Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

thực trạng môi trường nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 37 trang )

CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
3.1. Nước mặt lục địa
3.1.1. Tài nguyên nước mặt lục địa
Quảng Ngãi có hệ thống sông Trà Bồng, Trà Khúc, sông Vệ, Trà Câu. Tổng
lượng dòng chảy lớn, riêng lưu vực sông Trà Khúc và sông Vệ đã đạt 7431.10
6
m
3
.
Nguồn nước mặt chủ yếu được sử dụng cho nông nghiệp và các hoạt động kinh tế
khác. Các con sông này có đặc trưng là đều có hướng chảy vĩ tuyến hoặc á vĩ tuyến,
phân bố khá đều trên vùng đồng bằng Quảng Ngãi.
Sông Trà Bồng nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện
Trà Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn ra biển tại của Sa Cần. Sông dài khoảng 45km,
hướng chảy cơ bản từ Tây sang Đông, đoạn cửa sông hướng rẽ hướng Nam- Bắc. Phần
lớn sông chảy qua vùng địa hình rừng núi có độ cao 200 - 1.300m, phần còn lại chảy
trong vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát.
Sông Trà Khúc nằm ở giữa tỉnh có diện tích lưu vực khoảng 3.240km
2
, bao gồm
phần đất của các huyện Sơn Hà, Tư Nghĩa, một phần huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn
Tịnh, Trà Bồng và Tây Trà, có một phần nguồn nhỏ thuộc địa phận tỉnh Kon Tum.
Trên bề mặt lưu vực sông có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già, còn lại là
rừng thưa kiểu cao nguyên và cây bụi rậm; vùng hạ lưu là đất canh tác và đồng bằng
trồng lúa chiếm diện tích khá lớn. Sông Trà Khúc là sông lớn có lượng nước dồi dào
nhất so với các sông khác trong toàn tỉnh. Ở thượng nguồn sông có 3 nguồn chính:
nguồn thứ nhất là sông Rhe chảy từ vùng Giá Vụt phía Tây huyện Ba Tơ, theo hướng
Nam-Bắc, đến địa hạt huyện Sơn Hà. Nguồn thứ hai gọi là sông Rinh (Đắk Rinh) bắt
nguồn từ vùng Đông Kon Tum và huyện Sơn Tây, với các suối lớn, nhỏ hợp nước với
nhau chảy theo hướng Tây-Đông xuống Sơn Hà. Nguồn thứ ba là sông Xà Lò (Đắk
Sêlô), bắt nguồn từ Tây Nam huyện Sơn Hà giáp với huyện Sơn Tây, chảy theo hướng


Tây Nam-Đông Bắc.
Sông Vệ bắt nguồn từ rừng núi phía Tây của huyện Ba Tơ có diện tích lưu vực
1.260km
2
, bao gồm địa hạt các huyện Ba Tơ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành và
một phần nhỏ diện tích của huyện Tư Nghĩa. Độ cao trung bình lưu vực khoảng 170m,
mật độ lưới sông 0,79km/km
2
. Thực vật che phủ bề mặt lưu vực vùng thượng lưu phần
lớn là rừng già, bụi rậm, vùng hạ lưu chủ yếu là vùng đất canh tác nông nghiệp.
Sông Trà Câu bắt nguồn từ vùng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ), với độ cao 400m,
có diện tích lưu vực 442km
2
, chiều dài sông khoảng 32km; chiều dài lưu vực 19km và
chiều rộng bình quân lưu vực 14km. Đây là con sông nhỏ nhất trong các sông kể trên,
nước thường cạn kiệt về mùa khô.
Ngoài 4 con sông chính trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như Trà Ích (Trà
bồng), sông Cái (Tư Nghĩa), sông Phước Giang (Nghĩa Hành), sông La Vân (Đức
Phổ),…
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 03 đầm nước tự nhiên là Nước Mặn, An Khê,
Lâm Bình.
Ở Quảng Ngãi hầu như không có hồ nước tự nhiên lớn, chỉ có những hồ nước
được đào đắp phục vụ cho thủy điện, thủy lợi là hồ An Phong, hồ Tôn Dung, hồ Suối
Chí, hồ chứa nước Sở Hầu, hồ chứa nước Núi Ngang, hồ chứa nước Liệt Sơn.

1
Các công trình đập được xây dựng ở Quảng Ngãi chủ yếu phục vụ cho việc tưới
tiêu nông nghiệp trên địa bàn tỉnh như đập Đá Giăng, đập Xã Điệu, đập Cù Và, đập Xã
Trạch, đập thuỷ lợi Thạch Nham (thuộc loại lớn của nước ta), đập nước Lang và đập
Làng, đập Suối Lớn, đập Đồng Thét và đập dâng Đá Giăng.

