Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

TỪ NGỮ địa PHƯƠNG TRONG tác PHẨM của BÌNH NGUYÊN lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.59 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thúy Hằng

TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM
CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thúy Hằng

TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC PHẨM
CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH CÔNG TÍN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng Sau đại học, quý thầy cô giảng viên khoa Ngữ Văn
đã tận tình giảng dạy, và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi được học tập, nghiên cứu
và hoàn thành khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Huỳnh Công Tín đã dành nhiều thời
gian hướng dẫn, động viên và khuyến khích tôi vượt qua những khó khăn trong quá
trình làm luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc
nhất cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2012
Tác giả
Trần Thị Thúy Hằng


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Các từ ngữ chỉ phương tiện đi lại trên sông, rạch ................................. 32

Bảng 2.2.

Các từ ngữ chỉ tên gọi các loại địa hình của vùng đồng bằng sông nước.... 33

Bảng 2.3.

Các từ, ngữ chỉ trạng thái, tính chất, đặc điểm của con người và sự vật,
hiện tượng mang đậm sắc thái Nam Bộ: ............................................... 34

Bảng 2.4.


Các từ, ngữ chỉ động, thực vật miền Nam ............................................. 38

Bảng 2.5.

Lớp từ vay mượn từ tiếng Khmer .......................................................... 41

Bảng 2.6.

Lớp từ vay mượn từ tiếng Hán .............................................................. 43

Bảng 2.7.

Lớp từ vay mượn từ tiếng Pháp ............................................................. 45

Bảng 2.8.

Quán ngữ ............................................................................................... 47

Bảng 2.9.

Lớp từ có nguồn gốc từ Trung Bộ ......................................................... 50

Bảng 2.10. Lớp từ biến nghĩa................................................................................... 55


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục

Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO VIỆC NGHIÊN CỨU .7
1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ ........................................................7
1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học .................................................................7
1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học ..............................7
1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ .........................................................8
1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ ...............................................................................10
1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc ..............................................................15
1.2.1. Tiểu sử .....................................................................................................15
1.2.2. Các sáng tác chính ...................................................................................17
1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc ..............................................18
1.2.4. Nét đặc sắc về nghệ thuật ........................................................................22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .........................................................................................24
Chương 2. KHẢO SÁT CÁC LỚP TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TÁC
PHẨM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC......................................................................25
2.1. Cơ sở phân chia .............................................................................................25
2.2. Các lớp từ cụ thể .............................................................................................25
2.2.1. Lớp từ ngữ Nam Bộ chính gốc ................................................................25
2.2.2. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung Bộ ...........44
2.2.3. Lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân ............................46
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .........................................................................................51
Chương 3 : ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC TRONG
MỐI TƯƠNG QUAN VỚI NGÔN NGỮ CỦA CÁC TÁC GIẢ KHÁC ...........53
3.1. So với tác giả trước Bình Nguyên Lộc ...........................................................53


3.2. So với tác giả cùng thời với Bình Nguyên Lộc ..............................................63
3.3. Nhận định chung về đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc ....................79
3.3.1. Ngôn ngữ kể chuyện mang màu sắc địa phương Nam Bộ sinh động, giàu

âm thanh, hình ảnh .............................................................................................80
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật đa dạng về tính cách, đậm phong cách Nam Bộ ......82
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .........................................................................................85
KẾT LUẬN ..............................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................87


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu tiếng Việt, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở mặt thống nhất của
ngôn ngữ, mà cần thấy được tính đa dạng của nó. Một trong những biểu hiện rõ rệt
nhất của nó là màu sắc địa phương vùng, miền.
Ý thức được vấn đề lí luận này, thời gian gần đây, các nhà Việt ngữ học đã
chú ý nhiều tới bình diện khác biệt địa phương này của tiếng Việt.
Trong các công trình mang tính lí luận chung về phương ngữ, các nhà nghiên
cứu thường quan tâm nhiều đến vấn đề phân chia tiếng Việt thành những vùng
phương ngữ là: có 3 phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ), 4
phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ), hay 5
phương ngữ (phương ngữ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ,
Nam Bộ). Điều này phụ thuộc vào việc xem xét sự khác biệt từ một bình diện hay
nhiều bình diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách diễn đạt…) của các
phương ngữ.
Ở nội bộ từng phương ngữ, lại có những công trình đi sâu tìm hiểu, khai thác
những vấn đề của phương ngữ ấy trên các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp… dựa
vào những thực tiễn khảo sát từ người địa phương hoặc thông qua việc khảo sát các
sáng tác của những nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu có tên tuổi nhất định trong
dòng văn học sử của địa phương ấy.
Nói riêng về phương ngữ Nam Bộ, số lượng công trình nghiên cứu phương

ngữ này trong những năm gần đây ngày một dày thêm. Lí do là nếu xem xét vấn đề
phương ngữ trong sự đối lập với ngôn ngữ chuẩn toàn dân, thì bản thân phương
ngữ Nam Bộ có những giá trị rất đặc thù giúp làm sáng tỏ vấn đề này, hơn là những
vùng phương ngữ khác như Bắc Bộ hay Trung Bộ. Trong chừng mực nào đó,
phương ngữ Nam Bộ có tính hệ thống “theo kiểu” Nam Bộ khá rõ ở các bình diện:
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, làm rõ sự đối lập toàn dân/ địa phương hơn các phương
ngữ khác.


