Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Nghiên cứu chung về quản lý mạng TCP/IP và An ninh mạng TCP/IP (security

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.25 KB, 48 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

Gần ba mươi năm qua bộ giao thức TCP/IP đã được đưa vào sử dụng và phát triển,
nó bắt đầu từ việc nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Mỹ về thủ tục truyền dẫn của mạng máy
tính trong học viện, các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp, và của người dùng ở Mỹ.
Mạng truyền dẫn sử dụng bộ giao thức TCP/IP trong phạm vi từ mạng nội hạt (nhỏ) văn
phòng trong nhà đến một mạng rộng lớn đó là mạng Internet. Vài năm gần đây việc sử
dụng giao thức TCP/IP đã phát triển nhanh, nhờ đó nó hỗ trợ trong nhiều ứng dụng mới.
Ngày nay truyền dẫn âm thanh và hình ảnh đòi hỏi thời gian thực, cũng như thoại
và fax số, có thể được truyền qua mạng Internet và Intranets. Khi tốc độ sử dụng giao thức
TCP/IP tăng thì vai trò của nó như là một cái máy để vận chuyển những loại dữ liệu khác
nhau. Trong thực tế giao thức TCP/IP giới thiệu nhiều vấn đề mới cho việc quản lý mạng
và người quản trị mạng xem xét chúng để quản lý mạng Internet tốt hơn.
Vì vậy khi việc sử dụng dịch vụ Internet tăng, việc vận chuyển dữ liệu trên mạng
nhiều đòi hỏi phải tăng thêm các trạm chuyển tiếp để dễ dàng cho việc quản lý mạng.
Trong tiểu luận này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu 2 vấn đề cơ bản đó là:
● Nghiên cứu chung về quản lý mạng TCP/IP
● An ninh mạng TCP/IP (security)
Tuy nhiên do thời gian và khả năng dịch tài liệu Tiếng Anh có hạn nên không khỏi
thiếu sót. Rất mong sự đóng góp của Thầy Cô giáo, của các độc giả và đặc biệt là sự đóng
của Giáo viên hướng dẫn tiểu luận môn học.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
1
THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
SNMP Simple Network Managerment Protocol
RMON Remote Moniter
IOS International Organization for Standardization
OSI
Open
System Interconnection


DSUs Digital Service Units
CSUs Channel Service Units
MIB Managing Information Base
HTTP Trial File Transfer Protocol
TFTP Trivial File Transfer Program
TCP Transmission Control Protocol
UDP User Datagram Protocol
IANA Internet Assigned Number Authority
ICMP Internet Control Message Protocol
OSPF Open shortest Patch First
IGRP Interior Gateway Routing Protocol
OSPF Open Shortest Path First
SMTP Simple Mail Transport Protocol
FTP File Transfer Protocol
S-HTTP Secure Hypertext Transfer Protocol
SSL Secure Sockets Layer
NAT Network Address Translation
2
PAT Port Address Translate
Chương 1 GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 CƠ SỞ QUẢN LÝ MẠNG
Như đã đề cập ở trên, hiện nay việc sử dụng bộ giao thức TCP/IP đã phát triển đồng
thời cả hai lĩnh vực dung lượng và ứng dụng truyền tải dữ liệu. Ngày nay nhiều nhà kinh
doanh phụ thuộc rất nhiều vào các trang Web của họ để bán hàng, nhà kinh doanh có thể
đạt được doanh thu lớn vài triệu đô la trên một ngày, một nhà kinh doanh dịch vụ khác
cung cấp các dịch vụ truyền fax chi phí thấp cho hàng trăm ngàn khách hàng ở nhiều nơi
trên thế giới và hàng triệu doanh nghiệp và hàng chục triệu người tiêu dùng, trong lĩnh
truyền thư do thư điện tử có nhiều ưu điểm như tốc độ truyền dẫn nhanh và không mất tin
nên người dùng sử dụng thư điện tử nhiều hơn là sử dụng thư truyền thống của dịch vụ bưu
chính khi truyền tin ở nhiều quốc gia khác nhau.

Tốc độ tăng trưởng trong việc sử dụng giao thức TCP/IP làm cho cả hai, người sử
dụng dịch vụ Internet và nhà quản lý mạng phụ thuộc rất nhiều vào bộ giao thức TCP/IP để
thực hiện những công việc bình thường hàng ngày của họ.
1.1.1 Chi phí ngắt dịch vụ
Như đã đề cập ở trên ưu điểm mạng Internet mang lại cho người sử dụng rất lớn, do
vậy khi mạng bị lỗi nhỏ dẫn đến mạng sẽ bị gián đoạn điều này sẽ mang lại hậu quả
nghiêm trọng cho người dùng. Lấy ví dụ, khi kết nối Internet không thành công đối với các
nhà doanh nghiệp sẽ không gởi và nhận được các thư điện tử và không thể truy cập mạng
để mua hoặc đặt hàng trực tuyến trên mạng. Mất một thông tin điều này đồng nghĩa với
việc doanh thu của doanh nghiệp có thể thiệt hại hàng ngàn hoặc thậm chí hàng triệu đô
trong thời gian mạng bị gián đoạn. Do vậy các phương pháp phát hiện lỗi và chuẩn đoán lỗi
một cách nhanh chóng của nhân viên điều hành mạng có thể làm giảm bớt thiệt hại cho
doanh nghiệp. Trong môi trường truyền thông ngày nay các lĩnh vực cần quan tâm đó là
kích cỡ và độ phức tạp của mạng, các chi phí, hiệu quả vận hành và khả năng tìm hiểu đủ
thông tin để tận dụng ưu điểm của giao thức .
1.1.2 Kích cỡ và độ phức tạp của mạng
3
Do nhu cầu trao đổi thông tin của người dùng ngày càng tăng, để đáp ứng nhu cầu
sử dụng của người dùng đòi hỏi kích cỡ của mạng phải lớn hay độ phức tạp của mạng cao,
đồng thời chi phí hoạt động của mạng ngày càng lớn. Điều này tạo nên động lực thúc đẩy
sự phát triển của mạng, tuy nhiên để mạng hoạt động tốt đòi hỏi khả năng mạng truyền dẫn
phải tốt, đồng thời phải có thiết bị giám sát tập trung trên mạng. Trạm trung tâm cung cấp
các giải pháp cũng như kỹ thuật nhằm thực hiện việc thay đổi cấu hình mạng cũng như tạo
ra các cảnh báo khi phát hiện lỗi trên mạng. Nhờ có giao thức quản lý mạng SNMP
(Simple Network Managerment Protocol) và giao thức giám sát từ xa RMON (Remote
Moniter) của bộ giao thức TCP/IP làm cho việc quản lý mạng đơn giản hơn và ít tốn kém
nhân lực. Tuy nhiên để hiệu quả sử dụng mạng cao đòi hỏi nhân viên quản trị mạng phải có
sự hiểu biết nhất định về các khái niệm và giao thức truyền thông.
1.1.3 Giám sát hiệu suất
Thông qua việc sử dụng các giao thức quản lý của bộ giao thức TCP/IP có thể giám

