Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở việt nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM VĂN HÙNG

HỆ MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM VĂN HÙNG

HỆ MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:

60 22 85

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Oánh



Hà Nội - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1. CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC
TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .......................................................... 10

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ......... 10
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ............. 10
1.1.2. C.Mác và Ph.Ăngghen bàn về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội .............. 12
1.1.3. Quan điểm của V.I.Lênin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ................. 18
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ............................... 26
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử............................................................................. 27
1.2.2. Về những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............................ 31
Chƣơng 2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC VÀ HIỆN THỰC HÓA
MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG HƠN 25 NĂM ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM ................................................................................. 39

2.1. Quá trình phát triển nhận thức về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam ................................................................................................. 39
2.1.1. Nhận thức về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới ...... 39
2.1.2. Nhận thức về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới ............... 42
2.2. Hiện thực hóa những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới ................................................................................................... 52
2.2.1. Thành tựu hiện thực hoá mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ... 52
2.2.2. Một số hạn chế, yếu kém trong quá trình hiện thực hoá mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .......................................................... 62

Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ
NHỮNG MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI................................................................................ 67

3.1. Các căn cứ đề xuất giải pháp............................................................................. 67


3.1.1. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm sút lòng tin
của nhân dân đối với Đảng .................................................................... 67
3.1.2. Xuất hiện xu hướng hạ thấp vai trò quản lý của Nhà nước, nhất là
trong lĩnh vực kinh tế ............................................................................ 68
3.1.3. Nhu cầu chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế tạo sự phát triển
bền vững cho đất nước .......................................................................... 69
3.1.4. Lý luận về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và hiệu quả của kinh
tế nhà nước (trực tiếp là doanh nghiệp nhà nước) còn nhiều cách
nhận định và đánh giá khác nhau .......................................................... 70
3.1.5. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta hiện
nay đạt hiệu quả chưa cao ..................................................................... 71
3.2. Hệ giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới........................................................ 72
3.2.1. Nhóm giải pháp về chính trị ................................................................... 72
3.2.2. Nhóm giải pháp về kinh tế ..................................................................... 84
3.2.3. Nhóm giải pháp về văn hoá - xã hội ...................................................... 87
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 94


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử phát triển của xã hội loài người thực chất là lịch sử phát triển và
thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở phát hiện quy luật vận động
của lịch sử loài người nói chung, của xã hội tư bản chủ nghĩa nói riêng, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết triết học của mình, trong đó chỉ rõ:
Loài người nhất định sẽ đi tới xã hội cộng sản văn minh - đó là một tất yếu khách
quan. Trong xã hội đó, giai cấp công nhân và toàn xã hội được giải phóng triệt
để khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn, lạc hậu và mọi sự tha hóa;
xoá bỏ chế độ tư hữu, tiến tới xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải được thực hiện thông qua
vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng
sản. Để hoàn thành sự nghiệp này, các Đảng Cộng sản cần có Cương lĩnh chính
trị trong đó xác định rõ các mục tiêu và chiến lược, sách lược để đạt được mục
tiêu đó. “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848) do C.Mác và Ph.Ăngghen
soạn thảo chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản và giai cấp
công nhân thế giới; là ngọn cờ dẫn dắt phong trào đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây
dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu xuyên suốt: “sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [45, tr.
628].
Trong điều kiện nước Nga sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười
(1917), V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Ông tiếp tục khẳng định mục tiêu cao nhất của xã
hội là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản văn minh, đồng thời chỉ ra mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế - xã hội còn lạc hậu như nước Nga.
Theo đó, việc giành và giữ vững chính quyền cách mạng, tổ chức xây dựng

