giai cấp vô sản đã trưởng thành và bước lên vũ đài
chính trị với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản. Những phong trào đấu tranh của công nhân
Pháp (1831-1834), công nhân Liông - Pháp (1844) và đặc biệt phong trào
Hiến chương ở Anh (1838-1848) đã cung cấp những bài học cho sự khái
quát lý luận, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu bức thiết phải xây dựng một
hệ thống lý luận khoa học, cách mạng để soi đường cho sự phát triển của
phong trào. Trong tình hình đó, Các Mác và - Ănggen - hai nhà triết học
vĩ đại của nhân loại - lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân đã xây dựng
học thuyết khoa học, cách mạng cho giai cấp công nhân - học thuyết
CNXH khoa học. Và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
giữ một vị trí quan trọng và cùng với học thuyết duy vật lịch sử và học
thuyết giá trị thặng dư là ba phát kiến vĩ đại của Mác và Ănggen.
Giai cấp công nhân ( giai cấp vô sản hiện đại) là sản phẩm của nền
đại công nghiệp. Họ là một tập đoàn xã hội ổn định trong xã hội TB, họ
không có TLSX cho nên buộc phải làm thuê cho giai cấp tư sản một mặt
để kiếm sống với đồng lương tối thiểu, mặt khác làm thêm ra tư bản cho
giai cấp tư sản trên cơ sở bị bóc lột bằng giá trị thặng dư. Giai cấp công
nhân không phải là tồn tại mãi mãi mà sau khi giành được chính quyền
học tạo điều kiện vật chất và tinh thần để đi đến xoá bỏ giai cấp. Khái

4



niệm về giai cấp vô sản hiện đại hay giai cấp công nhân hiện đại luôn
luôn được biến đổi theo thực tiễn của phong trào và sự tiến bộ về KHKT.
Địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân:
- Những tầng lớp lao động nghèo khổ đã từng xuất hiẹn trong các xã
hội cũ nhưng giai cấp của những người lao động nghèo khổ được gọi là
giai cấp công nhân chỉ xuất hiện khi có CNTB vì giai cấp công nhân là
sản phẩm của nền đại công nghiệp. Tức là các giai cấp khác sẽ đi đến suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp còn giai
cấp công nhân lại càng phát triển cùng với sự phát triển của nền đại công
nghiệp.
- Giai cấp công nhân được phát triển cùng với sự phát triển của
LLSX và KHKT. LLSX và KHKT phát triển tạo điều kiện cho giai cấp
công nhân phát triển cả về số lượng và chất lượng và được liên kết để tạo
thành sức mạnh.
- Giai cấp công nhân đại diện cho LLSX hiện đại bao gồm hai yếu
tố là sản phẩm của nền đại công nghiệp và mang tính chất xã hội hoá cao
cho nên giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập của mình và sẽ là hệ tư
tưởng tiên tiến nhất. Từ đó giai cấp công nhân lôi kéo được các giai cấp
tầng lớp khác trong xã hội đi theo mình.
- Giai cấp công nhân là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp tư
sản nên mâu thuẫn giữa giai cấp CN và giai cấp TS là mâu thuẫn chủ yếu
trong XHTB. Do đó, giai cấp công nhân là giai cấp có vai trò đi đầu trong
cải tạo các quan hệ xã hội, muốn xoá bỏ giai cấp tư sản và mọi giai cấp
bóc lột khác.
- Giai cấp công nhân đã nhận thấy rằng, trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp TS mà chỉ biét giải phóng mình thì không giành được thắng lợi
cho nên giai cấp công nhân đã hiểu được rằng muốn giải phóng giai cấp
mình thì đồng thời phải giải phóng toàn xã hội.