2

Mặt khác, nếu hiểu là nguồn “sinh lực” bổ sung những yếu tố địa phương làm
phong phú thêm cho tiếng Việt chuẩn toàn dân, thì tiếng địa phương Nam Bộ cũng
đáp ứng tốt yêu cầu này. Bởi vì đây là tiếng nói của một bộ phận người Việt tham
gia vào quá trình lịch sử Nam tiến, tiếp nối và phát huy mạnh mẽ tiếng Việt trên
vùng đất mới - vốn được nhìn nhận là vùng kinh tế năng động và là một trong
những vùng trọng điểm của cả nước. Điều này (nhất là từ sau 1975 trở lại đây) đã
đóng một vai trò không thể phủ nhận trong đời sống ngôn ngữ cũng như đời sống
văn hóa- xã hội…không chỉ nội tại trong vùng Nam Bộ, mà còn được nhìn nhận
như những giá trị chung của tiếng Việt toàn dân.
Hơn nữa, trên 300 năm phát triển, từ tiếng nói người bình dân, phương Nam
đã định hình nên một phong cách ngôn ngữ gọt giũa qua những sáng tác văn
chương, những công trình khoa học có giá trị, với những tên tuổi lớn đã được khẳng
định, như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh,
Phi Vân, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… và được tiếp nối bởi
những tác giả đương thời như: Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư…
Vì vậy, việc nghiên cứu tập trung vào địa hạt này cũng nhằm giúp làm sáng tỏ
những đóng góp và hạn chế của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình lịch sử tiếng
Việt và trong quá trình thống nhất trong sự đa dạng hiện nay của tiếng Việt.
Nghiên cứu phương ngữ Nam Bộ không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc về

phương ngữ này mà còn giúp giải quyết nhiều vấn đề trong việc tiếp nhận những
sáng tác văn chương, xác định đúng đắn vai trò của phương ngữ trong tiến trình
tiếng Việt toàn dân và những vấn đề xã hội của phương ngữ trong phạm vi nhà
trường và trên sách báo cũng như trong thực tiễn đời sống giao tiếp của người Việt.
Xuất phát từ những lý do trên, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, với
đề tài “ Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi sẽ đi
sâu vào bình diện từ vựng của phương ngữ Nam Bộ trên tư liệu ngôn từ của một tác
giả là Bình Nguyên Lộc, qua những sáng tác văn chương để tìm hiểu sự đóng góp
về ngôn ngữ, đồng thời để tìm ra những đặc sắc trong cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ
của ông, trong sự so sánh với một số nhà văn trước và cùng thời với ông.


3

2. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
Như vừa trình bày ở trên, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là phương
ngữ Nam Bộ và giới hạn phạm vi nghiên cứu trong luận văn này chỉ dừng lại ở địa
hạt từ ngữ Nam Bộ và trên những sáng tác của Bình Nguyên Lộc, với mục đích
nghiên cứu là qua cách sử dụng từ ngữ Nam Bộ trong tác phẩm của Bình Nguyên
Lộc, nêu bật được vai trò của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và
hành chức của tiếng Việt; đồng thời, thấy được sự đóng góp ngôn từ của ông so với
những người đi trước và cùng thời với ông.
Công việc so sánh đối chiếu với các tác giả trước hoặc cùng thời với ông,
chúng tôi sẽ chủ yếu là tiếp thu kết quả nghiên cứu của những công trình khảo sát
phương ngữ của các tác giả đi trước, với mục đích là thông qua những sự so sánh,
đối chiếu đó, chúng tôi làm sáng tỏ những đóng góp riêng của Bình Nguyên Lộc và
thấy được sự phát triển phương ngữ Nam Bộ đã để lại những dấu ấn nhất định trong
dòng văn học viết của riêng Nam Bộ và của Việt Nam nói chung.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát toàn bộ tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, chúng tôi sẽ có được số