Bảng 3.1. Nhu cầu cung cấp nước cho sinh hoạt tại các đô thị tỉnh Quảng Ngãi
TT Đô thị Dân số
(2005)
(người)
Lượng nước
cung cấp
(m
3
/ngày.đêm)
Dân số
(2010)
(người)
Lượng nước
cấp
(m
3
/ngày.đêm)
1 TP.Vạn Tường 64.000 7.680 90.000 10.800
2 TX. Quảng Ngãi 50.000 6.000 70.000 8.400
3 TT.Châu Ổ 5.500 660 8.000 960
4 TT.Sơn Tịnh 9.200 1.104 13.000 1.560
5 TT.Sông Vệ-La Hà 11.500 1.380 16.000 1.920
6 TT.Mộ Đức 7.100 852 10.000 1.200
7 TT.Đức Phổ 5.700 684 8.000 960
8 TT.Chợ Chùa 6.400 768 9.000 1.080
9 TT.Trà Xuân 5.600 672 8.000 960
10 TT.Di Lăng 6.400 768 9.000 1.080
11 TT.Sơn Tây 3.100 372 4.400 528
12 TT.Minh Long 3.300 396 4.600 552
13 TT.Ba Tơ 3.700 444 5.200 624

14 TT.Lý Sơn 3.500 420 4.800 576
Tổng cộng 185.000 22.200 260.000 31.200
Nguồn: Trung tâm Công nghệ Môi trường (ENTEC), 2001
Nguồn tài nguyên nước dưới đất không dồi dào về trữ lượng, trong khi tại thời
điểm hiện nay, tỉnh có 2 Công ty cấp thoát nước (Vinaconex và Công ty cấp thoát
nước Quảng Ngãi với 5 nhà máy nước như sau:
Nhà máy nước Vinaconex Dung Quất;
Nhà máy nước Bình Sơn: 1.200 m
3
/ngày đêm;
Nhà máy nước Đức Phổ: 1.000 m
3
/ngày đêm;
Nhà máy nước Mộ Đức: 2.000 m
3
/ngày đêm;
Nhà máy nước tp Quảng Ngãi: 20.000 m
3
/ngày đêm.

2
3.1.2. Diễn biến ô nhiễm môi trường nước mặt
Môi trường nước ở Quảng Ngãi trong quá trình phát triển KT-XH đã bộc lộ
những vấn đề nan giải, kể cả trong hoạt động sản xuất và trong sinh hoạt.
a) Nước mặt
Chất rắn lơ lửng - SS

Hình 3.1. Hàm lượng chất rắn lơ lửng (SS) trong nước mặt, 2005-2009
Giai đoạn 2005-2009, chất rắn lơ lửng (SS) có nồng độ trung bình 93,3mg/l, dao
động trong khoảng 6,9-629mg/l. Sau khi bị ô nhiễm trong thời gian 2006-2008, cho

đến nay các vùng nước mặt của Quảng Ngãi đã có sự cải thiện tích cực về nồng độ
chất rắn lơ lửng. Năm 2009, hàm lượng SS của nước mặt tại các điểm quan trắc đều
nằm trong khoảng cho phép của QCVN 08:2008/BTNMT.
Năm 2005, hàm lượng SS tại các điểm giám sát chất lượng nước mặt đều ở mức
rất thấp, trong khoảng cho phép. Năm 2006, có 6 mẫu SS vượt tiêu chuẩn cho phép
TCVN 5942-1995 (loại B). Mẫu có chỉ tiêu cao nhất là tại cầu suối Bản Thuyên
(NM11) rồi tới chợ Châu Ổ - sông Trà Bồng (NM2) và thượng nguồn sông Trà Bồng
(NM1). Trong tổng số 16 mẫu quan trắc năm 2007 có 8 mẫu có chỉ tiêu SS vượt tiêu
chuẩn cho phép TCVN 5942-1995 (loại B), mẫu có chỉ tiêu SS cao nhất là Bến Tam
Thương sông Trà Khúc (NM13), tiếp đến là cửa biển Sa Cần (NM3) và nước mặt chợ
Châu Ổ - sông Trà Bồng (NM2). So với kết quả quan trắc năm 2006 chỉ tiêu SS tại các
điểm này cũng có giá trị cao nhất, nhưng kết quả năm 2007 chỉ tiêu SS có giá trị thấp
hơn như tại tại cầu suối Bản Thuyên giảm từ 629mg/l xuống còn 120mg/l (gần 5 lần).
Năm 2008: Giá trị SS tại 4 mẫu đo đều ở mức rất thấp so với giới hạn cho phép.

3
pH

Hình 3.2. Giá trị pH trong nước mặt, 2005-2010
Giai đoạn 2005-2009, pH của nước mặt Quảng Ngãi có giá trị trung bình là 7,5,
dao động trong khoảng 5,5-9,8.
Theo biểu đồ thể hiện giá trị pH tại các điểm đo giai đoạn 2005-2010, đa số đều
nằm trong khoảng tiêu chuẩn (5,5-9). Năm 2006 có 4 mẫu và năm 2007 có 2 mẫu nằm
ngoài tiêu chuẩn cho phép. Xu hướng chung là giá trị pH nằm trong khoảng giá trị cho
phép sau khi các dị thường có nguyên nhân liên quan đến nước thải nhà máy mỳ được
loại bỏ. Giá trị pH năm 2009 có chiều hướng giảm và có một số vị trí có giá trị pH nhỏ
hơn giới hạn cho phép theo QCVN 08:2008/BTNMT (cột B1).
Năm 2005, giá trị pH tại các điểm đo qua 3 đợt quan trắc đều nằm trong khoảng
tiêu chuẩn cho phép. Theo kết quả biểu hiện ở các lần quan trắc có thể nhận thấy sự sai
khác giữa những thời điểm quan trắc không lớn, các giá trị không có những đột biến