=> Với những nội dung trên, Mác - Ănggen đi đến kết luận là giai
cấp TS đã tạo ra vũ khí (nền đại công nghiệp) để giết mình, đồng thời tạo
5


ra người sử dụng vũ khí ấy để giết mình (là giai cấp CN) và sự sụp đổ của
XHTB cũng như thắng lợi của XHCS là một tất yếu khách quan. Sự ra đời
của xã hội không có giai cấp là tất yếu chính là sứ mệnh lịch sử của giai
cấp CN
Đặc điểm của giai cấp công nhân:
- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất:
+ Vì là sản phẩm của nền đại công nghiệp cho nên trước yêu cầu
khách quan của việc không ngừng đổi mới công nghệ, giai cấp CN ngày
càng được bổ sung thêm những CN có trình độ chuyên môn và học vấn
cao
+ Sự phát triển của LLSX và KHKT đã mở mang trí tuệ cho giai cấp
CN
+ Là đại diện cho LLSX hiện đại nên có trình độ xã hội hoá ngày
càng cao
+ Cuộc đấu tranh dân sinh và dân chủ đã cung cấp cho họ những tri
thức chính trị cần thiết để trở thành một giai cấp tiên tiến với việc nhận ra
rằng muốn giải phóng giai cấp mình thì đồng thời phải giải phóng toàn xã
hội.
- Giai cấp CN là giai cấp triệt để cách mạng nhất:
+ Giai cấp CN là sản phẩm của nền đại công nghiệp nên sự phát
triển của nền đại công nghiệp sẽ dẫn đến sự phát triển của giai cấp công
nhân.
+ Giai cấp CN là giai cấp tiên tiến lôi kéo các tầng lớp khác trong
xã hội đi theo mình
+ Giai cấp CN là sự bóc lột trực tiếp nên muốn xoá bỏ xã hội có giai

cấp ( gc TS và gc bóc lột khác).
- Giai cấp CN là giai câp có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất:
+ Vì là sản phẩm của nền đại công nghiệp nên giai cấp này được tôi
luyện trong môi trường lao động công nghiệp ngày càng hiện đại cũng

6


như trong cuọc đấu tranh chống giai cấp phong kiến trước đây cũng như
chống giai cấp TS ngày nay.
+ Giai cấp CN phát triển cả về số lượng và chất lượng kéo theo sự
phát triển của LLSX và tất yếu khách quan sẽ dẫn đến QHSX cũ phải thay
đổi để phù hợp với LLSX đã phát triển.
- Giai cấp CN có bản chất quốc tế
+ Giai cấp TS cũng mang tính chất quốc tế và nó bóc lột không chỉ
giai cấp vô sản trong nước mà mang tính quốc tế.
+ Địa vị kinh tế xã hội của giai cấp CN trên toàn TG giống nhau nên
muốn chiến thắng giai cấp TS buộc giai cấp CN phải liên minh quốc tế.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN:
Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là toàn bộ những nhiệm vụ lịch sử
giao phó cho một giai cấp để nó thực hiện bước chuyển cách mạng từ một
hình thái kinh tế xã hội đã lỗi thời sang một hình thái kinh tế xã hội mới
cao hơn, tiến bộ.
Phân tích một cách khách quan địa vị kinh tế, xã hội của giai cấp
công nhân, các nhà sáng lập ra CNXH khoa học đã nêu một cách khái
quát nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN là : xoá bỏ chế độ TBCN,
xây dựng XH CSCN, không có người bóc lột người trên cơ sở công hữu
về TLSX, giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn xã hội khỏi áp bức,
bóc lột, bất công.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân khác sứ mệnh lịch sử

của các gc khác ở chỗ:
- Về kinh tế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN không phải là thực
hiện sự chuyển từ chế độ tư hữu này sang chế độ tư hữu khác, không phải
là nhằm thay thế hình thức áp bức bóc lột này bằng hình thức áp bức bóc
lột khác mà là đi đến xoá bỏ chế độ tư hữu, xoá bỏ hình thức người bóc
lột người để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Đây chính là nội dung cốt lõi của sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN

7


- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN khác về tính chất và mục đích
với sứ mệnh lịch sử của các giai cấp trước đó ở chỗ tất cả các phong trào
lịch sử từ trước đến nay đều do thiểu số thực hiện và mưu cầu lợi ích cho
thiểu số còn phong trào vô sản là phong trào của tuyệt đại đa số đem lại
lợi ích cho tuyệt đại đa số.
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN là quá trình kết hợp chặt chẽ và
thống nhất hai sự nghiệp cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trong
đó xây dựng xã hội mới có tính chất quyết định. Sự kết hợp này thực hiện
trong 2 giai đoạn đấu tranh giành chính quyền và giai đoạn xây dựng xã
hội mới nhưng thể hiện rõ nhất trong giai đoạn xây dựng xã hội mới. Cho
nên thực tiễn CM XH XHCN trên thế giới và ngay cả ở nước ta đã CMR ở
đâu, lúc nào, bao giờ quá trình cải tạo xã hội và xây dựng xã hội mới
không được kết hợp chặt chẽ với nhau, không được xử lý đúng đắn thì ở
đó, lúc đó việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN sẽ gặp khó
khăn và thậm chí sẽ dẫn đến thất bại.
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN là sự nghiệp vừa mang tính dân
tộc vừa mang tính quốc tế cho nên phải biết kết hợp chặt chẽ giữa nghĩa
vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN chỉ có thể hoàn thành khi xây