sát được hiệu suất và năng lực của mạng. Một vấn đề liên quan là làm thế nào để hiệu suất
sử dụng chi phí quản lý mạng tốt nhất, hiệu suất cao nhất khi chi phí cho quản lý mạng thấp
nhất mà vẫn đảm bảo được việc quản lý mạng. Vì vậy việc quản lý mạng tốt sẽ mang lại
năng lực và hiệu suất sử dụng mạng cao trong khi chi phí cho mạng thấp.
1.1.4 Đối phó với các trang thiết bị tinh xảo
Với việc sử dụng bộ giao thức TCP/IP mạng Internet ngày càng phát triển nhanh
chóng, các thiết bị sử dụng trên mạng được lắp đặt và truy cập càng nhiều. Ví dụ có rất
nhiều bộ định tuyến có khả năng số hóa tín hiệu thoại. Đối phó với các thiết bị tinh xảo có
khả lấy trộm thông tin trên mạng, đòi hỏi nhân viên quản trị mạng được đào tạo có trình độ
cao, được coi là một khía cạnh quan trọng của quản lý mạng. Hiện nay có rất nhiều sản
phẩm quản lý mạng ẩn bên trong các sản phẩm truyền thông mạng, với 1 giao diện đồ họa
người dùng có khả năng truy cập dễ dàng bằng lệnh điều khiển do nhân viên quản trị viết ra
để điều khiển sự hoạt động của thiết bị. Như vậy, sản phẩm quản lý mạng hiện đại giúp đỡ
chúng ta đối phó với các thiết bị tinh xảo.
4
Sự tin cậy của mạng
Hiệu ứng lỗi mạng
Kích cỡ và độ phức tạp của mạng
Đối phó với sự tinh vi của thiết bị mạng
Cân bằng hiệu suất và năng lực mạng
Chính sách chi phí hoạt động
Bảng 1.1 tóm tắt các lý do chủ yếu tại sao mạng TCP/IP phải được quản lý
1.2 QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ MẠNG
Quản lý mạng là một quá trình giống như nhiều hoạt động phổ biến khác trong đó
chắc chắn người quản lý mạng sẽ gặp nhiều khó khăn. Dưới đây là những hạn chế trong
quá trình quản lý.
Quản lý mạng là một quá trình (mà nhân viên quản trị mạng) sử dụng phần cứng và
phần mềm theo dõi tình trạng của các thành phần và khả năng truyền dẫn mạng, câu hỏi
cuối cùng là làm thế nào để cải thiện hiệu suất sử dụng của mạng, đồng thời phải kết hợp
việc quản trị mạng với việc hướng dẫn nhà cung cấp dịch vụ và người dùng trên mạng.

Điều này có nghĩa là nhân viên quản trị mạng phải có kiến thức về bộ giao thức TCP/IP và
hiểu được quá trình hình thành và thủ tục gởi và nhận các gói tin.
Vai trò, cách sử dụng, các thành phần cấu tạo của gói tin và các khái niệm đặc trưng
của mạng. Thứ nhất khi truyền tín hiệu thoại và tín hiệu fax bằng bộ giao thức TCP/IP trên
mạng bao giờ cũng có sai số nhất định. Thứ hai nó liên quan đến việc sử dụng phần cứng
và phần mềm để kiểm tra , thiết bị cầu nối và bộ định tuyến của mạng, thiết bị và khả năng
truyền dẫn, dữ liệu và kênh dữ liệu của các thành phần mạng. Chú ý rằng nhân viên quản
lý mạng có thể can thiệp và hổ trợ đến người sử dụng mạng, nhà cung cấp dịch vụ các yếu
tố chuyên môn liên quan đến mạng. Ngoài ra sau khi thu thập các yêu cầu, các ý kiến liên
quan đến mạng từ người dùng và nhà cung cấp dịch vụ nhân viên quản trị mạng sẽ nghiên
cứu và cải tạo mạng theo hướng tốt hơn. Đồng thời họ thường đưa ra các giải pháp để cải
thiện hiệu suất sử dụng cũng như giảm bớt hiện tượng rớt mạch. Các phương pháp để cải
thiện hiệu suất thông tin có thể là thay đổi cấu hình mạng hiện tại hoặc nghiên cứu cách
thức tổ chức mạng theo các yêu cầu mà họ đưa ra. Cuối cùng hiệu suất của công việc quản
lý mạng phải được nhân viên quản trị mạng nắm bắt tất cả như: giám sát và đưa ra tiến
trình phát triển mạng, tính toán lại mạng để đảm bảo tính hợp lý giữa chi phí đầu tư để
mạng phát triển với hiệu suất sử dụng mạng cao nhất. Thực ra các vấn đề đưa ra trên có thể
tùy chọn để đảm bảo rằng người dùng hợp lệ mới truy cập vào mạng và các nhân viên quản
lý mạng cục bộ (mạng LAN), các nhà quản lý mạng cần phải quan tâm đến vấn đề an ninh
mạng.
1.2.1 Tổ chức OSI trong quản lý mạng
5
Dựa trên cơ sở trước đó, chúng ta có thể chia nhỏ các công việc liên quan đến quản
lý và chức năng mạng. Trong thực tế, điều này đã được thực hiện theo chuẩn quốc tế IOS
(International Organization for Standardization) của tổ chức OSI (
Open
System
Interconnection). Trong đó mô hình tổ chức OSI đã định nghĩa 5 chức năng (hoặc các qui
tắc) quản lý mạng được chỉ định trong bảng 1.2.