bất thường trong các giai đoạn tiến hành đo đạc.
Năm 2006, trong tổng số 12 mẫu quan trắc có 4 mẫu giá trị pH vượt tiêu chuẩn
cho phép là NM3 (suối Bản Thuyền), NM5 (Tại cầu sông Trà Câu), NM7 (Sông Vệ,
thượng nguồn), NM11 (Bến Tam Thương). Suối Bản Thuyền có giá trị pH cao nhất do
đây là nơi tiếp nhận nước thải của nhà máy mì.
Năm 2007, hầu hết các điểm đo đều nằm trong khoảng tiêu chuẩn cho phép
TCVN 5942-1995, ngoại trừ 2 mẫu là NM11 (tại cầu suối Bản Thuyền) và NM16 (tại
vùng dưới của suối Bản Thuyền) nằm ngoài khoảng tiêu chuẩn cho phép. Mẫu NM16
có giá trị pH cao nhất (pH=9,87). Từ đó cho thấy giá trị pH tại cầu và vùng dưới suối
Bản Thuyền (dưới cống xả nhà máy mỳ Tịnh Phong) có giá trị pH cao hơn so với vùng
trên suối Bản Thuyền (trên cống xả nhà máy mỳ Tịnh Phong). Nguyên nhân là do
cống xả của nước thải từ nhà máy mỳ Tịnh Phong được đặt gần cầu suối Bản Thuyền
trong khi đó nước thải của nhà máy không đạt tiêu chuẩn cho phép TCVN 5945-2005
(cột B) trước khi thải vào nguồn tiếp nhận.

4
Năm 2008, cả hai mẫu NM8 (Sông Vệ - tại cầu) và NM10 (Cống nước thải nhà
máy đường) đều nằm trong khoảng giá trị cho phép.
Năm 2009, phần lớn giá trị pH tại các điểm quan trắc đều nằm trong khoảng cho
phép của QCVN 08:2008/BTNMT (cột B1). Qua 3 đợt quan trắc, giá trị pH không có
sự thay đổi lớn. Có 5 vị trí trong các đợt quan trắc nằm ngoài quy chuẩn là: Thượng
nguồn Sông Vệ (tại cầu Cộng Hoà) - xã Hành Thiện - huyện Nghĩa Hành (NM10); tại
Cầu Bản Thuyền - Suối Bản Thuyền - xã Tịnh Phong - huyện Sơn Tịnh (NM11), sông
Trà Khúc cách cống thải chung Công ty cổ phần Đường 100m về phía hạ nguồn -
TP.Quảng Ngãi (NM12), bến Tam Thương - Sông Trà Khúc - TP. Quảng Ngãi
(NM13), Sông Trà Khúc cách cống thải chung Công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi
200m về phía thượng nguồn - phường Quảng Phú - TP.Quảng Ngãi (NM14). Tất cả
các vị trí có giá trị pH nằm ngoài Quy chuẩn đều là nơi nhận thải của các nhà máy sản
xuất, nước thải sinh hoạt của TP Quảng Ngãi.
DO


Hình 3.3. Hàm lượng DO trong nước mặt, 2005-2009
Giai đoạn 2005-2009, hàm lượng ô xy hòa tan trong các vùng nước mặt của
Quảng Ngãi có giá trị trung bình là 3,6mg/l, dao động trong khoảng 0.07-7,9mg/l.
Năm 2005, nồng độ DO của các vùng nước mặt có giá trị rất cao, trên 5mg/l.
Năm 2006, so với tiêu chuẩn chất lượng nước mặt (loại B), trong tổng số 12 điểm
quan trắc có 9 điểm thấp hơn tiêu chuẩn cho phép, chỉ có 4 điểm đạt tiêu chuẩn là
thượng nguồn sông Trà Bồng, thượng nguồn sông Vệ, Sông Trà Câu tại cầu và cửa
biển. NM10 có lượng ô xy hòa tan rất thấp: 0,007mg/l - mức cực kỳ nguy hiểm có thể
dẫn đến sự hủy diệt của hệ sinh thái.
Năm 2007, theo tiêu chuẩn chất lượng nước mặt TCVN 5942-1995 (loại B) quy
định hàm lượng oxy hòa tan phải lớn hơn hoặc bằng 2mg/l, trong tổng số 16 điểm
quan trắc thì chỉ có 3 điểm có giá trị DO đạt tiêu chuẩn cho phép là tại cầu sông Trà
Câu (mẫu NM5), cửa biển Sa Cần (mẫu NM6) và thượng nguồn sông Trà Khúc (mẫu
NM14), các điểm còn lại đều không đạt tiêu chuẩn cho phép. Điểm có giá trị DO thấp
nhất là NM16 (vùng dưới suối Bản Thuyền có nồng độ: 1,10mg/l), kế đến là NM13
(sông Trà Khúc tại Bến Tam Thương: 1,15mg/l) và điểm NM12 (cống nước thải nhà