dựng xong một xã hội mới - XH CSCN trong phạm vi một nước cũng như
trên toàn thế giới.
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN chỉ có thể hoàn thành được khi
được một chính đảng tiên phong, có đủ năng lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị
dẫn dắt, tổ chức và lãnh đạo. Vì Đảng là đội tiền phong của giai cấp công
nhân và cả dân tộc. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp phong trào CN và
chủ nghĩa Mác Lênin ( ở VN còn kết hợp với phong trào yêu nước). Đảng
là nhân tố chủ quan hàng đầu lãnh đạo và tổ chức thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp CN.
Tuy nhiên chỉ khi nào Đảng làm tròn tất cả các chức năng là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, là tổ chức cao nhất, là lãnh tụ chính trị và
8


là bộ tham mưu chiến đấu thì khi đó ĐCS mới thực sự là nhân tố quyết
định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN.
Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam:
- Giai cấp CN VN ra đời không phải với tư cách là sản phẩm của
nền đại công nghiệp mà từ những cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp ở nước ta cuối thế kỷ 19, đầu TK20. Đại đa số xuất thân từ nông dân
nghèo, ra đô thị đồn điền, xưởng máy làm thuê cho chủ tư sản xâm lược.
- Khi ra đời, trình độ khoa học kỹ thuật, tay nghề và mức sống còn
thấp vì chưa có nền công nghiệp hiện đại. Ra đời trước cả giai cấp tư sản
VN và chịu ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ, tiểu nông.
- Có truyền thống lao động cần cù, lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó
mật thiết với dân tộc nhất là nông dân và các tầng lớp khác.
- Sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, sớm có chính Đảng tiên
phong là Đảng cộng sản, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đưa
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và Đông Dương - sáng lập và rèn
luyện.

- Tuy nhiên cũng có một số hạn chế đó là: trình độ văn hoá cơ bản,
khoa học công nghệ và tay nghề chưa cao,tác phong, tập quán, thói quen,
tâm lý còn chịu ảnh hưởng khá nặng của người sản xuất nhỏ.
Với những đặc điểm trên, giai cấp công nhân Việt Nam vừa mang
đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế vừa có những đặc điểm
của riêng mình đã thông qua Đảng cộng sản VN đứng lên lãnh đạo nhân
dân Việt Nam hoàn thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động, giành độc lập cho
dân tộc.
Thông qua ĐCSVN, giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân VN thực
hiện thắng lợi hai cuộc kháng chién vĩ đại; đánh đổ tận gốc chế độ thực
dân kiểu cũ và kiểu mới; giành thống nhất đất nước và đưa cả nước bước
vào thời kỳ xây dựng xã hội mới - thời kỳ quá độ lên CNXH.

9


Thông qua ĐCSVN, giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân VN thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước và đã giành được những thắng lợi bước
đầu, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, giữ vững định
hướng XHCN, mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới,
thực hiện từng bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu
đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp.
Trong toàn bộ quá trình ra đời và phát triển cũng như thực hiện sứ
mệnh của mình, giai cấp công nhân VN và ĐCSVN có mối liên hệ mật
thiết và khăng khít với nhau. Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình khi được một chính đảng tiên phong, có đủ năng
lực trí tuệ, bản lĩnh chính trị dẫn dắt, tổ chức và lãnh đạo; ngược lại
ĐCSVN chỉ có thể thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình khi đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác -Lênin

làm nền tảng tư tưởng, lấy giai cấp công nhân là cơ sở vật chất để tồn tại
và phát triển
Câu 3: Cách mạng xã hội chủ nghĩa
CMXHCN là cuộc biến đổi chính trị xã hội lớn và căn bản trong đời
sống xã hội có nghĩa là cuộc đấu tranh lật đổ chế độ XH cũ đã hết thời và
xây dựng chế độ xã hội mới một cách vững chắc và tiến bộ hơn tốt đẹp
hơn để chuyển từ một hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế xã
hội khác cao hơn.
Tư tưởng CM không ngừng
ĐK