Bảng 1.2 Tổ chức OSI trong quản lý mạng
Quản lý cấu hình hoặc quản lý mạng bao gồm quá trình theo dõi khả năng thay đổi
các tham số khác nhau của các thiết bị trên mạng. Các tham số đó có thể được cài đặt, thiết
lập lại hoặc đơn giản là để đọc và hiển thị. Đối với mạng phức tạp có hàng trăm hoặc hàng
ngàn thiết bị và truyền dẫn, việc sử dụng các SNMP và RMON sẽ dễ dàng hơn cho việc
điều khiển mạng từ một điểm hoặc từ một vài vị trí quản lý mạng. Tuy nhiên, trên thực tế
nền tảng SNMP và RMON có phạm vi từ một hệ thống quản lý mạng máy tính cơ sở đến
máy tính nhỏ và hệ thống máy trạm. Trong thực tế, hầu hết các hệ thống sẽ bao gồm thiết bị
có khả năng tự động tìm ra và hiển thị vị trí của mạng, ngoài ra nó còn cung cấp cho người
sử dụng khả năng đọc và có thể thay đổi các tham số thiết bị, cũng như hiển thị một loạt
các thông số của đường truyền. không giống như các thiết trên các tham số có thể được
hiển thị và thiết lập lại, thiết bị truyền dẫn được kiểm soát bởi một hoặc nhiều hãng truyền
thông và điều chỉnh các thông số này thường là điều khiển hoạt động người sử dụng mạng
đầu cuối.
Mặc dù hệ thống quản lý mạng có nhiều ưu điểm, nhưng tổ chức hệ thống quản lý
mạng không phải ở đâu cũng có. Điều này bởi vì là SNMP và RMON được phát triển chủ
yếu như là một thiết bị giám sát và cảnh báo, và cũng vì vài hạn chế là yếu tố bảo mật
không được tích hợp cho phép thay đổi các tham số các bộ định tuyến, DSUs, CSUs và các
thiết bị mạng khác. Thay vào đó, nhiều tổ chức duy trì một số hệ thống, trong đó một số hệ
thống nhà cung cấp có thể được sử dụng để kiểm soát các thiết bị. Ngoài ra, một số thiết bị
có thể được kiểm soát đơn giản từ màn hình hiển thị.
Trong kết luận ban đầu của chúng ta với việc thảo luận về cấu hình hoặc thay đổi
quản lý, cần lưu ý rằng lĩnh vực quản lý mạng này phụ thuộc vào các tham số cài đặt cơ sở
6
Quản lý cấu hình / thay đổi
Quản lý lỗi / sự cố
Quản lý hiệu suất / tốc độ tăng trưởng
Quản lý an ninh / truy cập
Quản lý tài khoản / chi phí
dữ liệu và hiểu biết ý nghĩa của chúng. Cơ sở dữ liệu này bao gồm các thông tin được ghi

trên thẻ 3* 5 inch, trang đánh máy, hoặc files được lưu trữ trong máy tính. Bất kể phương
tiện truyền thông được sử dụng để lưu trữ thông tin, cơ sở dữ liệu giống như một kho thông
tin có thể được sử dụng để xác định lựa chọn, thay thế, cũng như triển khai thực hiện thay
đổi cấu hình và cách thức hoạt động của mạng lưới.
Quản lý lỗi/sự cố
Vấn đề quản lý lỗi là quá trình nhằm phát hiện, đăng nhập và thẻ, vấn đề tách biệt,
dấu vết và hoàn thành cho quyết định một kết quả không bình thường. Vì bạn phải biết
rằng một sự cố tồn tại, thứ nhất là một trong những bước quan trọng nhất trong quản lý lỗi
là phát hiện tình trạng không bình thường. Điều này có thể hoàn thành bằng một số phương
pháp, bao gồm từ việc thiết lập các ngưỡng trên một hệ thống quản lý mạng để phát ra các
loại hình cảnh báo hoặc điều kiện báo động khi vượt quá cho người sử dụng và khách hàng
gọi một kỹ thuật kiểm soát trung tâm để báo cáo các vấn đề. Sau khi một vấn đề đã được
phát hiện, nhiều tổ chức sẽ có một giới hạn trước điều hành thủ tục mà tình trạng này được
ghi chép trong một đăng nhập, nếu xác định đại diện cho một vấn đề chính đáng, được
phân công một vé sự cố cho phép theo dõi quá trình giải quyết sự cố.
Điều quan trọng để hiểu rằng nhiều sự cố liên quan các cuộc gọi đến một trung tâm
kiểm soát kỹ thuật được giải quyết ngay lập tức . Các cuộc gọi có thể yêu cầu nhân viên
trung tâm kiểm soát kỹ thuật đến từ một vài phút đến vài giờ kiểm tra cài đặt thiết bị, xem
hình ảnh hiển thị để kiểm tra tình trạng của các thiết bị từ xa và hỏi người dùng những cài
đặt phần mềm và phần cứng liên quan hoặc thực hiện các chức năng khác để giải quyết sự
cố mà không hành động. Các cuộc gọi hoặc báo động khác có thể dẫn đến việc cấp của
một thẻ sự cố đòi hỏi hành động trên một phần của nhà cung cấp dịch vụ thông tin hoặc sự
giúp đỡ của nhà cung cấp dịch vụ. Bất kể mức độ của sự cố, đăng nhập ban đầu bao gồm
một cố gắng để xác định nguyên nhân của tình huống không bình thường và xác định hành
động thích hợp cho các chỉnh sửa. Vấn đề tách biệt có thể bao gồm một thảo luận đơn giản
với một người dùng đầu cuối, kiểm tra chẩn đoán thiết bị và đường truyền hoặc mở rộng
nghiên cứu. Sau khi nguyên nhân gây ra sự cố được cô lập có thể tổ chức với người dùng
chỉnh sửa, chẳng hạn như không thể chấp nhận mức độ hiệu quả trên một mạch hoặc một
lỗi thiết bị không kết nối đến nhà cung cấp dịch vụ tổ chức mạng của bạn đang sử dụng. Vì
vậy, ngoài việc tìm kiếm sự trợ giúp thích hợp, một bước quan trọng của các quá trình quản