5
máy đường sông Trà Khúc: 1,20mg/l) và NM3 (cửa biển Sa Cần: 1,20mg/l). So với kết
quả năm 2006, giá trị DO tại các điểm quan trắc không thay đổi nhiều.
Năm 2008: Cả 4 mẫu nước mặt đều có giá trị DO rất cao so với các năm trước,
dao động từ 5,7 đến 6,8mg/l.
Năm 2009: Nồng độ trung bình của DO trong nước mặt Quảng Ngãi lên tới
6,7mg/l. Tất cả các vùng nước mặt của tỉnh đều có sự cải thiện vượt bậc về nồng độ
oxy hòa tan so với giai đoạn trước năm 2008.
COD

Hình 3.4. Giá trị COD tại các điểm giám sát chất lượng nước mặt, 2005-2009
Giai đoạn 2005-2009, nồng độ COD dao động trong khoảng 5,2-968mg/l, trung

bình 86,2mg/l (gấp 2,5 lần giới hạn cho phép).
Năm 2005: Chỉ có 2 trong số 7 điểm đo có giá trị COD nằm dưới ngưỡng cho
phép là NM8 và NM11. Điểm quan trắc tại suối Bản Thuyền, dưới cống thải nhà máy
tinh bột mỳ (M15) là nơi có nồng độ COD cao nhất ở cả 3 đợt quan trắc, giá trị trung
bình năm lên tới 346,6mg/l.
Năm 2006: Biểu đồ COD cho thấy chỉ có 2 điểm đo đạt tiêu chuẩn cho phép
(NM5, NM12) còn lại các điểm đo khác đều vượt tiêu chuẩn. Điểm đo tại cửa biển Sa
Cần (NM2) là điểm đo có giá trị COD là 968mg/l, cao nhất, vượt gấp 27 lần so với
tiêu chuẩn cho phép (35mg/l), tiếp đến là tại cửa biển sông Trà Câu (NM6) và bến
Tam Thương (NM11).
Năm 2007: Trong tổng số 16 điểm giám sát chỉ có 2 điểm đạt tiêu chuẩn cho
phép là thượng nguồn sông Trà Câu (NM5) và thượng nguồn sông Trà Khúc (NM14)
còn lại các điểm đo khác đều vượt tiêu chuẩn cho phép TCVN 5942-1995 (loại B). Tỉ
lệ các điểm không đạt tiêu chuẩn chiếm 87,5%, các điểm đạt chỉ chiếm 12,5%. Trong
số các điểm không đạt tiêu chuẩn có điểm đo tại cửa biển Sa Cần (NM3) là điểm đo có
giá trị COD cao nhất, tiếp đến là tại Bến Tam Thương (NM13) và chợ Châu Ổ (NM2).
Năm 2008: Hàm lượng COD tại 4 điểm đo đều thấp dị thường so với kết quả
quan trắc các năm trước với giá trị trung bình chỉ là 6,2mg/l (dao động từ 5,5 đến
7,7mg/l).

6
Năm 2009: Hàm lượng trung bình năm là 61,7mg/l. Cũng giống như hàm lượng
BOD, nhìn vào biểu đồ biểu thị hàm lượng COD qua 3 đợt quan trắc năm 2009, tại các
điểm giám sát chất lượng nước mặt của tỉnh Quảng Ngãi có hơn 60% giá trị nằm ngoài
giới hạn cho phép theo QCVN 08:2008/BTNMT (cột B1). Điều đáng quan tâm là các
điểm có hàm lượng COD cao là tại những nơi thường xuyên tiếp nhận nguồn thải từ
các nhà máy sản xuất, các khu công nghiệp. Trong tổng 14 điểm khảo sát nước mặt
năm 2009, hàm lượng COD cao nhất là NM12 trong đợt quan trắc 2 giá trị COD là
363,46mg/l, vượt hơn 12 lần so với quy chuẩn và tiếp đến là NM11 giá trị COD
131,37mg/l, vượt gần 5 lần so với quy chuẩn. Có 12/14 điểm quan trắc nước mặt

không đạt tiêu chuẩn so sánh với QCVN 08:2008/BTNMT (cột B1) chiếm hơn 85%.
Các vị trí này hầu hết là cửa sông, là nơi tiếp nhận của các nguồn thải từ các KCN, các
nhà máy sản xuất, của nguồn nước thải sinh hoạt.
BOD