1


chính quyền Xôviết vững mạnh được xem là mục tiêu lâu dài; phát triển lực

lượng sản xuất hiện đại là nền tảng; phát triển văn hoá, giáo dục... là những mục
tiêu quan trọng được V.I.Lênin và Đảng Bônsêvich Nga đặc biệt quan tâm nhằm
góp phần xây dựng một nước Nga xã hội chủ nghĩa hùng cường.
Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái
Quốc đã tiếp cận “Luận cương” của V.I.Lênin. Người đi đến khẳng định: “Chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Hội nghị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (02/1930) đã thông qua “Cương lĩnh chính trị đầu
tiên” của Đảng, trong đó chính thức ghi nhận mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng
nước ta là: “...làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản” [48, tr. 1].
Qua từng thời kỳ lịch sử, nhận thức về chủ nghĩa xã hội được Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng bước làm rõ nhưng luôn dựa trên sự kiên định trước
sau như một mục tiêu: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Nhờ đó,
chúng ta đã từng bước vượt qua khó khăn, trở ngại, hoàn thành thắng lợi công
cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước,
tạo đà tiếp tục tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Và trong điều kiện
mới của lịch sử dân tộc, nhận thức về chủ nghĩa xã hội tiếp tục có những bổ sung,
hoàn thiện. Đại hội VI của Đảng (1986) đã đặt nền móng quan trọng cho sự hình
thành nhận thức mới của toàn Đảng, toàn dân ta về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tổng kết 5 năm đổi mới, Đại hội VII
của Đảng (1991) đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội” trong đó nêu lên 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà
nước ta đang xây dựng. Đại hội VIII (1996), IX (2001) và X (2006) của Đảng
tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhận thức mới về công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta trên nhiều nét cơ bản gắn với những mục tiêu cụ thể. Đảng đã

2



khẳng định: “... Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về
xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
hình thành trên những nét cơ bản” [24, tr. 17]. Tổng kết chặng đường 25 năm đổi
mới toàn diện đất nước và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI
của Đảng đã xác định 8 mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
đang xây dựng trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011).
Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay vẫn đang đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung và phát triển cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới của
đất nước.
Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội và thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong thời gian qua, từ những bài học thành công và thất bại của quá trình này;
đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước
thường xuyên ra sức chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; việc nghiên cứu và
quán triệt những quan điểm đúng đắn về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của
các nhà kinh điển và của Đảng ta có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy, tác giả
lựa chọn đề tài: “Hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới” cho luận văn thạc sĩ của mình. Qua đề tài này, tác giả mong muốn tiếp tục
góp phần làm rõ mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là một mục tiêu
xuyên suốt toàn bộ học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trở thành
đường lối cách mạng chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả cố gắng
luận giải về tính thống nhất biện chứng trong sự vận dụng trung thành và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào điều kiện

3



lịch sử cụ thể ở nước ta, góp phần mang lại những thành tựu bước đầu của công
cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm vừa qua, ở Việt Nam có nhiều công trình khoa học, sách báo,
tạp chí của các tác giả đã công bố về vấn đề lý luận và thực tiễn công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Với những cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã nêu
lên nhiều vấn đề vừa mang tính quy luật chung, vừa mang tính đặc thù của quá
trình đó mà đề tài cần tham khảo và kế thừa. Một số công trình tiêu biểu, như:
- Trần Nhâm (Chủ biên): “Có một Việt Nam như thế: Đổi mới và phát
triển”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Các tác giả đã làm sáng tỏ các
luận cứ khoa học và thực tiễn của đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta, khẳng định những thành tựu to lớn của 10 năm đầu đổi
mới và trình bày các định hướng phát triển cho thời kỳ mới.
- Nguyễn Đức Bình (Chủ nhiệm): “Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KHXH
01.01), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Đây là công trình nghiên cứu khá
công phu và sâu sắc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Các tác giả đã đề cập tới con đường cứu nước và giải phóng dân tộc
gắn với bước đột phá về đường lối cứu nước mà Nguyễn Ái Quốc vạch ra để dẫn
dắt dân tộc ta đến những thắng lợi lịch sử. Đồng thời, các tác giả trình bày quá
trình đổi mới tư duy, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay, từ đó vạch ra phương hướng và nội dung cơ bản của việc phát triển
kinh tế - xã hội và văn hoá, đổi mới hệ thống chính trị.
- Tập thể tác giả: “Việt Nam 20 năm đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006. Thông qua tác phẩm, các tác giả đã tổng kết một số vấn đề lý luận
- thực tiễn của chặng đường 20 năm đổi mới đất nước, phân tích những thành tựu