Lý luận CM không ngừng

của Mác - Ănggen
của Lênin
- CNTB đang ở giai đoạn cạnh - CNTB chuyển thành CNĐQ

ra đời tranh

- giai cấp TS đã là lực lượng lỗi

- giai cấp TS đang là LL tiến bộ

thời

- giai cấp VS còn yếu và thiếu

- giai cấp VS phát triển mạnh

- giai cấp TS và phong kiến liên trở thành LL XH độc lập

minh đánh VS

- Những kẻ cơ hội đòi xét lại
CN Mác khi điều kiện lịch sử
10


Nội

thay đổi
- Giai cấp VS tham gia vào cuộc - Giai cấp VS tham gia vào cuộc

dung

CM dân chủ tư sản do giai cấp CM dân chủ tư sản với tư cách
TS lãnh đạo.

người lãnh đạo CM.

- Đánh phong kiến trước rồi - Đánh phong kiến lập chính
đánh tư sản chuẩn bị làm CM quyền công nông và chuyển
XHCN
điều

sang làm CM XHCN
- VS với chính đảng của mình

kiện

phải giữ


cách

quyền lãnh đạo của mình trong

mạng

suốt quá trình CM.

vững và tăng cường

- CC DCCM công nông phải
chuẩn bị cơ sở để thực hiẹn
nhiệm vụ CCVS.
Giống nhau:
- Đều mang tính giai đoạn và tính liên tục
- Đều thực hiện cuộc CM dân chủ tư sản rồi tiến đến CM XHCN
- Cùng tiến đến thực hiện mục tiêu cuối cùng của CM là làm CM
XHCN
Sự vận dụng ở VN :
VN là một quốc gia phong kiến lâu đời, trong đó đại đa số nông dân
nhiều đời bị giai cấp phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Từ khi thực dân
Pháp xâm lược và đô hộ, VN trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Từ
hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nền công nghiệp VN và
giai cấp CN VN ra đời.
Ngày 3/2/1930, ĐCSVN ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận
dụng CN Mác - Lênin để phân tích mâu thuẫn ở nước ta gắn với thực tế
trên thấy rằng mâu thuẫn giữa giai cấp CN và giai cấp TS VN chưa nổi
lên rõ rệt như mâu thuẫn có tính chất dân tộc với bọn đế quốc và tay sai.
Do vậy, nhiệm vụ giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, nhất là

nông dân nổi lên hàng đầu. Từ đó hình thành được đường lối cách mạng
11


theo con đường cách mạng vô sản là : trước hết làm cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân sau đó tiến lên ngay CM XHCN. Đó là đường lối nhất
quán độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Vì thế cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo là một tất yếu lịch sử VN và
đã được minh chứng bằng những thắng lợi của nó.
Lịch sử CM VN chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên
CM XHCN cũng là một tất yếu khách quan do vận dụng đúng đắn tư
tưởng cách mạng không ngừng của CN Mác - Lênin gắn với hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của VN và thời đại hiện nay.
Tất cả quá trình CM VN do ĐCSVN lãnh đạo đã thể hiện sự vận
dụng đúng đắng, sáng tạo " tư tưởng cách mạng không ngừng" trong đó
quan điểm về sự chuyển tiếp hai giai đoạn cách mạng mà CN Mác-Lênin
đã chỉ ra và đã thu được những thành quả lớn.
Câu 4; Dân chủ
Nhân loại từ lâu đời đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện dân chủ
và có quan niệm về dân chủ đó là việc thực thi quyền lực của dân. Quá
trình phát triển của lịch sử loài người đã trải qua 5 hình thức của dân chủ
đó là dân chủ quân sự (dân chủ nguyên thuỷ) trong xã hội CS nguyên
thuỷ; dân chủ chủ nô trong xã hội chiếm hữu nô lệ; chuyên chế phong
kiến trong xã hội phong kiến; dân chủ tư sản trong xã hội TBCN; dân chủ
XHCN (dân chủ vô sản) trong xã hội XHCN. Nền dân chủ ngày càng hiện
thiện bao nhiêu thì càng đi đến chỗ tiêu vong bấy nhiêu bởi vì dân chủ chỉ
ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và nó sẽ mất đi cùng với xã hội
không có giai cấp.
Dân chủ được hiểu theo nhiều nghĩa. Trong đó dân chủ được hiểu là
quyền lực thuộc về nhân dân hay chính quyền thuộc về nhân dân.