Hình 3.5. Hàm lượng BOD trong nước mặt Quảng Ngãi, 2005-2009
Hàm lượng BOD dao động trong khoảng 2,68-135mg/l, trung bình 32,6mg/l
trong giai đoạn 2005-2009.
Năm 2005: Trong t n nước thải
Nhà
chuẩn cho phép hơn. Qua 3 đợt quan trắc của năm có thể
nhận
p đến là Cửa biển Sa Cần vượt 4,2 lần.
ổng số 12 điểm tiến hành quan trắc, điểm tiếp nhậ
máy tinh bột mỳ có giá trị BOD cao nhất. So với chỉ tiêu COD, chỉ tiêu BOD có ít
các điểm quan trắc vượt tiêu
thấy chất lượng nước mặt, đánh giá về mặt hàm lượng của các chất hữu cơ có
khả năng phân hủy sinh học, đã có dấu hiệu của sự ô nhiễm ở mức độ nhẹ. Kết quả 3
đợt quan trắc cho thấy các địa điểm quan trắc sau thường xuyên vượt tiêu chuẩn cho
phép: sông Trà Khúc, cầu Trường Xuân, suối Bản Thuyền, dưới cống thải nhà máy
tinh bột mỳ, kênh dưới cống thải nhà máy đường 2, nước kênh Giang, Mỹ Khê, Cầu
Mới, đường lên sân bay. Trong những đợt quan trắc của các năm trước, các địa điểm
trên cũng thường xuyên có giá trị BOD cao và vượt tiêu chuẩn cho phép. Nhìn chung
chỉ tiêu BOD của môi trường nước mặt cho thấy chất lượng nước sông kênh trên địa
bàn Tỉnh Quảng Ngãi đã có dấu hiệu của sự ô nhiễm, nguyên nhân của sự ô nhiễm này
là do sự xả thải trực tiếp của các nguồn nước thải sản xuất, sinh hoạt không qua xử lý
vào môi trường nước mặt.
Năm 2006: So với tiêu chuẩn cho phép về chỉ tiêu BOD, có tổng số 6 mẫu trên
tổng số 12 mẫu vượt quá giới hạn. Điểm đo vượt tiêu chuẩn cao nhất là Bến Tam
Thương, vượt trên 5 lần, tiế


7
Năm 2007: So với tiêu chuẩn cho phép TCVN 5942-1995 về chỉ tiêu BOD có 9
mẫu trên tổng số 16 mẫu vượt quá giới hạn cho phép, chiếm 56,25%, trong khi đó tỉ lệ
đạt chỉ chiếm 33,75%. Điểm đo vượt tiêu chuẩn cao nhất là điểm NM3 (cửa biển Sa
Cần)
Năm 2009: Tại 14 điểm quan trắc nước mặt, hầu hết các điểm vượt tiêu chuẩn
theo
ng ít, không đáng kể. Có 10/14 vị trí có giá trị BOD vượt Quy chuẩn,
chiếm
trung bình qua 3 đợt quan trắc tỉnh
Quản
g BOD5 cao vào đợt quan trắc lần 2 có giá trị vượt 5 lần so
với Q
ất to gây nên trận lũ lịch sử do đó làm kéo theo các chất ô
nhiễm
8:2008/BTNMT (cột B1). Kết quả quan trắc cho thấy giá trị BOD
năm
vượt trên 3 lần, tiếp đến là Bến Tam Thương vượt 3 lần. Kết quả này tương tự
như kết quả đợt 2 năm 2006 nhưng so về giá trị thì giá trị trong đợt quan trắc này thấp
hơn.
Năm 2008: Giá trị BOD tại các điểm đo đặc biệt thấp, chỉ dao động trong khoảng
2,7-3,8mg/l.
QCVN 08: 2008/BTNMT (cột B1) quy định. Qua 3 đợt quan trắc nhận thấy giá trị
BOD dao độ
hơn 70%. Các vị trí có giá trị BOD cao là:
NM12 (Sông Trà Khúc cách cống thải chung Công ty cổ phần Đường 100m về
phía hạ nguồn - phường Quảng Phú - TP.Quảng Ngãi): là nơi nhận thải nguồn nước
thải công ty Đường. Đây là điểm có giá trị BOD
g Ngãi 2009 cao nhất. Trong đợt quan trắc 2 giá trị BOD vượt hơn 14 lần so với

Quy chuẩn. Nguyên nhân là do nước thải của các nhà máy trong công ty Đường thải
trực tiếp ra khu vực này.
NM11 (Tại Cầu Bản Bản Thuyền - Suối Bản Thuyền - xã Tịnh Phong - huyện
Sơn Tịnh): khu vực tại cầu và vùng dưới suối Bản Thuyền (dưới cống xả nhà máy mỳ
Tịnh Phong) có hàm lượn
uy chuẩn. Nguyên nhân là do cống xả của nhà máy mỳ Tịnh Phong được đặt gần
cầu suối Bản Thuyền trong khi đó nước thải nhà máy xử lý không đạt tiêu chuẩn trước
khi thải vào nguồn tiếp nhận.
NM13 (Bến Tam Thương - Sông Trà Khúc - phường Lê Hồng Phong - TP.
Quảng Ngãi): là nơi nhận thải nước thải sinh hoạt của Thành Phố Quảng Ngãi, hàm
lượng chất hữu cơ nhiều.
Nghiên cứu hàm lượng BOD qua các đợt quan trắc ta thấy giá trị tăng đột biến
trong đợt 2. Nguyên nhân trước thời điểm lấy mẫu đợt 2, do ảnh hưởng của cơn bão số
9 trên địa bàn tỉnh có mưa r
từ các khu dân cư vào các sông, hồ. Chính vì vậy, các thành phần ô nhiễm trong
nước mặt tăng lên.
So sánh với năm 2007, hàm lượng BOD qua các đợt quan trắc năm 2009 có sự
thay đổi lớn. Một vài vị trí đáng chú ý như NM11, NM12, NM13, NM14 tăng đột
biến, vượt QCVN 0
2009 tăng cao so với năm 2007. Nguyên nhân là do các nhà máy nâng công suất
kéo theo lượng nước thải và các thành phần chất ô nhiễm tăng lên. Tuy nhiên, nước
thải không được xử lý hoặc xử lý không đạt theo qui chuẩn trước khi thải ra môi
trường. Vì vậy, tại các vị trí nhận thải của các nguồn nước thải này có hàm lượng chất
ô nhiễm tăng cao.
Cyanua