lượng từ ngữ đủ để làm cơ sở cho những nhận định, đánh giá. Thế nhưng, để đưa ra
được những gì thuộc về ý kiếng riêng của mình, chúng tôi phải dựa trên các phương
pháp, thủ pháp thống kê, phân loại những kết quả đạt được trong khảo sát. Đồng
thời so sánh, đối chiếu với những kết quả khảo sát khác, có thể là của các tác giả
khác, để thấy được một mặt, tiến trình từ ngữ địa phương Nam Bộ tham gia vào
hoạt động sáng tác văn chương để lại được ý nghĩa tích cực và cả những mặt hạn
chế của nó ra sao; mặt khác, thấy được sự đóng góp của tác giả so với lớp nhà văn
đi trước và cùng thời với ông, từ đó có được những đánh giá xác đáng về vị trí, vai
trò, đóng góp của Bình Nguyễn Lộc trong dòng văn chương Nam Bộ nói riêng và
trong văn chương của cả nước nói chung.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như đã đề cập ở trên, vấn đề về phương ngữ Nam Bộ đã và đang được khá
nhiều nhà phương ngữ học quan tâm. Có thể kể đến các công trình sau: “Từ điển


4

phương ngữ Nam Bộ” của tập thể tác giả do Nguyễn Văn Ái chủ biên (1994),
“Những từ ngữ gốc Khơme trong phương ngôn Nam Bộ” của Thái Văn Chải (1986),
“Hai vấn đề âm vị học trong phương ngữ Nam Bộ” của Cao Xuân Hạo (1998), “Sự
tiếp xúc giữa các phương ngữ ở thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Thị Ngọc Lang
(1986), “Phương ngữ Nam Bộ” của Trần Thị Ngọc Lang (1995), “Tiếng địa
phương” của Bình Nguyên Lộc và Nguiễn Ngu Í (1958), “Về một hiện tượng láy
trong phương ngữ miền Nam” của Trịnh Sâm (1986), “Tự vị tiếng Việt miền Nam”
của Vương Hồng Sển (1993), “Sơ lược hệ thống ngữ âm phương ngữ Sài Gòn” của
Huỳnh Công Tín (2007),... Công trình của Vương Hồng Sển (1993) và của Nguyễn
Văn Ái chủ biên (1994) đã tập hợp được số lượng tương đối đầy đủ lớp từ vựng của
phương ngữ Nam Bộ. Gần đây, công trình “Từ điển Từ ngữ Nam Bộ”, in lần 1
NXB. KHXH (2007), lần 2 (bổ sung) NXB. CTQG (2009) của Huỳnh Công Tín đã
tập hợp được một lượng từ ngữ hết sức phong phú. Đồng thời, tác giả nêu được

những dẫn liệu trích từ nhiều nguồn sáng tác của các nhà văn Nam Bộ khiến chúng
ta có được hình dung nhất định về vốn từ của phương ngữ Nam Bộ cả xưa và nay.
Bài của Cao Xuân Hạo tuy chưa đề cập hết những đặc điểm ngữ âm của phương
ngữ Nam Bộ, nhưng tác giả cũng đã trình bày khái quát hai trong số những đặc
điểm lớn thuộc vấn đề ngữ âm của phương ngữ Nam bộ: phụ âm cuối và các
nguyên âm đôi. Công trình của Trần Thị Ngọc Lang đã nêu ra được sự khác biệt
trong các kiểu cấu tạo giữa hai phương ngữ và xác định được đặc điểm riêng của
phương ngữ Nam Bộ trong một số nhóm từ cụ thể như từ xưng hô, tính từ chỉ mức
độ, từ láy, từ hư... Luận án tiến sĩ “Đặc điểm ngữ âm của tiếng Sài Gòn so với
phương ngữ Hà Nội và các phương ngữ khác ở Việt Nam” của Huỳnh Công Tín
(1999) cung cấp cho ta một bức tranh khá rõ về những biểu hiện ngữ âm được ghi
nhận từ tiếng Sài Gòn và những tương đồng, khác biệt có liên quan tới đặc điểm
ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ với các phương ngữ khác trong tiếng Việt.
Gần đây có nhiều luận văn thạc sĩ chú ý đi sâu vào nghiên cứu những đặc
trưng của phương ngữ Nam Bộ trên cơ sở khảo sát các tác phẩm văn học dân gian
và của các nhà văn cụ thể, như các công trình nghiên cứu sau: “Văn phong Nam Bộ


5

qua tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Biểu Chánh” của Đinh Thị Thanh Thủy,
2005; “Màu sắc Nam Bộ trong truyện kí Sơn Nam” của Nguyễn Nghiêm Phương,
2009; “Phương ngữ Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư” của Nguyễn
Bình Khang, 2009; “ Phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian” của Đỗ Thị
Kiều Oanh, 2012,…
Riêng về việc nghiên cứu các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, đã có các công
trình sau: “ Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc” của Nguyễn Lương
Hải Khôi, 2004; “Văn hóa và con người Nam Bộ trong tác phẩm Bình Nguyên Lộc”
của Nguyễn Văn Đông, 2005; “Phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc” của
Dương Thị Thanh, 2011. Các công trình nghiên cứu trên tuy có đề cập đến cách sử