4



to lớn đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời chỉ ra
những khiếm khuyết, khó khăn, thách thức còn tồn tại, từ đó rút ra những bài học
cho chặng đường tiếp theo của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Nguyễn Ngọc Long (Chủ biên): “Chủ nghĩa Mác-Lênin với vận mệnh và
tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2009. Các tác giả đã làm rõ quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã
hội hiện thực trước đổi mới và ý nghĩa của nó, từ đó đi sâu phân tích tiến trình
đổi mới và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa và tương lai của chủ nghĩa
xã hội hiện thực.
- Vũ Văn Phúc: “Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Tác giả tập trung làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn về cách thức, bước đi, thực hiện nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, qua đó góp
phần cung cấp thêm một cách tiếp cận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Tô Huy Rứa (Đồng chủ biên): “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng từ năm 1986 đến nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Trên cơ sở
tổng kết lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới đất nước, các tác giả đã tập trung
làm rõ sự hình thành và những phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng ta, đặc
biệt là những nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó, các tác giả đã phân tích và đánh giá những
thành tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng trên tất cả các lĩnh vực;
chỉ ra những hạn chế, những vấn đề đặt ra, nguyên nhân và bài học về đổi mới tư
duy lý luận của Đảng; xác định những quan điểm, phương hướng và giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn trong tình hình mới của cách mạng nước ta.

5



- Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên): “Một số khía cạnh
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”,
Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2010. Các tác giả đã tập trung làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên các lĩnh vực đời sống xã hội, qua đó đưa ra
một số đánh giá về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X và những nội dung cần
bổ sung, phát triển Cương lĩnh 1991 của Đảng ta.
- Hoàng Chí Bảo: “Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá về lịch sử và lý luận, thực trạng và triển vọng, giá trị của chủ
nghĩa xã hội hiện thực; về đặc điểm của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tác giả khẳng định quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là sự lựa chọn
đúng đắn, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, phù hợp với quy luật
khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của
toàn dân ta. Đồng thời, tác giả cũng gợi mở nhiều vấn đề cần nghiên cứu, tổng
kết nhằm làm sáng tỏ những nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Các công trình khoa học, sách báo nói trên tuy nội dung rất phong phú
nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu có tính chất chuyên sâu đề tài hệ mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Vấn đề đó mới chỉ được
các nhà lý luận, các nhà hoạt động chính trị đề cập ở những mức độ nhất định,
phản ánh những khía cạnh cụ thể. Lựa chọn đề tài này, tác giả luận văn tiếp thu
kết quả nghiên cứu của những người đi trước và mong muốn bổ sung được
những ý kiến, đề xuất làm sáng tỏ hơn nội dung của đề tài, đóng góp thêm cho
công tác nghiên cứu lý luận.

6



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Nghiên cứu, phân tích có hệ thống và làm sáng tỏ những nội dung cơ bản
về hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thực tiễn cách mạng nước ta thời kỳ đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
Một là: Làm rõ lý luận về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
Hai là: Phân tích thực tiễn quá trình phát triển nhận thức của Đảng ta về
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và từng bước hiện thực hóa mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 trở lại đây;
Ba là: Khuyến nghị một số giải pháp cơ bản góp phần thực hiện có hiệu
quả các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở sự
thống nhất biện chứng trong chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự
vận dụng, phát triển sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội;
đường lối của Đảng ta và thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam từ năm 1986 đến nay.

7



5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp, thống
kê, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn...; kế thừa các công trình nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các tác giả trước,
đồng thời dựa vào quá trình phân tích về mặt lý luận và tổng kết thực tiễn công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, luận văn bước đầu hệ
thống hóa sự thống nhất biện chứng trong quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; làm rõ quá trình
Đảng ta từng bước phát triển nhận thức và hiện thực hóa các mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay.
Trên cơ sở đó, tác giả khuyến nghị một số giải pháp góp phần thực hiện mục tiêu
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc
nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội trong các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được bố cục thành 3 chương, 6 tiết:

8



Chƣơng 1: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội;
Chƣơng 2: Quá trình phát triển nhận thức và hiện thực hóa mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội trong hơn 25 năm đổi mới ở Việt Nam;
Chƣơng 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.

9


Chƣơng 1
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế và
các Đảng Cộng sản do C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895) đồng
sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, được V.I.Lênin kế thừa, bảo vệ và
phát triển sáng tạo vào đầu thế kỷ XX. Đó là khoa học về những quy luật chung
nhất của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển sản
xuất xã hội; về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
chống lại mọi sự áp bức, bóc lột, bất công; về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản văn minh. Chủ nghĩa MácLênin là một hệ thống thống nhất hữu cơ không tách rời nhau của ba bộ phận cấu
thành: Triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, với mục tiêu
chung là luận giải cơ sở khoa học của sự chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản và vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình ấy.
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
1.1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội
Tại các nước xã hội chủ nghĩa, khái niệm chủ nghĩa xã hội thường được
tiếp cận qua mấy phương diện sau:

Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội với tính cách là một trào lưu tư tưởng, lý luận,
phản ánh lý tưởng giải phóng đa số nhân dân lao động; được nảy sinh, phát triển
qua hàng ngàn năm ở khắp các quốc gia, dân tộc. Do đó, nó mang giá trị nhân
văn sâu sắc và rộng lớn.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội với tính cách là một khoa học, hiểu theo nghĩa
hẹp là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin, là bộ phận lý luận
10


chính trị - xã hội. Xét theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân, do đó cũng đồng nghĩa với chủ nghĩa Mác-Lênin. Lênin
viết: “Hệ tư tưởng của giai cấp vô sản - học thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa
học, tức là chủ nghĩa Mác” [32, tr. 336]. Đó là khoa học nghiên cứu tổng hợp
vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nội dung sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân ở các giai đoạn lịch sử, ở các quốc gia, những điều kiện
khách quan và tiền đề chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình...
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội với tính cách là một phong trào thực tiễn, phong
trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại các giai cấp thống trị, chống chế độ
tư hữu, áp bức, bóc lột, giành dân chủ; trong đó phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế là phong trào mang tính chất xã hội chủ nghĩa đầy đủ nhất, sâu sắc nhất.
Thứ tư, chủ nghĩa xã hội với tính cách là một chế độ xã hội hiện thực với
những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá... đảm bảo cuộc sống ngày
càng cao cho mọi thành viên của xã hội [70, tr. 185]. Đó là giai đoạn đầu (giai
đoạn thấp) trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Từ các phương diện tiếp cận trên và từ nội dung nghiên cứu của luận văn,
tác giả luận văn quan niệm một cách khái quát: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ
xã hội do nhân dân xây dựng về mọi mặt, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân thông qua đảng của nó, nhằm xoá bỏ chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất
công, nghèo nàn; mang lại dân chủ, hoà bình, ấm no, tự do, hạnh phúc và tạo

điều kiện phát triển toàn diện cho tất cả mọi người.
1.1.1.2. Khái niệm mục tiêu và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì mục tiêu là trạng thái kinh tế hay
xã hội mà con người nhằm đạt tới về một hoạt động nào đó (chính trị, xã hội,
kinh tế...) [30, tr. 965].

11


Có thể hiểu rằng, mục tiêu là những tiêu chí mà con người hướng tới và
phấn đấu đạt được trong thực tế. Do đó, mục tiêu ở đây là mục tiêu hiện thực của
con người, đặt trên cơ sở nắm bắt được các quy luật tất yếu khách quan (cơ sở
vật chất) của sự vận động và phát triển, có điều kiện để hiện thực hoá thành công
trên thực tế; là kết quả của quá trình nhận thức. Nó khác hẳn với những mục tiêu
phi thực tế, mang tính ảo tưởng.
Trên tinh thần đó, tác giả quan niệm: Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
những tiêu chí mà Đảng Cộng sản đề ra cho nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa phải đạt tới trong quá trình xây dựng chế độ của mình, căn cứ vào các
điều kiện thực tế khả thi; thể hiện trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội... nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, và xây dựng thành công chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa văn minh,
tiến bộ.
1.1.2. C.Mác và Ph.Ăngghen bàn về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác tập trung phân tích hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính sự giải phẫu của C.Mác đối với xã
hội tư bản và quy luật vận động của nó đã cho phép ông dự báo một cách khoa
học về xã hội tương lai. Tất nhiên, khi C.Mác đặt vấn đề về sự ra đời và phát
triển của chủ nghĩa cộng sản tương lai, “người ta không thấy mảy may một ý
định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự đoán vu vơ về
những điều mà người ta không thể nào biết được. Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng

sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hoá của một
giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng
của những biến đổi của nó” [33, tr. 104].
Sinh thời, C.Mác và Ph.Ăngghen coi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một cơ thể xã hội vận động và biến đổi không ngừng. Các ông kiên
quyết đấu tranh chống những biểu hiện lãng mạn và duy tâm trong việc mô tả xã