lý lỗi là để dấu vết cả bên trong và bên ngoài nhân viên trong nổ lực của họ để hướng tới
sửa đúng lỗi . Rất nhiều lần, lỗi quản lý sẽ đòi hỏi vé tuổi sự cố để được chuyển cấp để
nhận được . Tại các lần, lặp đi lặp lại các cuộc gọi đến một nhà cung cấp hay nhà cung cấp
7
dịch vụ thông tin để theo dõi sự tiến bộ của một sự cố thẻ có thể bộc lộ rằng các thẻ đã
được đóng lại. Mặc dù chúng tôi hy vọng rằng các lý nhà cung cấp dịch vụ hoặc nhà cung
cấp đóng sự cố và không có ý quên để thông báo cho chúng tôi những giải quyết , chúng tôi
sống trong một thế giới chưa hoàn hảo, trong đó một một thẻ sự cố có thể không cố ý bị
đóng cửa mà không giải quyết vấn đề. Vì vậy, nó là rất quan trọng đối với các dấu sự cố,
bao gồm cả thẻ sự có trạng thái.
Trong khi việc giải quyết của một điều kiện không bình thường có thể xuất hiện
những công việc sau đó trong quá trình quản lý lỗi, trong thực té nó có thể yêu cầu hiệu
suất của cấu hình hoặc thay đổi công việc quản lý. Ví dụ, nếu trong một điều kiện không
bình thường do bởi việc thực hiện thay đổi định tuyến,việc giải quyết sự có thể thay đổi cấu
hình định tuyến trở về trạng thái ban đầu với điều kiện bình thường của nó . Điều này giải
thích bên trong quan hệ giữa các chức năng của các lĩnh vực quản lý mạng.
Quản lý hiệu suất/tăng trưởng
Quản lý hiệu suất hoặc độ tăng trưởng bao gồm những công việc đòi hỏi đánh giá
việc sử dụng thiết bị quản lý mạng và khả năng truyền dẫn và điều chỉnh chúng như yêu
cầu. Công việc thực hiện có thể phạm vi từ quan sát thiết bị hiển thị để thu thập các thông
tin thống kê vào một cơ sở dữ liệu có thể được sử dụng đến các xu hướngdự án sử dụng .
Bất kể phương pháp được sử dụng, mục tiêu của quản lý hiệu suất và tăng trưởng là để đảm
bảo đủ khả năng tồn tại để hỗ trợ thông tin người dùng cuối cùng yêu cầu. Do đó, một thuật
ngữ thường được sử dụng cho quản lý hiệu suất hay tăng trưởng là năng lực lập kế hoạch.
Một trong những chi tiết thú vị bên ngoài của năng lực lập kế hoạch phối hợp phản
ứng lại của sự cố người dùng cuối. Nếu tổ chức mạng của bạn không đủ khả năng, người
dùng cuối khiếu nại sẽ thường xảy ra bất cứ khi nào thời gian phản hồi lâu hoặc người dùng
nhận một tín hiệu bận khi cố gắng truy cập mạng từ xa. Ngược lại, bạn sẽ không bao giờ
nhận khiếu nại người dùng cuối mà họ luôn luôn nhận được một thời gian phản hồi tốt hoặc
không bao giờ nhận một tín hiệu bận và rằng mạng có quá nhiều năng lực. Điều này có

nghĩa là quá nhiều khả năng sẽ yêu cầu công nhận nhân viên quản lý mạng và nó là phận
sự nhân viên để kiểm tra các tiềm năng cho cả hai thu hẹp hoặc mở rộng mạng.
Một loạt các công cụ có thể được sử dụng cho quá trình quản lý hiệu suất hoặc tăng
trưởng, bao gồm các hoá đơn thanh toán của nhà cung cấp dịch vụ ,hệ thống quản lý mạng,
chẳng hạn như các ứng dụng tiện ích Ping và Traceroute.Hoá đơn thanh toán nhà cung cấp
dịch vụ có thể hiển thị đường dây gọi vào hoặc đường dây cho thuê nối vào nhà cung cấp
dịch vụ Internet .Hệ thống quản lý mạng có thể cung cấp thông tin về việc sử dụng nội hạt
8
và mạng từ xa và mạng lưới hoạt động và sử dụng khác nhau của thiết bị quản lý mạng.
Việc sử dụng Ping, Tracerouter và các chương trình tiện ích khác có thể chỉ thị một thiết bị
hoạt động cũng như ngắt thiết bị.
Quản lý an ninh /truy cập
Quản lý an ninh hoặc truy cập mô tả cài đặt các công việc mà đảm bảo rằng chỉ cho phép
nhân viên có thể sử dụng mạng. Ngoài ra, một số tổ chức có thể yêu cầu ẩn các nội dung
của dữ liệu, đặc biệt là khi sử dụng Internet như là một mạng riêng ảo. Vì vậy, nhiệm vụ và
chức năng liên quan đến quản lý an ninh có thể bao gồm xác nhận các người dùng, mật mã
của dữ liệu, quản lý và phân phối khóa mật mã, bảo trì và kiểm tra an ninh của các bản ghi,
cấu hình danh sách truy cập bộ định tuyến và việc triển khai thực hiện những tính năng
frewall khác nhau bao gồm các dịch vụ proxy và phát hiện xâm nhập và phát báo động.
Tương tự với quản lý an ninh truy cập các nhiệm vụ và chức năng biện pháp phòng
chống vi rút, các thủ tục hoạt động và lập kế hoạch triển khai thực hiện khi cần thiết của
phương pháp khôi phục thảm họa. Mặc dù nhà quản lý mạng không thể thực hiện các
nhiệm vụ trước sự tấn công để đảm bảo rằng nhân viên không được hoặc phát những fles
đáng ngờ qua mạng, các nhà quản lý có thể công khai các phương pháp kiểm tra phần mềm
không biết cũng như các thủ tục đi theo liên quan đến việc phân phối phạm vi phần mềm
chung thu được từ những trang web chia sẻ phần mềm.
Quản lý thanh toán/chi phí
Ngoài ra để bảo đảm sự sinh, tử vong và thuế, bạn cũng có thể mong đợi câu châm
ngôn cũ 'không có bữa ăn trưa miễn phí' là cơ bản đúng sự thật. Một trong những quy trình
quản lý mạng như vậy, bao gồm việc nhận đúng thông tin vào đúng thời điểm, trong đó