dụng từ ngữ của Bình Nguyên Lộc nhưng chỉ với tư cách như một minh chứng để
làm rõ phong cách truyện ngắn của ông, chứ không đi sâu nghiên cứu như một
chuyên đề riêng biệt về từ ngữ địa phương Nam Bộ trong tác phẩm của Bình
Nguyên Lộc .
Điểm qua tình hình nghiên cứu, với luận văn “Từ ngữ địa phương trong tác
phẩm của Bình Nguyên Lộc”, chúng tôi hy vọng có thể đóng góp thêm, dù nhỏ bé,
trong việc khảo sát các tác phẩm của một nhà văn Nam Bộ cụ thể có quá trình sinh
trưởng và sáng tác ở miền Đông Nam Bộ là Bình Nguyên Lộc, để từ đó nêu bật
được vai trò góp phần của phương ngữ Nam Bộ trong tiến trình phát triển và hành
chức của tiếng Việt; cũng như là làm rõ thêm sự đóng góp của ông so với những
người đi trước và cùng thời với ông (như mục đích nghiên cứu mà chúng tôi đã nêu
ở trên).
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận.
1. Phần mở đầu gồm có các tiểu mục như: lí do chọn đề tài, phạm vi, đối
tượng và mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu vấn đề
và cấu trúc luận án.
2. Phần nội dung gồm ba chương: chương một trình bày những vấn đề chung
làm cơ sở cho việc nghiên cứu; chương hai tiến hành khảo sát, phân loại, thống kê,


6

so sánh, đối chiếu các kết quả nghiên cứu để rút ra những miêu tả, nhận định cần
thiết; chương ba nhận xét, đánh giá đặc điểm ngôn ngữ của Bình Nguyên Lộc trong
sự đối chiếu với các tác giả khác.
3. Phần kết luận


7


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LÀM CƠ SỞ CHO
VIỆC NGHIÊN CỨU
1.1. Phương ngữ học và phương ngữ Nam Bộ
1.1.1. Những vấn đề phương ngữ học
1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan tới phương ngữ học
A. Phương ngữ
Có nhiều định nghĩa về phương ngữ.
Nhóm tác giả Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn
quan niệm: “ Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và
ngữ âm riêng biệt được sử dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp hơn là ngôn
ngữ; là hệ thống kí hiệu và quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ thống khác
được coi là ngôn ngữ ( cho toàn dân tộc ), các phương ngữ ( có người gọi là tiếng
địa phương, phương ngôn ) khác nhau trước hết ở cách phát âm, sau đó là vốn từ
vựng”[ 46; 223].
Hoàng Thị Châu định nghĩa ngắn gọn hơn: “ Phương ngữ là một thuật ngữ
ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể
với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ
khác”.[5; 29]
B. Từ ngữ địa phương
Theo Nguyễn Thiện Giáp:“ Từ ngữ địa phương là những từ ngữ được dùng
hạn chế ở một hoặc một vài địa phương. Nói chung, từ ngữ địa phương là bộ phận
từ vựng của ngôn ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc chứ không
phải từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi được sử dụng vào sách báo nghệ thuật, các
từ ngữ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa
phương, đặc điểm của nhân vật”.[13; 466]
Từ ngữ địa phương có thể bao gồm những từ ngữ biểu thị những sự vật, hiện
tượng, những hoạt động, cách sống đặc biệt chỉ có ở địa phương nào đó chứ không
phổ biến với toàn dân, do đó không có từ song song trong ngôn ngữ văn học toàn dân.



8

Ví dụ:
Các từ: sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, chao,…là những từ chỉ có ở miền
Nam Việt Nam.
Những từ về ngữ âm giống với các từ tương ứng trong ngôn ngữ văn học toàn
dân, nhưng ý nghĩa thì khác như: nón có nghĩa là cái mũ, chén có nghĩa là cái bát,
dù có nghĩa là cái ô,…
Những từ có sự đối lập về ngữ âm ( hoàn toàn hoặc bộ phận) với từ ngữ tương
ứng trong ngôn ngữ toàn dân như: mô, rào, chộ, ngái,…ở Trung Bộ ( tương ứng với
các từ đâu, sông, thấy, xa,… trong ngôn ngữ toàn dân)
Các từ con gấy, nác, cáo, mự, tru, chúc mào,…ở Nghệ Tĩnh ( tương ứng với
các từ con gái, nước, gạo, mợ, trâu, chào mào,… trong ngôn ngữ toàn dân)
Giữa từ ngữ toàn dân và từ ngữ địa phương có quan hệ qua lại lẫn nhau. Ranh
giới giữa hai lớp từ này sinh động, thay đổi phụ thuộc vào vấn đề sử dụng chúng.
Từ ngữ địa phương là nguồn bổ sung cho ngôn ngữ văn học ngày càng giàu có,
phong phú. Như trên đã nói, từ vựng địa phương chủ yếu là từ vựng khẩu ngữ. Khi
sử dụng từ địa phương vào sách báo nghệ thuật, cần phải hết sức thận trọng và có
mức độ. Nghĩa là chỉ nên sử dụng những từ ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng nào đó
lúc đầu chỉ được biết trong một khu vực, sau đó được phổ biến rộng rãi, có tính chất
toàn dân và những từ ngữ địa phương có sắc thái biểu cảm cao so với các từ đồng
nghĩa tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân. Nếu người viết làm được điều này, từ
ngữ địa phương sẽ phát huy hết tác dụng của chúng trong việc tham gia vào sáng tác
văn chương hay sách báo nghệ thuật.
1.1.1.2. Vấn đề phân vùng phương ngữ
Phân vùng phương ngữ là vấn đề phức tạp. Ở bình diện ngữ âm, cho đến nay
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc phân vùng phương ngữ, nhưng chủ yếu các
tác giả phân chia tiếng Việt ra thành ba, bốn hoặc năm vùng phương ngữ.
- Quan niệm chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ: Có nhiều tác giả

chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ, trong đó tiêu biểu là Hoàng Thị Châu.
Tác giả này cho rằng tiếng Việt có ba phương ngữ gồm: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ


9

và Thanh Hóa ), phương ngữ Trung ( từ Nghệ An đến Đà Nẳng), phương ngữ Nam
( từ Đà Nẵng trở vào )[5;89]
- Quan niệm chia phương tiếng Việt thành bốn vùng phương ngữ: Có các
tác giả sau:
+ Nguyễn Kim Thản chia tiếng Việt thành: phương ngữ Bắc ( Bắc Bộ và một
phần Thanh Hóa), phương ngữ Trung Bắc ( phía Nam Thanh Hóa đến Bình Trị
Thiên ), phương ngữ Trung Nam ( từ Quảng Nam đến Phú Khánh), phương ngữ
Nam ( từ Thuận Hải trở vào )[5;89]
+ Huỳnh Công Tín: phương ngữ Bắc Bộ ( các tỉnh Bắc Bộ và Thanh Hóa),
Phương ngữ Bắc Trung Bộ ( các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên – Huế), phương
ngữ Nam Trung Bộ ( các tỉnh từ Đà Nẳng đến Bình Thuận), phương ngữ Nam Bộ (
gồm ba khu vực là miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ)[44;42]
- Quan niệm chia tiếng Việt thành năm vùng phương ngữ: Đây là quan
niệm của Nguyễn Bạt Tụy (1961). Theo ông, tiếng Việt có thể chia thành: phương
ngữ miền Bắc ( Bắc Bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung Trên (từ Nghệ An đến
Quảng Trị), phương ngữ Trung Giữa (từ Thừa Thiên đến Quảng Ngãi), phương ngữ
Trung Dưới (từ Bình Định đến Bình Tuy) và phương ngữ miền Nam (từ Bình Tuy
trở vào)[5;89]
Xét trên bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, các tác giả cũng chia tiếng Việt ra làm
ba vùng phương ngữ trùng với sự phân chia theo tiêu chí ngữ âm như ở trên chúng
tôi đã trình bày. Chỉ có sự khác nhau về vị trí của các phương ngữ Thanh Hóa mà
thôi. Có tác giả đưa tiếng Thanh Hóa vào nhóm phương ngữ Bắc Bộ (Nguyễn Bạt
Tụy, 1950), nhưng lại có tác giả ghép nó vào nhóm phương ngữ miền Trung (Hoàng
Thị Châu, 1963; Vương Hữu Lễ, 1974)[5;89]

Tác giả Huỳnh Công Tín thì chia tiếng Việt thành hai phương ngữ: Bắc Bộ và
Nam Bộ. Theo tác giả nguyên nhân của tình hình này là “ vốn từ vựng của phương
ngữ Trung Bộ, ngoài một lượng từ riêng ít ỏi, lớp từ vựng còn lại, hoặc là giống với
lớp từ vựng của phương ngữ Bắc Bộ hoặc Nam Bộ” [44; 43]