12


hội tương lai. Vì thời C.Mác, cách mạng xã hội chủ nghĩa - C.Mác thường gọi là
cách mạng vô sản - chưa giành được thắng lợi, tức là chưa có thực tiễn xã hội
chủ nghĩa, cho nên khi dự báo về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, C.Mác
và Ph.Ăngghen không xác định trước những hình thức cụ thể của nó, không
muốn vẽ bức tranh tỉ mỉ với những chi tiết về những quan hệ của nó mà chỉ đề ra
những luận điểm có tính chất phác hoạ về tính tất yếu ra đời của hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa, về những phương hướng phát triển chủ yếu và
những đặc trưng tiêu biểu của xã hội đó. Hai ông đã nhìn thấy trước rằng xã hội
mới phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ trên con đường tiến lên chủ
nghĩa cộng sản. Và với tính cách là một chế độ xã hội, nó không thể trực tiếp
sinh thành trong lòng chế độ tư bản.
1.1.2.1. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động ở tất cả các dân tộc và giải phóng xã hội về phương diện
chính trị
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen
chỉ ra mục tiêu và con đường thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội phải trải qua
hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp vô sản phải tiến hành cách
mạng để “tự xây dựng thành giai cấp thống trị”, là giai đoạn có mục tiêu “giành
lấy dân chủ”. Giai đoạn thứ hai tiếp ngay sau đó là giai đoạn “giai cấp vô sản sẽ
dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản

trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay
Nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống
trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất” [45, tr. 626].
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, ở nước nào mà giai cấp công nhân đã chiếm
đa số trong dân cư thì cần làm cách mạng vô sản, thiết lập sự thống trị trực tiếp
của mình để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Còn đối với những nước
mà giai cấp công nhân chỉ chiếm số ít trong dân cư thì trước hết họ phải cùng

13


giai cấp tư sản làm cuộc cách mạng dân chủ tư sản triệt để, rồi ngay sau đó tiến
hành cách mạng vô sản, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Tóm lại, cách
mạng cần được thực hiện cho đến khi giai cấp vô sản ở tất cả các nước đều giành
được chính quyền và xoá bỏ chế độ tư hữu, thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Theo các ông, quyền lực chính trị của giai cấp công nhân là bộ phận quan
trọng nhất của vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cũng là mục tiêu
chính trị cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản. Bởi lẽ, không thiết lập được chính
quyền của mình, giai cấp công nhân không thể bảo đảm được việc chuyển từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản nhằm đạt mục tiêu giải phóng triệt để con
người. Điều đó giải thích vì sao ngay từ năm 1846, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân muốn biến lợi ích của
mình - xoá bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hoá con người nói
chung do chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với các tư liệu sản xuất
chủ yếu sinh ra - thì trước hết phải “chiếm lấy chính quyền”. Tiếp tục tư tưởng
đó, C.Mác lý giải rằng, giai cấp tư sản luôn sử dụng quyền lực nhà nước như
công cụ chủ yếu để bảo vệ những quan hệ sở hữu tư sản. Do vậy, để xoá bỏ tư
hữu, những người vô sản phải lật đổ Nhà nước đó, tự họ phải trở thành những
người nắm chính quyền, phải thiết lập “chính quyền cách mạng”. Đó cũng là lý
do để năm 1848, trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và

Ph.Ăngghen xem giai đoạn thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là “giai
cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị”, là giai đoạn “giành lấy dân
chủ”.
Sau khi đã giành được chính quyền về tay giai cấp mình, thiết lập Nhà
nước chuyên chính vô sản, giai cấp công nhân phải tiến hành xây dựng Nhà nước
chuyên chính vô sản thành công cụ để thực hiện cải biến cách mạng toàn diện.
Nhà nước ấy sẽ từng bước xoá bỏ toàn bộ những tàn tích của xã hội tư bản, đồng
thời tổ chức, xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa,

14


mang lại tự do, dân chủ thực sự và nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân,
trong đó có giai cấp công nhân.
1.1.2.2. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động ở tất cả các dân tộc và giải phóng xã hội về phương diện kinh
tế, xoá bỏ bóc lột
Một trong những giá trị nổi bật của lý luận mácxít, là việc C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phác hoạ ra mô hình xã hội mà ở đó mục tiêu cao nhất là con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có điều kiện phát triển toàn diện.
Xét về phương diện kinh tế, mô hình đó dựa trên nguyên tắc: Sau khi
giành được chính quyền, với bộ máy nhà nước trong tay, giai cấp công nhân sẽ
từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu - nguồn gốc của mọi áp bức, bất công. C.Mác và
Ph.Ăngghen quan niệm rằng, mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ xã
hội cũ và thiết lập chế độ xã hội mới bao giờ cũng phải “đưa vấn đề chế độ sở
hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó có thể
phát triển đến trình độ nào” [45, tr. 646]. Vì vậy, theo các ông, thủ tiêu chế độ tư
hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ
xã hội. Xuất phát từ quan niệm như vậy, các ông đã đi đến kết luận rằng, những
người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu

cầu chủ yếu của mình, rằng: “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu” [45, tr. 616]
hay “cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan
hệ sở hữu kế thừa của quá khứ” [45, tr. 626].
Tuy vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản
không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, chủ nghĩa cộng sản không tước
bỏ quyền chiếm hữu sản phẩm xã hội của những người lao động mà chỉ tước bỏ
quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác. Xoá bỏ chế độ
tư hữu ở đây là xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư sản về tư liệu sản xuất. Đó là cơ sở