cung cấp một cơ sở cho các thiết lập các chi phí chăm sóc của tài nguyên mạng. Công việc
liên quan tới quản lý thanh toán toán hoặc chi phí bao gồm việc đưa ra các trang thiết bị,
các loại truyền dẫn, việc hòa giải và các hoá đơn ghi , các tính toán giảm giá và các chi phí
khấu hao, các chứng từ chi phí cá nhân chi phí nhân đến hoạt động mạng, sự thuyết minh
các thuật toán để tính tỉ lệ cước đến người dùng và định kỳ xem xét các phương pháp thanh
toán để bảo đảm công bằng và hợp lý các chi phí hóa đơn trên cơ sở người sử dụng mạng.
Quá trình quản lý thanh toán có thể yêu cầu những nỗ lực của một nhóm chuyên gia
tại các tổ chức lớn. Đối với các tổ chức vừa và nhỏ ,các nỗ lực bao gốm quản lý kế toán có
thể vẫn là đáng kể, đặc biệt khi so với các điều cần thiết để thực hiện chức năng quản lý
mạng lưới. Nhiều tổ chức tập trung vốn đầu tư chi phí các thông tin hoặc thêm chi phí cho
việc sử dụng xử lý dữ liệu của họ. Trong khi điều này chắc chắn sẽ giảm bớt các công việc
9
liên quan tới quản lý thanh toán, các chức năng quản lý chi phí khác, bao gồm cả ngân sách,
kiểm tra ảnh hưởng của thuế dựa trên sự thay đổi cấu trúc của mạng lưới, và thẩm tra sự
đúng đắn của người bán và hóa đơn của nhà cung cấp dịch vụ. Những chức năng quản lý
chi phí và thanh toán là một phần quan trọng trong quản lý mạng dù có người dùng hoặc
các tổ chức cơ quan hay không.
1.2.2 Các chức năng quản lý mạng lưới
Mặc dù quản lý mạng theo khuôn OSI là thông minh, nó không phải là tất cả, bao
gồm hai phím khu vực chức năng mà chỉ là một phần kín đáo trong khuôn OSI là đủ quan
trọng để điều chỉnh nhận dạng của họ như là thực thể riêng biệt là quản lý tài sản và hoạch
định hoặc hỗ trợ quản lý.
Quản lý tài sản
Quản lý tài sản là tập hợp các công việc liên quan đến sự thuyết minh và thu hồi các
hồ sơ của thiết bị, điều kiện thuận lợi và nhân sự. Hồ sơ thiết bị có thể bao gồm một hoặc
nhiều cơ sở dữ liệu thông tin-bao gồm các thiết bị được sử dụng trong mạng, các thông số
cài đặt, dữ liệu nhà sản xuất và số điện thoại để gọi cho bảo trì, và thông tin tương tự. Hồ
sơ thiết bị có thể hệ thống quản lý mạng hiện có, có thể bổ sung thêm thông tin nhận được
từ hệ thống quản lý mạng hoặc có thể là hệ thống quản lý mạng hoàn toàn độc lập .Hồ sơ
khả năng truyền dẫn có thể đơn giản bao gồm số các mạch điện và điểm liên lạc của nhà

cung cấp dịch vụ hoặc chúng có thể chứa các thông tin bổ sung như mong đợi hoặc bảo
đảm mức độ hiệu quả và kết quả theo dõi của thời kỳ trước đó .Sau đó bao gồm người sử
dụng cuối lưu ý xu hướng phát triển, trong đó có thể bao gồm sự hư hỏng chất lượng mạch
địện.
1.3 CÔNG CỤ VÀ HỆ THỐNG
Chưa kiểm tra kết quả thông tin thiếu. Sự phân tích của dữ liệu hồ sơ mạch điện cho
phép người sử dụng cuối cùng liên lạc với nhà cung cấp dịch vụ thông tin của họ yêu cầu
hỗ trợ trước khi kết quả lỗi xuống cấp của mạch có thể ngăn cản thông tin.
Thật không may, nhân viên thường loại trừ quá trình quản lý tài sản mặc dù tài sản là quý
giá nhất . Theo quá trình quản lý tài sản, bạn nên cân nhắc việc phát triển các hồ sơ vì nó
biểu thị kinh nghiệm công việc người lao động, giáo dục, đào tạo, và mức giấy chứng nhận.
Bạn có thể dùng thông tin này để thuận tiện nhiệm vụ người lao động đến những kế hoạch
mạng khác nhau.Tương tự thông tin liên quan đến giáo dục,đào tạo và chứng nhận có thể
10
được dùng kết với tổ chức yêu cầu thực hiện phân chia phát triển kế hoạch phân phối đào
tạo và phân bố ngan quỹ cho phép người lao động tiếp thu phù hợp trong đào tạo. Các phân
tích của mạch
Quản lý kế hoạch / hỗ trợ
Quản lý kế hoạch và hỗ trợ bao gồm những công việc cho phép các nhà quản lý
mạng và các quản trị viên cung cấp hỗ trợ cho người sử dụng hiện tại cũng như lên kế
hoạch cho tương lai. Hỗ trợ cho người sử dụng hiện tại có thể được xem như là một siêu
thiết lập trước đây mô tả chức năng quản lý mạng. Trong thực tế, hỗ trợ cũng như lập kế
hoạch phù hợp với chức năng quản lý mạng lưới khác. Ví dụ về các chức năng hỗ trợ quản
lý có thể bao gồm việc điều chỉnh khả năng mạng để cung cấp các thay đổi trong việc sử
dụng, sắp đặt thiết bị và phương tiện để hỗ trợ các ứng dụng mới hoặc ứng dụng mở rộng,
và họp với người sử dụng cuối cùng để xác định mức độ hài lòng hoặc không hài lòng của
họ với phương pháp truyền thông hiện tại.
Liên quan chặt chẽ để hỗ trợ quản lý là quá trình lập kế hoạch quản lý. Trong quá
trình lập kế hoạch bạn có thể đáp ứng với người sử dụng cuối cùng để xác định các yêu cầu
cũng như sự hài lòng hoặc không hài lòng với các thông tin liên lạc hiện có. Ngoài ra, quá