10

Chúng tôi thống nhất với cách phân chia tiếng Việt thành 4 vùng phương ngữ
của Huỳnh Công Tín. Theo đó, vùng phương ngữ Nam Bộ được xác định bao gồm
ba khu vực: miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn và Tây Nam Bộ, tính từ Bình Phước, Tây
Ninh đến Mũi Cà Mau.
1.1.2. Phương ngữ Nam Bộ
1.1.2.1. Sự hình thành vùng đất và con người Nam Bộ
Vùng Nam Bộ chia thành ba khu vực: Đông Nam Bộ, Sài Gòn (nay được gọi
là thành phố Hồ Chí Minh ) và Tây Nam Bộ. Có thể khái quát một số nét về sự hình
thành các khu vực này như sau:
a. Miền Đông Nam Bộ bao gồm năm tỉnh: Bình Phước, Tây Ninh, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. So với các vùng còn lại của Nam Bộ thì
đây là vùng đất được khai khẩn trước tiên trong quá trình di dân lập ấp của những
lưu dân Bắc Trung Bộ. Đông Nam Bộ có vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển kinh
tế - xã hội, cụ thể là kinh tế công nghiệp và du lịch, mà tiêu biểu là khu vực Biên
Hòa – Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Vì thế, vùng Đông Nam Bộ là một địa bàn
thu hút mạnh lực lượng lao động, sau thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, thành phần
dân cư của vùng này cũng có tính chất đa dạng, đến từ nhiều vùng miền khác nhau
của đất nước.
b. Sài Gòn là trung tâm chính trị, kinh tế, trung tâm giao dịch quốc tế và du
lịch lớn của cả nước. Nó nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đông Nam Á, được ví
như Hòn ngọc viễn đông của vùng. Mặt khác, Sài Gòn là một thành phố lớn, nên sự
giao tiếp của người Việt từ các miền của cả nước diễn ra thường xuyên và liên tục.

Do đó, tính chất phương ngữ Nam Bộ ở Sài Gòn có thể bị biến đổi, bị pha trộn,
không còn giữ những đặc trưng “ban đầu” của một số vùng, một số tỉnh ở Nam Bộ.
c. Tây Nam Bộ ( Đồng bằng sông Cửu Long ) là một vùng đất rộng lớn và phì
nhiêu của miền đồng bằng Nam Bộ, bao gồm mười ba tỉnh, thành: Cần Thơ, Long
An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Kiên
Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. So với các miền trong cả nước, có


11

thể nói, đây là vùng đất mới nhưng nhiều hứa hẹn của lưu dân Việt vùng Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ thế kỷ XVII.
Môi trường mới đã tạo nên một hoàn cảnh mới, từ đó cũng hình thành ở lớp cư
dân người Việt này một tính cách mới, một tư duy khác. Song song đó, những đặc
trưng văn hóa mới cũng được hình thành cùng với những đặc điểm ngôn ngữ mới.
1.1.2.2. Sự hình thành phương ngữ Nam Bộ
Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người dân Nam Bộ. Phương ngữ Nam
Bộ được hiểu là những biến thể địa lý của ngôn ngữ toàn dân.
Có nhiều nguyên nhân hình thành một phương ngữ: điều kiện địa lý, điều kiện
xã hội và điều kiện kinh tế - chính trị,…Những điều kiện này sẽ dần dần dẫn đến sự
khác biệt về cách phát âm, từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp và phong cách diễn đạt
giữa các vùng. Sự khác biệt đó ngày càng lớn và phương ngữ ra đời. Phương ngữ
Nam Bộ cũng được hình thành trên cơ sở ấy.
Sự ngăn cách về địa lý núi, đồi ở một đất nước có chiều dài tương đối lớn như
nước ta đã một thời làm cho sự giao lưu, tiếp xúc của người dân giữa các vùng bị
hạn chế. Tiếng Việt toàn dân bị cô lập giao tiếp trong các vùng, miền nhỏ và đó là
điều kiện khiến tiếng Việt thống nhất phát triển theo những khuynh hướng khác
nhau.
Lịch sử phát triển của vùng đất phương Nam của Tổ quốc cũng đi liền với lịch
sử của nhiều cuộc chiến tranh chia cắt có tính chất dai dẳng, quyết liệt, mà chính

những cuộc chiến tranh này chia cắt hẳn sự tiếp xúc giữa các vùng, miền. Cuộc
chiến tranh giữa hai họ Trịnh – Nguyễn, Đàng Ngoài – Đàng Trong, kéo dài trong
suốt hơn hai thế kỷ chia cắt, chiến tranh, kể từ khi Nguyễn Hoàn được lệnh vào
Nam, mùa đông năm 1558, đến ngày Nguyễn Ánh lấy lại Phú Xuân, thống nhất đất
nước 1802. Rồi những năm tháng trị vì ngắn ngủi của các vua nhà Nguyễn chưa
thống nhất xã hội được thì đất nước lại bị họa ngoại xâm. Thực dân Pháp lại chia
đất nước ta thành ba miền để trị: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Ba miền với những
thể chế hành chính và những luật lệ khác nhau đã góp phần tô đậm thêm cho những
sự chia cắt. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1954, đất