Dân chủ là một tổ chức chính trị xã hội, chính trị nhà nướcư được
hiểu là một chế độ chính trị xã hội thừa nhận quyền phổ thông đầu phiếu,
thừa nhận tự do chínhtrị của nhân dân như tự do báo chí, tự do hội họp thể
hiện đó là một sự tiến bộ của lịch sử.
12


Dân chủ còn là nguyên tắc sinh hoạt của một tổ chức đoàn thể chính
trị nào đó như nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
Còn Bác Hồ thì cho rằng : dân chủ có nghĩa là dân là chủ.
Từ những khái niệm trên có thể đưa ra kết luận về dân chủ là một
hình thức tổ chức chính trị nhà nước mà đặc điểm đặc trưng của nó là việc
tuyên bố chính thức thiểu số phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do bình
đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực.
Quan điểm Mác xít về dân chủ:
- Dân chủ và chế độ dân chủ là một hiện tượng mang tính lịch sử
+ Chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp
+ Có tính chất, nội dung, vai trò cụ thể khác nhau trong các chế độ
xã hội khác nhau.
+ Trình độ phát triển dân chủ tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
kinh tế, vào tổ chức và thể chế chính trị, vào trình độ văn hoá và trình độ
học vấn nói chung của xã hội.
+ Bị quy định bởi trìnhđộ thông tin cũng như những quan hệ quốc tế
hiện só.
- Dân chủ với tư cách là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước
nó chỉ ra đời khi xã hội có phân chia giai cấp và luôn luôn mang bản chất
giai cấp.
- Dân chủ mang tính nhân dân
+ Trong xã hội có giai cấp đối kháng tự do của mọi người thì
nhường chỗ cho tự do của thiểu số cho nên trong tiến trình đấu tranh để

đưa nền dân chủ ngày càng tiến bộ thì tất cả các giá trị chân chính mà
nhân dân đạt được đều mang tính nhân dân.
Dân chủ TSản là hình thức chính trị của nhà nước tư sản, là chế độ
chính trị xã hội phát sinh và phát triển trong lòng công xã trung cổ và chế
độ đại diện theo đẳng cấp phong kiến, là thành quả của cách mạng tư sản.
Dân chủ XHCN là hình thức chính trị của nhà nước XHCN, ở đó
quyền lực thực tế thuộc về nhân dân, nhân dân quản lý xã hội của mình,
13


xã hội được quản lý bởi nhân dân, vì nhân dân. Dân chủ XHXN là nền
dân chủ thực sự, đầy đủ và triệt để nhất

DC XHCN
DC TS
- Là nền dân chủ cho đại đa số - là nền dân chủ cho thiểu số,
nhân dân lao động, phục vụ lợi phục vụ lợi ích cho thiểu số
ích cho đại đa số.

- mang bản chất giai cấp tư sản,

- mang bản chất giai cấp công đối lập với lợi ích của giai cấp
nhân, phù hợp với lợi ích của công nhân và nhân dân lao động
nhân dân lao động và toàn dân - do các Đảng của giai cấp TS
tộc

lãnh đạo, thực hiện đa nguyên

- do ĐCS lãnh đạo, thực hiện về chính trị
nhất nguyên về chính trị


- được thực hiện thông qua nhà

- được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền tư sản ( nhà
nước pháp quyền XHCN ( nhà nước của giai cấp tư sản)
nước của dân, do dân, vì dân)

- thực hiện trên cơ sở kinh tế tư

- được thực hiện trên cơ sở công hữu hoá về TLSX chủ yếu.
hữu hoá các TLSX chủ yếu

VD: chế độ dân chủ Mỹ chủ yếu

VD: dân chủ XHCN ở Việt Nam bảo vệ dân chủ cho 5500 nhà TS
chiếm 0,02% dân số nhưng
chiếm 50% tài sản của cả nước.
Dân chủ ở Việt Nam
Nền dân chủ XHCN ở nước ta ra đời từ nền dân chủ nhân dân do
ĐCSVN lãnh đạo, là kết quả trực tiếp của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt. Đó là nền
kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ; cơ cấu xã hội chủ yếu là nông dân; trìnhđọ
văn hoá thấp; tàn dư phong kiến, thực dân nặng nề; lại trải qua 30 năm chiến
tranh kéo dài ... Do vậy, việc xây dựng, hoàn thiện và thực hiện dân chủ XHCN
ở nước ta không có nhiều thuận lợi.