8

Hình 3.6. Hàm lượng Cyanua trong nước mặt Quảng Ngãi, 2005-2009
Trong giai đoạn 2005-2007, đa số các mẫu phân tích nước mặt đều không phát

hiện cyanua hoặc một vài mẫu có hàm lượng thấp, dưới tiêu chuẩn cho phép
(0,05mg/l). Tuy nhiên, trong đợt quan trắc năm 2007, có hai điểm quan trắc vượt giới
hạn cho phép là NM12 (gấp 10 lần) và NM16 (gấp 6 lần). Điều này cho thấy chất
lượng nước sông Trà Khúc tại cống thải nhà máy đường bị nhiễm CN
-
khá cao.
Dầu

Hình 3.7. Hàm lượng dầu trong nước mặt Quảng Ngãi, 2005-2009

Hàm lượng dầu dao động trong khoảng 0-1,23mg/l, giá trị trung bình 0.1mg/l
trong giai đoạn 2005-2009. Chỉ có năm 2006 là có 03 điểm vượt tiêu chuẩn cho phép
(0,3mg/l): bến đò sông Trà Bồng (0,47mg/l), cống nước thải nhà máy đường
(1,33mg/l) và bến Tam Thương sông Trà Khúc (0,48mg/l). Hàm lượng dầu trong nước
mặt của Quảng Ngãi có xu hướng giảm dần và hiện nay không còn khu vực nước mặt
nào bị nhiễm bẩn dầu.

9
Coliform

Hình 3.8. Coliform trong nước mặt Quảng Ngãi, 2005-2009
Coliform trong nước mặt dao động trong biên độ rất rộng từ 1,1 đến 33502
MPN/100ml, trung bình 2160 MPN/100ml (dưới giới hạn cho phép 10.000
MPN/100ml).
Nhìn chung, so với chỉ tiêu BOD và COD thì chỉ tiêu Coliform có ít các điểm
vượt tiêu chuẩn cho phép. Chỉ trong năm 2005 có 2 khu vực vượt chuẩn là Suối Bản
thuyền (33502 MPN/100ml) và cầu sông Vệ (16867 MPN/100ml). Tuy nhiên, nồng độ
coliform lại có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây: nồng độ trung bình năm
2009 là 1706 MPN/100ml so với 378 MPN/100ml của cả năm 2007.
Chì

Hàm lượng chì trong nước mặt đều đạt tiêu chuẩn cho phép trong cả giai đoạn
2005-2009.
Trong giai đoạn 2005-2009, các nước mặt trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã bị ô
nhiễm chất hữu cơ tại các vị trí là nơi nhận thải của các nhà máy và khu công nghiệp.
Các con sông trên địa bàn tỉnh được quan trắc từ thượng nguồn hầu như có chất lượng
tốt, các chỉ tiêu có hàm lượng thấp nằm trong giới hạn cho phép của Quy chuẩn Việt
Nam 08:2008/BTNMT.

10


Hình 3.9. Hàm lượng chì trong nước mặt Quảng Ngãi, 2005-2009
Nhìn chung chất lượng nước mặt đã có dấu hiệu của sự ô nhiễm dựa trên sự so
sánh với tiêu chuẩn TCVN 5942:1995 (loại B), kết quả phân tích ở trên đã cho thấy
nước mặt trên địa bàn Quảng Ngãi bị nhiễm bẩn bởi chất hữu cơ (các chỉ tiêu DO,
BOD
5
, COD đa số đều không đạt tiêu chuẩn cho phép). Tuy nhiên với kết quả quan
trắc gần đây tương đối tốt hơn, số lượng các điểm đo vượt tiêu chuẩn cho phép thấp
hơn và giá trị vượt cũng thấp hơn.
Cống thải nhà máy Đường có hàm lượng chất hữu cơ cao, giá trị pH nằm ngoài
Quy chuẩn, năm 2007 có nồng độ Cyanua cao nhất trong tổng số các mẫu đo đạc, vượt
tiêu chuẩn cho phép tới 10 lần (0,525mg/l). Đây là nguồn tiếp nhận nước thải của Nhà
máy đường, điều này cho thấy nước thải của nhà máy đã không được xử lý đạt tiêu
chuẩn trước khi thải vào nguồn tiếp nhận.
Các con sông trên địa bàn Thành phố được quan trắc từ thượng nguồn, trung lưu
và đến cửa biển nhằm giám sát sự biến đổi về chất lượng thông qua các chỉ tiêu đo
đạc. Nhìn chung chất lượng nước mặt của các con sông có sự biến đổi không đồng
đều, Sông Trà Câu theo kết quả quan trắc cho thấy tại cửa biển là nơi có chất lượng
kém nhất (BOD và COD đều cao gấp từ 4 đến 7 lần so với kết quả đo đạc tại thượng