12

nước lại bị chia hai, và chúng ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ cho đến ngày thống nhất đất nước 30.4.1975.
Như vậy, sự phân chia lãnh thổ chính trị - hành chính do lịch sử để lại là nhân
tố chính hình thành nên phương ngữ Nam Bộ. Bên cạnh đó, sự chia cắt tự nhiên về
mặt địa lý, dẫn đến tâm lý vốn có ở những người Việt trước đây như ngại đi lại và
giao tiếp, cũng là nguyên nhân đưa đến sự hình thành phương ngữ Nam Bộ.
1.1.2.3. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ
A. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ âm
- Phương ngữ Nam Bộ có 5 thanh điệu, trong đó hai thanh điệu hỏi và ngã
không được phân biệt rạch ròi
- Khác với phương ngữ Bắc, các cặp phụ âm /r – d /, / s – x /,/ ch- tr/ được
phân biệt tương đối rõ. Tuy nhiên, sự phân biệt này không đồng đều giữa các vùng
ở Nam Bộ. Một số nơi do có sự tiếp xúc với tiếng Hoa (Long An, Kiên Giang, Cà
Mau, Tiền Giang, Bạc Liêu ) phụ âm quặc lưỡi /r/ biến thành phụ âm /g/ hoặc /j/,
/s/ thành /x/, /tr/ thành /ch/. Không có các phụ âm /v/, /gi/,/tr/ mà thay vào đó là các
âm tắc /d/, /ch/
- Người Nam Bộ không có thói quen phát âm đệm nên có hiện tượng rơi rụng

âm đệm trong phát âm ( duyên phát âm thành diêng, luyện phát âm thành liệng )
- Xuất hiện âm /w/ (âm môi, mạc, hữu thanh) từ sự hòa nhập âm đệm vào các
âm đầu /k/, /ng/, /h/ thể hiện trong các trường hợp như: qua – wa, ngoại- wại, hoãnwãng,..
- Số lượng các vần ít hơn phương ngữ Bắc do sự đồng nhất của các vần: ênênh, ết- ếch, iết- iếc, im- iêm, in- inh, ip- iêp, it- ich, iu- iêu, oc- ôc, om- ôm-ơm,
ong-ông, op-ôp-ơp, ưn- ưng, ươi –ưi, ước- ướt, ưu- ươu-u, ứt-ức,…
- Bảo lưu nhiều hình thức ngữ âm đặc thù, thường là hình thức ngữ âm cổ như:
binh (bênh), kiểng (cảnh), nhứt (nhất), dòm (nhòm), thúi (thối), thơ ( thư), trợt
(trượt), hun (hôn), hường (hồng),…
B. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện từ vựng- ngữ nghĩa


13

Xét vốn từ vựng Nam Bộ, chúng ta thấy có một số khác biệt so với tiếng Việt
toàn dân. TS. Huỳnh Công Tín đã nêu một số điểm cơ bản về từ vựng – ngữ nghĩa
của phương ngữ Nam Bộ như sau:
- Phương ngữ Nam Bộ còn giữ lại một lớp từ cổ của tiếng Việt mà phương
ngữ Bắc Bộ, tiếng Việt chuẩn không còn sử dụng. Đó là có thể do lớp cư dân tổ phụ
phần lớn là dân vùng Bắc Trung Bộ. Hiện nay, những cứ liệu ngữ học cho thấy, còn
khá nhiều yếu tố tương tự giữa hai vùng này, chẳng hạn: mầng (mừng), ngộ (dễ
nhìn), coi (xem), cậy (nhờ), méc (mách), hun (hôn), thơ (thư), nhơn (nhân),…
- Phương ngữ Nam Bộ gắn liền với đặc trưng văn hóa nơi đây. Đó là sự phong
phú đến mức cực đại về từ ngữ chỉ địa hình, cây cối, sông nước của miền như:
sông, rạch, xẻo, kinh, mương, rãnh, láng, lung, đầm, ao, bàu, đìa; tràm, đước, bần,
mù u, trâm bầu, bình bát, điên điển; ghe, ghe chài, ghe bầu, ghe ngo, xuồng ba lá,
tam bản, võ lãi, trẹt, xà lan, tác rán, về tên gọi các loại sản vật, trái cây như: cá
bông, cá chẻm, cá chốt, cá kèo, cá he, cá linh, cá ngác, le le, chằng nghịch, thằng
chài; bồn bồn, chôm chôm, điên điển, sầu riêng, thốt nốt,…các từ ngữ gắn với hoạt
động sinh hoạt đời sống như: Tết mùng năm tháng năm, Tết mụ, Tục thờ cúng cá
voi, đám nói, đám tôi tôi,…các ngành nghề truyền thống như: ăn ong, bắt cá đồng,