14


Qua những năm xây dựng, hoàn thiện và thực hiện, dân chủ XHCN ở

nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và có một số những đặc điểm
cơ bản đó là:
Một là, nền dân chủ XHCN ở nước ta là chế độ xã hội do nhân dân lao
động làm chủ
Hai là, nước ta có nền kinh tế phát triển dựa trên LLSX tiên tiến và chế
độ công hữu vè TLSX chủ yếu (công hữu các TLSX chủ yếu trong nền kinh tế
nhiều thành phần là việc bảo đảm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân.
Ba là, nước ta có nền văn hoá tiên tién, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc
Bốn là, nhân dân được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động.
Năm là, các dân tộc trong nước được bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ nhau
cùng tiến bô.
Sáu là, nước ta có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các dân tộc
trên thế giới
Thực tế của những năm đổi mới đã chứng minh nền dân chủ nước ta phát
triển đúng định hướng XHCN. Quá trình dân chủ hoá và đổi mới hệ thống
chính trị ở nước ta góp phần to lớn và thành quả của công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, quá trình xây dựng, hoàn
thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Dân chủ và
quyền làm chủ của nhân dân có nơi, có lúc còn bị vi phạm nghiêm trọng; nạn
tham ô, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền diễn ra ở một số nơi và
gây hậu quả xấu. Mặc khác, hiện tượng dân chủ quá trớn, dân chủ vô chính
phủ, coi thường kỷ cương, pháp luật cũng đang có chiều hướng gia tăng...
Tất cả những điều nêu trên cho thấy, việc xây dựng hoàn thiện nền dân
chủ XHCN ở nước ta là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.

Câu 5: Dân tộc
Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua nhiều hình thức

cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.... sự phát triển của
PTSX đã dẫn đến sự biến đổi của cộng đồng người. Và khi PTSX TBCN
15


ra đời và thay thế vai trò của PTSX phong kiến ở phương tây thì dân tộc
xuất hiện. Còn ở phương đông, do tác động của hoàn cảnh mang tính đặc
thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước dân tộc đã hình thành trước khi CNTB được xác lập.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo rất nhiều nghĩa khác
nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất. Nghĩa thứ nhất là
để chỉ một quốc gia dân tộc, phân biệt quốc gia dân tộc này với quốc gia
dân tộc khác trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới. VD:
dân tộc VN, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Đức... Theo nghĩa này, dân tộc
được dùng để chỉ 1 cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thỏ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có
ý thức về sự thống nhất của quốc gia mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung
trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Nghĩa thứ hai dùng để chỉ một dân tộc, phân biệt dân tộc này với
dân tộc khác trong một quốc gia dân tộc. VD: dân tộc Mường, dân tộc
Khơ Me, dân tộc Ê đê, dân tộc Kinh, dân tộc Chăm... ở Việt Nam. Theo
nghĩa này, dân tộc được dùng để chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt
chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những
nét văn hoá đặc thù.
Còn theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin: dân tộc là một cộng
đồng người tương đối ổn định được hình thành và phát triển trong lịch sử
với 5 đặc trưng cơ bản : có một lãnh thổ chung ổn định, một nền kinh tế
chung, có chung một ngôn ngữ và một nền văn hoá mang bản sắc tính
cách dân tộc. Trong đó có 3 đặc trưng tiêu biểu nhất là : cộng đồng về

ngôn ngữ ( làm công cụ giao tiếp) cộng đồng về văn hoá ( phong tục tập
quán, tín ngưỡng, tôn giáo) cộng đồng về tâm lý tộc người ( ý thức, tình
cảm dân tộc).
Cơ sở lý luật và thực tiễn để Lê-nin đưa ra cương lĩnh dân tộc:
- Lê -nin căn cứ vào quan điểm của Mác và Ănggen đó là:
16