trình lập kế hoạch có thể liên quan đến việc thu thập dữ liệu từ các chức năng quản lý mạng
khác, trong đó cho phép bạn phát triển các mô hình để hỗ trợ trong việc thiết kế cấu trúc
mạng mới hoặc tối ưu hóa kiến trúc mạng hiện tại. Cuối cùng, nếu kết quả trong quá trình
lập kế hoạch được khuyến nghị thay đổi trong kiến trúc của mạng, sau khi phê duyệt các
thay đổi này phải được thực hiện. Do đó, quá trình lập kế hoạch phải bao gồm các bước cần
thiết để triển khai thực hiện việc cấu hình hoặc thay đổi những công việc quản lý.
Hình 1.1 tóm tắt vùng chức năng quản lý mạng và những công việc liên quan đến
mỗi vùng. Bạn nên lưu ý rằng trường hợp hợp lệ có thể được thực hiện bao gồm nhiều công
việc dưới hai hoặc nhiều chức năng. Vì vậy, bạn có thể xem các công việc liên kết với các
chức năng trong hình1.1 như là một tài liệu hướng dẫn cho các lĩnh vực cơ bản trong đó
những công việc đã được thực hiện không phải như là tất cả các ví dụ của những công việc
đã thực hiện.
11
Hình 1.1 Mạng quản lý các khu vực chức năng và nhiệm vụ
Ngày nay có nhiều công cụ có thể sử dụng để cung cấp một mức hỗ trợ đáng kể trong việc
quản lý TCP / IP dựa trên mạng. Như vậy các công cụ trong phạm vi sử dụng các tiện ích
như các chương trình Ping, Traceroute và NSLOOKUP để phân tích các giao thức và các
chương trình báo cáo thống kê để cung cấp một sự hiểu biết liên quan đến việc sử dụng
mạng. Nói chung, công cụ quản lý mạng có thể được chia làm ba loại chính: công cụ giám
sát, công cụ chẩn đoán và hệ thống quản lý dựa trên máy vi tính.
1.3.1 Các công cụ giám sát
Các công cụ giám sát cung cấp cho bạn khả năng quan sát các hoạt động và thi hành
của các thiết bị và các khả năng truyền. Ví dụ về các công cụ giám sát gồm các ứng dụng
tiện như Ping có thể thông báo cho bạn nếu một thiết bị đang hoạt động và phát hiện được
cũng như các chương trình phần mềm giám sát lớp 2 và lớp 3 chẳng hạn như EtherVision,
EtherPeek, và các sản phẩm khác sẽ được mô tả và thảo luận trong các chương sau của
cuốn sách này.
1.3.2 Công cụ chẩn đoán
Một công cụ chẩn đoán thường sử dụng để phát hiện các sự cố trang thiết bị hoặc
phương tiện truyền. Ví dụ về các công cụ chẩn đoán cũng có thể bao gồm Ping nó sử dụng

để cung cấp thông tin về trạng thái hoạt động của thiết bị cũng như các bộ giải mã gói có
thể đưa ra ánh sang những lý do tại sao các thiết bị thông tin liên lạc đang không hoạt động
đúng.
1.3.3 Hệ thống quản lý dựa trên máy vi tính
Hệ thống quản lý dựa trên máy vi tính chạy chương trình đồ hoạ từ máy tính cá nhân
trên nền quản lý mạng SNMP tới toàn bộ các nền tảng của hệ thống máy tính có hỗ trợ
SNMP, cũng như các nhà cung cấp độc quyền phần cứng quản lý. Hình 1.2 minh họa chung
12
các thành phần của một hệ thống quản lý dựa trên máy vi tính. Công nghệ quản lý cung
cấp một điểm điều khiển cho truy cập vào các thiết bị. Điểm này hoặc đặt cùng một mạng
hoặc nằm trên một mạng xa. Trong môi trường TCP/IP trạm quản lý sử dụng giao thức
SNMP là giao thức truyền thông để truy cập vào các thiết bị khác để thực hiện chức năng
quản lý khác nhau.

Hình 1.2 Các thành phần chính của một hệ thống quản lý mạng
Trình ẩn là phần mềm mà có nhiệm vụ biên dịch và hoạt động theo yêu cầu từ các
nền tảng quản lý mạng. Thành phần chính thứ ba của một hệ thống quản lý là cơ sở thông
tin quản lý (MIB). MIB là cơ sở dữ liệu của các đối tượng diễn tả luật thi hành được duy trì
bởi một thiết bị hoặc các giá trị của các tham số lien quan với các thiết bị mà có thể được
đọc hoặc có khả năng reset. Trong môi trường TCP/IP các trình ẩn thực hiện giám sát từ xa
xảy ra thông qua việc sử dụng các thăm dò RMON, với thuật ngữ thăm dò được sử dụng để
diễn tả trình ẩn ở xa và MIB của nó. Lưu ý rằng các trình ẩn và các MIB của nó có thể như
là một mô-đun trong một thiết bị thông tin liên lạc, chẳng hạn như một bộ định tuyến hoặc
CSU, hoặc có thể hoạt động như là một trạm độc lập được kết nối với mạng, chẳng hạn
như là một máy thăm dò. Bây giờ chúng ta có đánh giá tổng hợp cho các chức năng quản lý
mạng, các công cụ, và các hệ thống, chúng ta sẽ kết thúc chương này với tổng quan các nội
dung của các chương trong cuốn sách này.
13
Chương 2 AN NINH MẠNG TCP/IP
2.1 AN NINH ĐỊNH TUYẾN

Một bộ định tuyến mô tả một phần trong hầu hết các loại mạng cũng như thiết bị
truyền thông đầu tiên được sử dụng để truyền dữ liệu giữa các mạng. Được hiểu theo cách
thông thường, nó mô tả nhiều kế hoạch thiết bị mạng truyền thông. Khi thay đổi cấu hình
của bộ định tuyến (cố ý hoặc không cố ý) có thể đều ảnh hưởng đến trạng thái hoạt động
của nó và ảnh hưởng đến tổ chức mạng. Một điều nữa nếu bảng định tuyến hoặc các tham
số khác nhau thay đổi, nó có thể làm thay đổi tổ chức dữ liệu để gởi đến vị trí nơi mà thông
tin có thể ghi và đọc bởi bộ phận thứ 3. Điều này rất quan trọng để hiểu rằng tại sao người
ta có thể truy cập và điều khiển bộ định tuyến, và từng bước tạo ra độ an toàn cho thiết bị
mạng truyền thông.
Trong phần này chúng tôi sẽ xem xét và thảo luận các phương pháp truy cập định
tuyến trong cả hai thuật ngữ chung và riêng. Thảo luận truy cập định tuyến của chúng ta
trong thuật ngữ chung sẽ áp dụng đến các sản phẩm được sản xuất bởi nhiều nhà cung cấp
khác nhau. Tuy nhiên, khi trở về sự chú ý đến phương pháp truy cập cụ thể và các phương
pháp chúng tôi có thể sử dụng an ninh truy cập đến bộ định tuyến, chúng tôi sẽ tổng hợp bổ
sung cụ thể chi tiết ứng dụng đến các bộ định tuyến do hệ thống Cisco sản xuất . Mặc dù ví
dụ các phương pháp cụ thể để bảo vệ truy cập đến các bộ định tuyến trong phần này được
định hướng theo định tuyến Cisco, nhưng trên thực tế các bộ định tuyến được sản xuất bởi
nhiều nhà cung cấp khác nhau nhưng đều có những khả năng tương tự nhau. Nếu tổ chức
mạng của bạn sử dụng các bộ định tuyến được sản xuất bởi nhiều hãng khác nhau, bạn có
thể kiểm tra chức năng an ninh truy cập của bộ định tuyến đó và các lệnh cụ thể được hổ
trợ bởi bộ định tuyến đến một hoặc nhiều chức năng an ninh truy cập để cho phép, không
cho phép và bảo vệ truy cập đến thiết bị dựa vào tài liệu hướng dẫn sử dụng cụ thể của nhà
cung cấp bộ định tuyến.
2.1.1 Sự cần thiết an ninh truy cập
Khi xem xét đến an ninh định tuyến, hầu hết người ta nghĩ đến những danh sách
truy cập định tuyến. Những danh sách truy cập định tuyến này được dùng để thiết lập
những giới hạn khi truyền dữ liệu thông qua các cổng của bộ định tuyến và được xem xét
để mô tả phạm vi phòng thủ mạng đầu tiên. Mặc dầu danh sách truy cập định tuyến là vô
14
cùng quan trọng về khía cạnh an ninh mạng, tác giả xem xét chúng để thực tế mô tả phạm