15


để dẫn tới việc lao động sống của người công nhân chỉ là “một phương thức để
tăng thêm lao động tích luỹ” - tăng thêm tư bản, là nguồn gốc đẻ ra nạn người
bóc lột người. Mục tiêu của việc xoá bỏ chế độ chiếm hữu đó cũng chính là để
giải phóng lực lượng sản xuất, để “tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản
xuất” [45, tr. 626]. Chỉ khi lực lượng sản xuất được giải phóng thì mới có năng
suất cao, sản phẩm xã hội dồi dào. Đó là con đường tất yếu để xây dựng xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.3. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xoá bỏ tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, lịch sử phát triển của nhân loại thực chất là
lịch sử con người không ngừng vươn lên hoàn thiện bản thân mình; là lịch sử
vươn tới làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình; con người trở
thành tự do. Muốn vậy, trước hết con người phải nắm trong tay vận mệnh chính
trị của mình, tức là nắm trong tay chính quyền nhà nước và làm chủ chính quyền
ấy, chế độ xã hội ấy. Đa số nhân dân lao động đã không thể đạt được điều đó
dưới chủ nghĩa tư bản và các xã hội tiền tư bản. Chỉ đến khi giai cấp công nhân
thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản, lãnh đạo nhân dân lao động

làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, xoá
bỏ ách áp bức, nô dịch và bóc lột tư sản, thiết lập chính quyền cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, con người mới có điều kiện vươn tới
những khát vọng của tự do, ấm no, hạnh phúc. Theo tư tưởng của C.Mác, để
thực hiện được mục tiêu trên, chủ nghĩa xã hội phải tiến hành cách mạng triệt để,
trước hết là cách mạng về kinh tế. Phải thực hiện việc phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, thay đổi vị trí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong quan
hệ sản xuất - từ thân phận của những người nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột và
nô dịch, trở thành người làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu, làm chủ nền sản
xuất xã hội; đồng thời tiến hành cải tạo triệt để các quan hệ xã hội, văn hoá, tinh

16


thần. Trên nền tảng ấy, tình trạng nghèo nàn, lạc hậu sẽ từng bước được xoá bỏ,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao; con
người sẽ có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
1.1.2.4. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội công bằng,
bình đẳng
Chủ nghĩa xã hội là xã hội vì con người, coi sự giải phóng con người, giải
phóng nhân loại là mục tiêu cao nhất của nó. Sự nghiệp “giải phóng giai cấp bị
áp bức”, giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một quá trình lâu dài,
gian khổ, đầy phức tạp song nhất định đi đến thắng lợi cuối cùng. Quá trình đó
đòi hỏi phải được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã hội, bằng việc lật
đổ trật tự xã hội cũ nhằm thiết lập chế độ xã hội mới. Đó là một liên hợp trong
đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người.
C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy, niềm hi vọng mà quần chúng nhân dân
lao động đặt vào tự do, bình đẳng, bác ái do cuộc cách mạng tư sản đem lại đã
không được thực hiện mà bị thay thế bằng một hệ thống bóc lột mới - tư bản chủ

nghĩa. Bởi thế, khi đưa ra quan niệm của mình về một xã hội đem lại cho quần
chúng nhân dân lao động những giá trị vĩnh hằng đó, trong tác phẩm “Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844”, C.Mác đã coi việc tạo ra sự công bằng, bình đẳng
giữa người với người là nền tảng của chế độ xã hội mới. Tư tưởng đó tiếp tục
được C.Mác và Ph.Ăngghen nhắc lại trong “Hệ tư tưởng Đức” (1846) khi các
ông coi đó là “một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của chủ nghĩa cộng sản”;
rằng trong xã hội đó “sự khác nhau trong hoạt động, trong lao động không gây ra
một sự bất bình đẳng nào cả, không gây ra một đặc quyền nào cả về phương diện
chiếm hữu và tiêu dùng” [44, tr. 789-790].
Bình đẳng dưới chủ nghĩa xã hội luôn luôn là bình đẳng xã hội, bình đẳng
địa vị xã hội chứ không phải là bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân. Đó là