nguồn và tại cầu Sông Trà Câu), đối với Sông Vệ kết quả quan trắc cho thấy tại
thượng nguồn và cửa biển có mức độ ô nhiễm gần như nhau (chỉ tiêu BOD vượt tiêu
chuẩn cho phép từ 2 đến 1,2 lần).
+ Tại điểm cửa biển Sa Cần là nơi có chất lượng kém nhất (BOD và COD đều có
giá trị đo đạc cao hơn so với kết quả đo đạc tại những điểm khác tuy nhiên so sánh với
kết quả đợt 2 năm 2006 thì chất lượng nước hiện nay có xu hướng tốt hơn;
+ Đối với sông Trà Câu tại cửa biển, các chỉ số về BOD, COD có xu thế giảm
trong giai đoạn 2005-2009, chứng tỏ chất lượng nước sông Trà Câu có sự cải thiện tốt
hơn, chỉ số ô xy hòa tan tăng lên rõ rệt.
+ Qua kết quả quan trắc, Sông Vệ tại thượng nguồn và cửa biển có mức độ ô
nhiễm gần như nhau (chỉ tiêu BOD, COD tại thượng nguồn cao hơn hạ lưu). Năm
2006 cho thấy tại thượng nguồn là nơi có giá trị BOD, COD cao nhất (vượt tiêu chuẩn
từ 1,4 đến 2,6 lần);

11
+ Đối với sông Trà Khúc giá trị đo đạc tại bến Tam Thương có kết quả đo đạc về
giá trị BOD và COD cao nhất trong số các điểm quan trắc dọc theo sông do đây là nơi
tiếp nhận nước thải sinh hoạt của Thành phố Quảng Ngãi.
Trong số các con sông được tiến hành quan trắc thì nhìn chung chất lượng nước
tại sông Trà Câu là tốt nhất (các giá trị về BOD, COD, DO nhìn chung đều tốt hơn so
với các con sông khác tại các điểm quan trắc). Trong giai đoạn 2005-2009, chi có 1 lần
vào năm 2006, giá trị BOD tại sông Trà câu đoạn cửa biển Mỹ Á là vượt tiêu chuẩn
cho phép (63mg/l), COD vượt giới hạn 2 lần năm 2006 tại thượng nguồn sông trà câu
(27mg/l) và cửa biển Mỹ Á (181mg/l).
Trong tổng số 16 mẫu quan trắc, đáng chú ý là mẫu NM12 (cống thải nhà máy
đường) có kết quả đo đạc CN
-
vượt tiêu chuẩn cho phép 10 lần, hàm lượng oxy hòa tan
thấp và pH thấp trong tất cả các mẫu quan trắc, do vị trí quan trắc là nguồn tiếp nhận
nước thải của Nhà máy đường (nhà máy cồn, nhà máy bánh kẹo, nhà máy sữa,..) nên

chịu ảnh hưởng từ nguồn thải này. Giai đoạn 2005-2008, tình hình nhiễm bẩn chất hữu
cơ đã được cải thiện. Tuy nhiên, hiện nay giá trị COD và BOD năm 2009 lại tăng cao
hơn nhiều so với các năm trước.
Nhìn chung chất lượng nước mặt tỉnh Quảng Ngãi tốt hơn trong giai đoạn 2005-
2009 (trừ khu vực tiếp nhận nước thải nhà máy đường có xu thế ngược lại), được biểu
hiện thông qua các giá trị đo đạc thấp hơn và tần suất vượt tiêu chuẩn ít hơn.
b) Nước thải công nghiệp và sinh hoạt
So với tiêu chuẩn Việt Nam 5945-1995 (loại B), hầu như toàn bộ các điểm đo
đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Nguyên nhân là do các đơn vị sản xuất không có hệ
thống xử lý nước thải hoặc có nhưng hệ thống xử lý hiệu quả. Sau đây là phần đánh
giá cụ thể về các chỉ tiêu cơ bản:
pH
Trong tổng số 25 điểm quan trắc giai đoạn 2005-2009, trong số 8 lần đo pH có
giá trị vượt tiêu chuẩn thì có 8/9 mẫu đo năm 2006 (Nước thải vùng nuôi tôm Phổ
Quang - huyện Đức Phổ, Nước thải nuôi tôm Đức Phong - huyện Mộ Đức, Làng nghề
Mộ Đức (làng nước mắm), Nhà máy mỳ Tịnh Phong - huyện Sơn Tịnh, Công ty
TNHH An Nhật Tân - KCN Tịnh Phong, đầu ra của hệ thống xử lý nước thải - công ty
TNHH Đại Dương Xanh - KCN Quảng Phú, Đầu ra của trạm xử lý nước thải nhà máy
giấy Hải Phương - KCN Quảng Phú, Tại cầu Sông Đào - 230 Quang Trung - thành
phố Quảng Ngãi) và 1 mẫu năm 2007 (Nước thải sinh hoạt Cống Hào Thành - đường
Võ Tùng - phường Lê Hồng Phong - thành phố Quảng Ngãi. Có 7 giá trị quan trắc
thấp hơn khoảng cho phép (từ 5,5 đến 9) thì có tới 4 giá trị được đo năm 2009 tại cống
thải - nhà máy Bánh Kẹo - công ty CP Đường Quảng Ngãi, Đầu ra của hệ thống xử lý
nước thải - công ty TNHH Đại Dương Xanh - KCN Quảng Phú, Nhà máy cơ khí An
Ngãi - KCN Tịnh Phong, Nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu Phùng Hưng - KCN
Quảng Phú). Trong các mẫu quan trắc, mẫu tại cống thải - nhà máy Bánh Kẹo - công
ty CP Đường Quảng Ngãi có giá trị pH thấp nhất (4,17 năm 2009).