vi phòng thủ thứ hai của mạng. Điều này bởi vì khả năng truy cập và cấu hình bộ định
tuyến trình bày trong phạm vi phòng thủ đầu tiên của mạng. Nếu khác hơn là người được
chỉ rõ đạt được khả năng truy cập và thay đổi cấu hình tổ chức định tuyến, điều này có
nghĩa là bất kỳ danh sách truy cập đã trình bày trước đây có thể được thay đổi hoặc loại bỏ
- trong hiệu ứng cắt bỏ cách bảo vệ mạng đã trình bày trước. Tương tự như người nông dân
xây dựng một chuồng gà hình ba chiều, khi ra về vô tình để cửa đóng hờ, do thiếu sót trong
bảo vệ nên để mất loại động vật quí giá cũng như trong tổ chức định tuyến nếu bảo vệ
không tốt có thể người khác truy cập đến tài nguyên mạng . Điều này giải thích tại sao
chúng tôi sẽ thảo luận an ninh truy cập định tuyến trong phần này trước khi thảo luận lại
danh sách truy cập định tuyến trong phần thứ hai.
Khi khảo sát sâu hơn vào trong truy cập định tuyến, chúng tôi lưu ý đến vài phương
pháp tục ngữ chặn cửa vào ra đến thiết bị truyền thông này. Trên thực tế, một phương pháp
chúng ta trao đổi gồm việc sử dụng một danh sách truy cập định tuyến bằng một kỹ thuật
điều khiển đến bộ định tuyến để chắc chắn xác định trước địa chỉ IP. Tuy nhiên, trước khi
làm điều đó, chúng ta phải khóa cổng ra vào ,điều này phải làm xong trước khi sử dụng khả
năng danh sách truy cập định tuyến. Như vậy, sử dụng danh sách truy cập được xem lại ở
một phạm vi phòng thủ thứ hai.
2.1.2 Truy cập định tuyến
Mục đích của việc thảo luận này là, thuật ngữ truy cập định tuyến mô tả khả năng
của một người kết nối với một bộ định tuyến và truy cập vào hệ điều hành của nó. Hầu hết
các bộ định tuyến bao gồm một hoặc nhiều cổng nối tiếp được lắp vào các thiết bị cho phép
đầu cuối hay máy tính cá nhân, một loại đầu cuối cụ thể truy cập đến bộ định tuyến. Đầu
cuối truy cập này có thể kết nối trực tiếp bằng cáp hoặc đường dẫn thông tin từ xa. Sau đó
được hoàn thành thông qua người sử dụng modem hoặc DSU được kết nối đến một cổng
nối tiếp bộ định tuyến. Mặc dù sử dụng kết nối cổng nối tiếp là phương pháp đầu tiên được
sử dụng ở hầu hết các tổ chức cung cấp truy cập đến hệ điều hành một bộ định tuyến để
cho phép cấu hình thiết bị, nhưng nó không phải là phương pháp truy cập duy nhất. Cộng
thêm các phương pháp được hổ trợ bởi nhiều bộ định tuyến gồm truy cập Telnet và sử dụng
giao thức HTTP (Trial File Transfer Protocol) để lưu trữ và truyền tải hình ảnh hệ
thống, các tệp cấu hình giữa bộ định tuyến và máy trạm.

2.1.3 Truy cập Telnet
15
Telnet cung cấp khả năng truy cập một thiết bị từ xa bao gồm một bộ định tuyến
như thể thiết bị đầu cuối môt chương trình máy khách Telnet được kết nối trực tiếp đến
thiết bị từ xa. Telnet truy cập đến bộ định tuyến có thể xảy ra từ phía trước hay phía sau
bộ định tuyến, thuật ngữ phía trước được sử dụng dựa vào truy cập đến bộ định tuyến
thông qua mạng diện rộng (mạng WAN) kết nối từ một vị trí trạm trên mạng khác không
trực tiếp nối đến cổng bộ định tuyến cụ thể, trong khi thuật ngữ phía sau đề cập đến một
một vị trí trạm trên một mạng kết nối trực tiếp đến cổng bộ định tuyến mạng nội bộ (mạng
LAN). Điều này nghĩa là truy cập Telnet đến một bộ định tuyến có thể xảy ra từ một thiết
bị nội bộ trên tổ chức mạng nội bộ hoặc nếu bộ định tuyến được kết nối đến Internet, từ
bất kỳ thiết bị đầu cuối trên thế giới có truy cập Internet. Điều này cũng có nghĩa là, bất kỳ
vị trí máy khách hoạt động chương trình Telnet, nhà điều hành chương trình chỉ cần biết
địa chỉ IP của giao tiếp mạng của bộ định tuyến để bắt đầu một phiên kết nối Telnet đến bộ
định tuyến và truy cập đến thiết bị. Nếu nhân viên điều hành của máy khách Telnet thực
hiện một kết nối đến bộ định tuyến nhân viên điều hành sẽ nhận được một nhắc nhở, chẳng
hạn như:
Tên định tuyến> hay
Xác định người dùng truy cập
Mật khẩu:
Ở đây tên định tuyến mô tả tên một tổ chức được chỉ định bộ định tuyến, trong khi
mật khẩu mô tả nhắc nhở nhập mật khẩu thích hợp để truy cập vào bộ định tuyến. Hình 2.1
minh họa việc sử dụng một máy khách Telnet sẵn sàng dùng dưới Windows 95 và
Windows 98 đến hàng triệu người để truy cập một bộ định tuyến có địa chỉ IP là
205.131.176.1. Trong ví dụ minh hoạ của Hình 2.1 bộ định tuyến gián đoạn kết nối sau ba
lần thử đăng nhập không thành công. Tuy nhiên, tin tặc có thể ngay lập tức thử lại nhiều
hơn ba lần. Với việc sử dụng một tập lệnh và một từ điển điện tử, điều đó trở thành một
công việc tương đối đơn giản cho người ta bẻ khóa mật khẩu (crack) chương trình Telnet
để truy cập vào khả năng cấu hình bộ định tuyến. Vì vậy, điều quan trọng để chọn mật khẩu
đó là không những không có trong từ điển mà còn không mô tả các điều nhỏ trong các từ