17


một nguyên tắc thực tế, đồng thời cũng là một mục tiêu cốt lõi của chủ nghĩa xã
hội. Mặc dù, như C.Mác đã từng phân tích rất rõ trong “Phê phán Cương lĩnh
Gôta”, trong chủ nghĩa xã hội chưa thể có sự bình đẳng xã hội hoàn toàn. Theo
ông, chủ nghĩa xã hội mới chỉ có thể đạt đến công bằng xã hội - một mức độ cụ
thể của bình đẳng xã hội - và sự công bằng xã hội đó được thể hiện ở chỗ “cống
hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau”, tức là ở trong nguyên tắc
phân phối theo lao động. Tuy nhiên, C.Mác cũng đã chỉ rõ, việc thực hiện nguyên
tắc phân phối công bằng ấy chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm
chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành
viên trong xã hội, vì “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham
dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh
nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia, v.v.” [46, tr. 35]. Đó vừa
là ưu việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót,
theo C.Mác, là không thể tránh khỏi trong chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội sẽ từng bước

khắc phục và xoá bỏ dần những bất bình đẳng trong xã hội, tiến tới xây dựng một
chế độ xã hội công bằng và bình đẳng thật sự cho tất cả mọi người.
1.1.3. Quan điểm của V.I.Lênin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
1.1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi V.I.Lênin
phát triển chủ nghĩa Mác
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển dần sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, thực hiện sự phát triển mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều
sâu. Bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, nền kinh tế ở các nước tư bản có
những hiện tượng mới: Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tư bản đã thật sự
đạt tới “quy mô khổng lồ”, đưa đến sự hình thành các liên hiệp tư bản độc quyền
quy mô lớn. Sự dung hợp giữa tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp tạo ra
một loại tư bản mới, đó là tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính khống chế nền

18


kinh tế và do đó, trở thành những thế lực thống trị tại các nước tư bản; quyết
định toàn bộ chính sách đối nội cũng như đối ngoại của từng nước; đẩy mạnh
tranh giành thị trường trong nước và tạo các liên minh quốc tế ồ ạt xâm chiếm
thuộc địa. Đến đầu thế kỷ XX, việc phân chia thế giới về mặt lãnh thổ đã hoàn
thành; hệ thống thuộc địa của các nước tư bản chiếm gần 55% diện tích đất đai
và 35% dân số thế giới.
Sự xác lập chủ nghĩa đế quốc làm cho tất cả các mâu thuẫn vốn có của chủ
nghĩa tư bản càng trở nên cực kỳ gay gắt. Mâu thuẫn trên phương diện kinh tế
giữa lực lượng sản xuất xã hội hoá ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất biểu hiện thành
mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Về chính trị, giai cấp tư
sản lúc này đã phản động trên tất cả các mặt và tăng cường các thủ đoạn chia rẽ
giai cấp công nhân để phá hoại phong trào của họ. Bên cạnh đó, ở khắp nơi, giai
cấp tư sản tìm cách câu kết với giai cấp địa chủ làm cho ách áp bức đối với quần

chúng lao động càng nặng nề hơn. Trong khi đó, giai cấp vô sản với sự gia tăng
đông đảo về số lượng, trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng đã ngày càng trưởng
thành về ý thức giác ngộ giai cấp, từng bước được tiếp thu chủ nghĩa Mác, dẫn
đến sự hình thành chính đảng ở nhiều nơi. Giai cấp vô sản đang thực sự trở thành
giai cấp cách mạng nhất có khả năng lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng.
Trong bối cảnh đó, phong trào công nhân Nga cũng có những bước phát
triển mạnh mẽ; nước Nga dần trở thành trung tâm cách mạng của thế giới. Đây là
điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào trong phong trào công
nhân Nga. Bên cạnh đó, nước Nga còn là nơi tập trung các mâu thuẫn cơ bản của
thế giới: Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản; giữa thuộc địa với đế quốc; giữa đế
quốc với đế quốc và giữa nông dân với địa chủ. Chủ nghĩa tư bản ở Nga đã kết
hợp với mọi tàn tích của chế độ nông nô thực hiện sự bóc lột tàn nhẫn những
người lao động; xâm nhập vào nông thôn thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển

19


nhưng làm cho giai cấp nông dân bị phân hóa sâu sắc. Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở Nga đã gây nên những thay đổi căn bản về thành phần giai cấp xã hội. Trước kia, dưới chế độ nông nô vốn có hai giai cấp cơ bản là địa chủ và
nông nô thì nay xuất hiện thêm hai giai cấp mới là giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản. Giai cấp vô sản công nghiệp tuy mới ra đời nhưng đã tăng nhanh về mặt số
lượng. Từ năm 1865 đến năm 1890, số công nhân ở Nga đã tăng từ 706.000
người lên đến 1.433.000 người. Đó là giai cấp vô sản công nghiệp hiện đại, khác
hẳn công nhân trong các ngành tiểu thủ công nghiệp trước đó. Từ những năm 70
và nhất là từ những năm 80 của thế kỷ XIX, giai cấp công nhân Nga bắt đầu thức
tỉnh, đấu tranh chống bọn tư bản.
Giai cấp vô sản Nga phát triển và giác ngộ sớm, sống rất tập trung, lại ra
đời khi chủ nghĩa Mác đã chiến thắng các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác nên
mặc dù ít nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa dân túy, nhưng giai cấp vô sản
Nga vẫn sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Cho nên, ngay từ năm

1902, V.I.Lênin đã tin một cách chắc chắn rằng giai cấp vô sản Nga sẽ làm tròn
được nhiệm vụ phá hủy dinh lũy mạnh mẽ nhất của thế lực phản động châu Âu,
châu Á và sẽ trở thành “đội tiên phong của giai cấp vô sản cách mạng quốc tế”.
Với một niềm tin như vậy, V.I.Lênin bước lên vũ đài chính trị với tư cách là
người bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống mọi trào lưu cơ hội chủ nghĩa và truyền bá
chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga, đồng thời phát triển chủ nghĩa
Mác trong những điều kiện lịch sử mới.
Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế
giới ghi nhận những cống hiến to lớn của V.I.Lênin đối với phong trào cách
mạng trên thế giới không chỉ ở việc V.I.Lênin đã tiếp tục giương cao ngọn cờ
cách mạng không ngừng do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng, mà còn ở chỗ
Người đã kết hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, từ thực tiễn mà phát triển lý luận
để hiện thực hoá sinh động những quan điểm lý luận khoa học và cách mạng

20


trong di sản đồ sộ mà C.Mác và Ph.Ăngghen để lại. Những luận điểm của
V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội là mẫu mực về bổ sung, phát triển, vận dụng sáng
tạo quan điểm mácxít về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước
Nga Xôviết.
1.1.3.2. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
* Mục tiêu chính trị:
Xuất phát từ tình hình thế giới và thực trạng nước Nga sau khi đã giành
được chính quyền về tay nhân dân; đặc biệt là yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng như tính tất yếu khách quan phải xây
dựng, củng cố bộ máy nhà nước Nga thật sự trong sạch, vững mạnh, đòi hỏi
Đảng và Nhà nước Nga phải có sự cải tiến, đổi mới công tác tổ chức bộ máy
chính quyền nhà nước các cấp sao cho thật hợp lý, gọn nhẹ, hiệu quả. Đây là yêu
cầu có tính chất bức thiết, đồng thời cũng là thể hiện tập trung nhất mục tiêu

chính trị của chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin hiểu sâu sắc điều này. Ông cho rằng, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa thật sự trong sạch,
vững mạnh. Nhà nước chuyên chính vô sản phải là Nhà nước dân chủ nhất, tốt
đẹp nhất, đại diện chân chính cho lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân.
Theo V.I.Lênin, có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để xây dựng một Nhà
nước thật sự của đa số nhân dân lao động. Song, dù sử dụng biện pháp nào thì
kết quả xây dựng Nhà nước ấy phải đủ sức quản lý đất nước Nga vĩ đại, làm cho
nước Nga trở thành một nước văn minh, hiện đại; khối liên minh công nông ngày
càng được tăng cường; bộ máy công chức nhà nước thực sự trong sạch, hiệu lực
quản lý nhà nước tốt, đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ theo phương châm “thà ít mà tốt”. Có như vậy, Nhà nước Xôviết mới tạo ra
một xã hội mới, một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên xoá bỏ nạn người áp bức nô
dịch người, đưa người dân lao động lên làm chủ xã hội.

21


×