12


Hình 3.10 Giá trị pH nước thải sinh hoạt và công nghiệp của Quảng Ngãi, 2005-2009
Năm 2006: Trong tổng số 15 mẫu quan trắc, có 6 mẫu đạt tiêu chuẩn về chỉ tiêu
pH còn lại các mẫu khác đều vượt hoặc thấp hơn khoảng cho phép (từ 5,5-9). Trong
các mẫu quan trắc, mẫu NT10 (Nhà máy cồn) là mẫu có giá trị pH thấp nhất (5,21).
Năm 2007: Trong tổng số 14 mẫu quan trắc, chỉ có 1 mẫu không nằm trong
khoảng giá trị cho phép là NT12 (Nhà máy cồn) chiếm tỷ lệ 5%. So với kết quả đợt 2
năm 2006 thì chỉ tiêu pH có sự thay đổi theo hướng tích cực, số lượng mẫu không đạt
khoảng tiêu chuẩn cho phép ít hơn rất nhiều (giảm gần 50%).
Năm 2009: Qua 3 đợt quan trắc phần lớn các mẫu nước thải có giá trị pH nằm
trong khoảng cho phép của TCVN 5945: 2005. Tuy nhiên, tại một số vị trí, giá trị pH
nằm ngoài khoảng cho phép. Cụ thể: Tại nhà máy cồn (NT10), nhà máy cơ khí An
Ngãi (NT19) giá trị pH nằm ngoài khoảng cho phép trong cả 3 đợt quan trắc. Giá trị
pH tại nhà máy bánh kẹo (NT12) nằm ngoài khoảng cho phép trong đợt quan trắc 1 và
3. Nước thải của các nhà máy này khi thải ra môi trường sẽ gây ô nhiễm cho khu vực
nhận thải và gây nguy hiểm cho các loài thủy sinh sống trong khu vực cũng như ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn nước mặt.
DO
Theo kết quả quan trắc, hàm lượng oxy hòa tan trong nước tại TT Y tế B Sôn
năm 2007, NT2 năm 2006, NT4 năm 2006 và 2007, NH 5 năm 2006 và 2007, NT 7
năm 2006 và 2007, NT8 năm 2006 và 2007, NT9 năm 2006 và 2007 và NT2 năm
2009, NT7 năm 2009 chưa tới 1mg/l. Hầu hết các kết quả quan trắc trước năm 2009 có
giá trị DO dưới 2mg/l.
Hiện tại, lượng ô xy hòa tan trong nước thải đã được cải thiện đáng kể, đạt giá trị
trung bình là 3,6mg/l (so với trung bình 1,06mg/l của giai đoạn 2005-2008). Điểm
nóng về ô xy hòa tan hiện tại còn tồn tại ở các điểm NT12, NT13, NT14, NT17,
NT2509 là những điểm có nồng độ DO dưới 2mg/l và NT7, NT8, NT2109 và NT 2409
có nồng độ DO dưới 3mg/l.


13


Hình 3.11. Hàm lượng Ôxy hòa tan trong nước thải sinh hoạt và công nghiệp, 2005-2009
COD
Chỉ tiêu COD của nước thải tại tất cả các điểm đo đều vượt tiêu chuẩn cho phép
từ 1,6 lần đến 56 lần. Trong số các điểm đo, mẫu NT12 có giá trị COD lớn nhất vào
năm 2007 (6970mg/l) và lớn thứ 2 vào năm 2009 (5736mg/l). Đây là điểm nóng nhất
về COD trong các mẫu nước thải. Mẫu NT10 (mẫu tại Nhà máy cồn) là điểm có giá trị
COD cao thứ ba (5634mg/l), kế đến là NT7 (mẫu tại Nhà máy đường) có giá trị COD
là 1.412mg/l. Nhìn chung giá trị COD tại các điểm đo còn lại vượt tiêu chuẩn trung
bình khoảng 3 lần so với tiêu chuẩn TCVN 5945:1995 (loại B).
Năm 2006: Chỉ tiêu COD của nước thải tại tất cả các điểm đo đều vượt tiêu
chuẩn cho phép từ 1,6 lần đến 56 lần. Trong số các điểm đo, mẫu NT10 (mẫu tại Nhà
máy cồn) là điểm có giá trị COD cao nhất (5634mg/l), kế đến là NT7 (mẫu tại Nhà
máy đường) có giá trị COD là 1412mg/l. Nhìn chung giá trị COD tại các điểm đo còn
lại vượt tiêu chuẩn trung bình khoảng 3 lần so với tiêu chuẩn TCVN 5945:1995
(loại B).


14

×