+ Mác và Ănggen đã vạch ra cơ sở kinh tế của tình trạng người bóc
lột người là do chế độ tư hữu về TLSX và nguồn gốc của áp bức bóc lột
giai cấp, áp bức bóc lột dân tộc chính là CNTB. Cho nên cuộc đấu tranh
để giải phóng các dân tộc bị áp bức bóc lột không thể tách rời đấu tranh
giải phóng giai cấp vì vậy Mác và Ănggen đã kết luận: " hãy xoá bỏ nạn
người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột áp bức dân tộc khác cũng
sẽ được xoá bỏ và khi sự đổi kháng giai cấp trong nội bộ dân tộc không
còn nữa thì đồng thời quan hệ thù địch giữa các dân tộc cũng mất theo"
- Khi nghiên cứu phong trào dân tộc trong thời ĐQCN, Lênin phát
hiện hai xu hướng lịch sử hợp thành quy luật của CNTB:
+ Xu hướng 1: là xu hướng đi tới thành lập một quốc gia, dân tộc
độc lập. Xu hướng xoá bỏ tình trạng cát cứ phong kiến để hình thành nên
quốc gia độc lập, thống nhất, có một chính phủ, một hiến pháp, một thị
trường chung nhằm phục vụ cho sự phát triẻn của PTSX TBCN . Xu
hướng này tương ứng với thời kỳ ra đời và phát triển của dân tộc tư sản,
đồng thời cũng là thời kỳ chế độ chuyên chế phong kiến sụp đổ và người
lãnh đạo phong trào dân tộc là giai cấp tư sản
+ Xu hướng 2: Xu hướng tăng cường mối liên hẹ về mọi mặt trước
hết là về kinh tế giữa cá dân tộc với nhau, đó là tình trạng các hàng rào
dân tộc bị phá vỡ, đó là sự thống nhất quốc tế của các dân tộc để đi đến
liên hiệp các dân tộc được hình thành nên các tổ chức quốctế trên mọi
lĩnh vực. Xu hướng này chiếm ưu thế trong thời kỳ CNTB cạnh tranh

chuyển sang CNĐQ và CNTB trở thành hệ thống trên thế giới.
- Lênin dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của việc giải quyết vấn
đề dân tộc trên thế giới và kinh nghiệm giải phóng các dân tộc chống
CNĐQ vào những năm đầu thế kỷ 20.
+ Kinh nghiệm cho thấy rằng các dân tộc chỉ sống hữu nghị với
nhau khi có sự bình đẳng, khi được tự do quyết định vận mệnh của dân
tộc mình, khi mà không còn tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc khác,
khi các dân tộc bị áp bức không lệ thuộc vào CNĐQ và CN thực dân.
17


- Xuất phát từ yêu cầu khách quan cần phải khắc phục CN dân tộc
để đoàn kết LL cách mạng ở nước Nga vào những năm đầu thế kỷ 20.
+ Lúc này, nước Nga Sa hoàng đang là nhà tù của hơn 100 dân tộc,
chúng gây ra sự thù hằn giữa các dân tộc với nhau và chia rẽ LLCM.
=>Lê nin đã dựa vào tất cả các yếu tố trên để đưa ra cương lĩnh dân
tộc với nội dung là: "các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được
quyền tự quyết và liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại"
Nội dung cương lĩnh dân tộc của Lênin:
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
+ Đây là nguyên tắc đầu tiên của cương lĩnh dân tộc của CN MácLênin, xoá bỏ mọi bất bình đẳng giữa các dân tộc, phản đối mọi đặc
quyền, đặc lợi và mọi áp bức dân tộc cho nên giai cấp VS không thể thực
hiện được mục đích của mình mà không đấu tranh xoá bỏ khi dân tộc này
áp bức dân tộc khác.
+ Chỉ khi nào giải quyết được vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc thì
mới giải quyết được vấn đề tự quyết vì thực chất của vấn đề bình đẳng là
đi đến xoá bỏ giai cấp, còn vấn đề tự quyết chỉ là một nội dung của vấn đề
bìnhđẳng mà thôi.
+ Sự bình đẳng giữa các dân tộc có nghĩa là các dân tộc có nghĩa vụ
và quyền lợi ngang nhau trước những vấn đề quốc tế tức là các dân tộc