của từ điển, chẳng hạn như dog7, từ một tin tặc có thể lập trình lặp đi lặp lại nhiều từ cho
một tấn công thành công suốt thời gian.
Cần lưu ý rằng nhiều tổ chức có một chính sách địa chỉ IP, ở đó chúng chỉ định chỉ
thấp cho giao tiếp bộ định tuyến. Ví dụ, nếu địa chỉ mạng IP thuộc lớp C là 205.123.124.0,
chúng có thể chỉ định 205.123.456.1 bằng một địa chỉ giao tiếp từ mạng 205 đến bộ định
16
tuyến. Nhiều tổ chức đã sử dụng việc sắp xếp địa chỉ chung này, thông thường sẽ rất là dễ
dàng để xác định địa chỉ của bộ định tuyến cho Telnet tiếp theo. Ở điểm này trong lúc nhân
viên điều hành máy khách cho phép truy cập trực tiếp tất cả cấu hình bộ định tuyến và kiểm
soát bộ định tuyến. Bằng việc mở rộng một tập lệnh giả với việc sử dụng một từ điển điện
tử, nhiều tin tặc biết cấu hình nhiều bộ định tuyến do các nhà sản xuất cài đặt mật khẩu mặc
định truy cập Telnet. Điều này thật không may cho các tổ chức mạng, tốt hơn họ không bao
giờ sử dụng mật khẩu mặc định. Điều này là do các mật khẩu có trong danh sách trong
hướng dẫn sử dụng bộ định tuyến của nhà cung cấp, những mật khẩu này có thể mua với
giá 29,95 đô la hoặc cho truy cập miễn phí thông qua World Wide Web. Điều này có nghĩa
là hầu như không có giới hạn số người có khả năng để khám phá các mật khẩu mặc định
cần thiết để truy cập vào một bộ định tuyến thông qua một kết nối Telnet. Nếu các bộ định
tuyến mà quản trị viên không thể thay đổi mật khẩu mặc định truy cập Telnet hay không
đặt thêm bất kỳ hạn chế khi truy cậpTelnet thì bất kỳ người nào có kiến thức về địa chỉ IP
của giao tiếp bộ định tuyến có thể được truy cập vào thiết bị.
2.1.4 Truy cập TFTP
Hầu hết các bộ định tuyến có hai loại bộ nhớ: Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM) và
bộ nhớ không bay hơi. Không giống như bộ nhớ RAM, nội dung của nó bị xoá hoàn toàn
khi mất nguồn, nội dung của bộ nhớ không bay hơi không bị xóa. Khi cấu hình, bộ nhớ
định tuyến không bay hơi thường được sử dụng để lưu trữ hình ảnh của bộ nhớ bộ định
tuyến cũng như sao lưu dự phòng hoặc thay thế cấu hình định tuyến. Bởi vì bộ định tuyến
không chứa đĩa mềm hoặc không có ổ đĩa cứng, khả năng của chúng lưu trữ nhiều hơn vài
cấu hình thay đổi bị giới hạn. Điều này có nghĩa là các quản trị viên đòi hỏi khả năng lưu
trữ dự phòng hoặc thay thế cấu hình bộ định tuyến vượt ra ngoài khả năng giới hạn bộ nhớ
không bay hơi tiêu biểu của bộ định tuyến làm như vậy trên máy trạm và sử dụng chương

trình TFTP (Trivial File Transfer Program) để tải và lưu các hình ảnh hệ thống bộ định
tuyến và các tập tin cấu hình. Điều này cũng có nghĩa là nếu được phép truy cập TFTP, tùy
theo cách thức hỗ trợ truy cập TFTP của bộ định tuyến, nó có thể cho phép cá nhân không
được quyền tạo ra cấu hình dữ liệu khi sử dụng bộ định tuyến, dẫn đến vi phạm bảo mật
hoặc không được định trước môi trường hoạt động.
Bây giờ chúng ta đánh giá các phương pháp chính có thể được sử dụng để truy cập
vào bộ định tuyến, chúng ta quay về các phương pháp được sử dụng là bảo vệ truy cập
hoặc khóa cửa ra vào dựa trên phương pháp truy cập. Điều này sẽ cung cấp cho chúng ta
khả năng làm nó khó khăn đối với những người được phép truy cập bộ định tuyến và giành
17
được khả năng xem và thay đổi các cấu hình thiết bị. Trong khi làm điều đó, chúng ta sẽ
thảo luận về một số lệnh định tuyến các hệ thống Cisco.

Hình 2.1
Hình 2.1 Qua việc sử dụng máy khách Telnet bao gồm hàng triệu bản sao của
Windows 95 và Windows 98, tin tặc có thể truy cập vào khả năng cấu hình định tuyến kết
nối vào Internet.
2.1.5 Bảng điều khiển và đầu cuối ảo
Sau khi bạn mở gói bộ định tuyến và bắt đầu quá trình cài đặt của nó, điều này vô
cùng quan trọng là xem xét cách thức truy cập vào cấu hình thiết bị. Nếu bạn cho phép thay
đổi cấu hình từ một kết nối trực tiếp thiết bị đầu cuối, bạn cần đảm bảo Telnet và TFTP
được phép truy cập. Trong môi trường định tuyến của Cisco, bạn có thể truy cập cấu hình
từ bàn điều khiển và đầu cuối ảo thông qua việc sử dụng ‘dòng’ lệnh. Dòng lệnh này theo
định dạng sau:
dòng [loại từ khoá]dòng đầu tiên [dòng cuối]
Ở đây thông tin trong dấu ngoặc đơn mô tả tùy chọn. Các loại từ khóa nhập vào có
thể được nhập vào bảng điều khiển là 'aux' hoặc 'vty'. Bảng điều khiển nhập mô tả một
18

×