được đối xử bình đẳng với nhau cho dù dân tộc đó đông người hay ít
người, dân tộc đó trình độ cao hay thấp.
+ Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được nêu lên nhằm vạch trần
bản chất áp bức bóc lột của CNĐQ đồng thời nó có tác dụng động viên
tập hợp các LLCM, LL tiến bộ đứng dậy đấu tranh chống CNĐQ.
- Các dân tộc được quyền tự quyết:
+ Quyền tự quyết trước hết là quyền tự do phân lập về mặt chính trị
có nghĩa là dân tộc đó được tách ra để thành lập một quốc gia độc lập,
không bị ràng buộc hoặc lệ thuộc vào dân tộc khác. Mặt khác quyền tự
quyết là quyền tự nguyện liên hợp thành liên bang với dân tộc khác theo
18


nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và các dân tộc đều được bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ. Vì vậy, thực chất quyền tự quyết là quyền tự chủ
của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình đó là quyền quyết
định lựa chọn con đường đi cũng như xây dựng chế độ xã hội nào đó của
dân tộc đó.
- Liên hiệp công nhân các dân tộc lại:
+ Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong cương lĩnh dân tộc của
CN Mác-Lênin vì nó phản ánh sự thống nhất về bản chất của phong trào
đấu tranh nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc nhằm để đoàn kết
nhân dân các dân tộc bị áp bức bóc lột và các lực lượng tiến bộ trên TG
đứng dậy đấu tranh chống CNĐQ.
+ Sự hoà hợp giữa các dân tộc không phải là sự san bằng làm mất đi
hay xoá bỏ những khác biệt của dân tộc mà những sắc thái, những nét đặc
sắc của dân tộc vẫn được giữ vững và còn tạo điều kiện để cho nó phát
triển.
+ Nguyên tắc của nội dung này là một khi CNTB đã trở thành lực
lượng thế giới thì giai cấp công nhân muốn chiến thắng họ cũng phải hợp

thành lực lượng thế giới.

Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta:
VN là một quốc gia độc lập, thống nhất và gồm 54 dân tộc, trong đó
dân tộc kinh chiếm 87% được gọi là đa số và 53 dân tộc còn lại chiếm
13% được gọi là dân tộc thiểu số.
Các dân tộc nước ta nhìn chung sống xen kẽ là chủ yếu, không dân
tộc nào có lãnh thổ riêng biệt. Hiện nay, giứac các dân tộc còn có sự
chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá. Các dân tộc
thiểu số thường cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng cả
19


về kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái và có những đóng
góp đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giữa
vững độc lập dân tộc.
Các dân tộc ở Việt Nam vốn có truyền thống đoàn két lâu đời trong
cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn
hoá riêng tạo nen sự thống nhất trong đa dạng của nền văn hoá Việt Nam.
Từ khi mới ra đời, ĐCSVN đã xác định: vấn đề dân tộc và đoàn kết
dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng ở nước
ta.
Nội dung xuyên suốt, bao trùm của chính sách dân tộc trong quá
trình xây dựng XHCN nói chung trong sự nghiệp CNH-HĐH là thực hiện
bình bẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Đây là
quan điểm nhất quán của Đảng và nhà nước ta.
Chính sách dân tộc cần được cụ thể hoá thành những nội dung chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng, đồng thời phải được
thực hiện một cách đồng bộ.
Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền

xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là
kháng chiến và căn cứ cách mạng. ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế, xã hội
các vùng dân tộc và miền núi một cách phù hợp.
Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ dân tộc thiểu số, động viên phát huy vai trò của những người tiêu
biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Công tác dân tộc và thực
hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Thực hiện chính sách dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh tư tưởng
chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi,
dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti dân tộc, mặc cảm dân tộc.
Những chính sách trên của Đảng là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp
với tình hình hiện nay. Khi mà kẻ thù đang lợi dụng vấn đề dân tộc để
20


thực hiện âm mưu và thủ đoạn phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, phá
hoại sự nghiẹp xây dựng và bảo vệ tổ quốc VNXHCN của nhân dân ta thì
việc tăng cường vật chất và tinh thần cũng như lý tưởng cách mạng cho
đồng bào các dân tộc trên đất nước ta và thực hiện sự bìnhđằng đoàn kết
của dân tộc là vấn đề sống còn và có tính quyết định đến vận mệnh của
toàn dân tộc.

MỤC LỤC

21




×