khai thác lông chim, trồng hoa kiểng, làm mắm, làm nước mắm; các lễ hội của
vùng như: Cúng biển, Cúng Thần Nông, Cúng Thành hoàng bốn cảnh, Vía Bà,
Nghinh Ông, Đua ghe ngo; các từ ngữ gắn với sinh hoạt nghệ thuật như: cải
lương, ca ra bộ, đờn ca tài tử, vọng cổ, dù kê,…
- Người dân vùng đồng bằng sử dụng một số từ ngữ vay mượn từ các dân tộc
sống chung như Khmer, Hoa: cà rá, cà ràng, cà ròn, xà rong, thốt nốt, len trâu, bò
hóc, đi ênh,…; chế, hia, tía, số dách, xập xám, bạc xỉu, miệt, mai, báo,.. trong quá
trình giao tiếp. Bên cạnh đó, tiếng Việt của người Việt, người Nam Bộ có quá trình
tiếp xúc khá lâu dài với tiếng Pháp. Bởi đó, có sự tiếp nhận, vay mượn lẫn nhau. Để
diễn đạt những thực tại mới, người Nam Bộ tiếp nhận, vay mượn một số yếu tố của
tiếng Pháp, tiếng nước ngoài. Cách vay mượn của người Nam Bộ vừa giống, vừa
khác với cách vay mượn của người Bắc Bộ.


14

- Có một số từ vựng Nam Bộ có hiện tượng biến âm so với lớp từ vựng chung.
Sự biến âm này có thể do khuynh hướng phát âm đơn giản hóa của người Nam Bộ
như: hảo hớn, minh mông, phui pha, nươm nướp, cháng váng, lè lẹt,…; hoặc do
khuynh hướng kiêng kị như: huê (hoa), luông (lông), mệnh (mạng), kiểng (cảnh),
hường (hồng), huỳnh (hoàng), phước (phúc), quới (quý), … Trong phương ngữ Nam
Bộ, hiện tượng biến âm còn diễn ra hàng loạt từ, chẳng hạn: chư bư, chư bứ, chừ
bư, chừ bự, chứ bứ,…; tèo, tẻo, téo,…; rỉnh, rểnh, rảng,…; cà cựng, cà cửng; cà
khía, cà khìa, cà khịa,…’ chằm bằm, chằm quằm, chằm vằm,…
- Lớp từ vựng của phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng diễn đạt nhiều khía
cạnh, nhiều thực tại trong một hiện tượng từ ngữ khác với khuynh hướng từ vựng
toàn dân có riêng từ để diễn đạt từng khía cạnh, thực tại riêng ấy. Nói cách khác, từ
trong ngôn ngữ toàn dân có khuynh hướng chi tiết hóa, cụ thể hóa thực tại; từ trong
phương ngữ Nam Bộ có khuynh hướng khái quát hóa, trừu tượng hóa thực tại.
C. Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trên bình diện ngữ pháp

Trên bình diện ngữ pháp, không có những khác biệt lớn giữa các ngôn ngữ.
Nhưng trong cách nói của người Nam Bộ có một số hiện tượng đáng lưu ý:
- Đặc điểm thứ nhất là cách xưng gọi. Trong gia đình, ngoài xã hội, người
Nam Bộ có thói quen dùng thứ kết hợp với tên để xưng gọi ví dụ: Ba Dương, Năm
Hà, Tám Nghệ, Tư Hoạch, …; từ xưng gọi họ hàng như: cậu, mợ, dì cô, thím,
chú,…được dùng trong gia đình và cả trong làng xóm. Cách xưng gọi giữa những
người trong gia đình có tính tới quan hệ thứ bậc, nhưng có chừng mực và không
nặng nghi thức. Với người lớn, cao nhất chỉ gọi ông, không phân biệt cụ, cố, kỵ,…;
với người có thứ bậc lớn như: cha, mẹ, cô, chú, bác,…lớp con cháu có thể dùng thứ
để xưng gọi; với lớp con cháu, dù lớn tuổi, có địa vị, chức tước, vẫn được bậc cha,
mẹ, ông, bà gọi con hoặc thằng (nam), con (nữ) như ngày nào còn nhỏ, không có
cách xưng gọi trân trọng như anh, chị như ở gia đình miền Bắc.
- Phương ngữ Nam Bộ có sự thay thế và lược bỏ đại từ ấy trong tiếng Việt. Ấy
là một đại từ đi liền sau danh từ để biểu thị một không gian, thời gian, sự vật hoặc
con người khiếm diện khi hội thoại diễn ra (bên ấy, hôm ấy,..). Khi xuất hiện trên
các văn bản viết, đại từ ấy thường viết là ấy hoặc í. Nhưng trong thực tế hội thoại,


15

tất cả các phương ngữ Bắc, Trung, Nam đều lược hóa đại từ này thành âm tiết í,
phát âm không có trọng âm (hôm í, bên í). Trong phương ngữ Nam Bộ, ấy càng bị
nhược hóa mạnh hơn, hòa nhập vào danh từ đứng trước dưới dạng : thanh điệu hỏi
(bển, đẳng, trỏng, ngoải,..). Bằng cách đó, phương ngữ Nam Bộ đã hình thành một
nhóm đại từ có ý nghĩa khiếm diện mang thanh hỏi.Trong một số trường hợp, nhược
hóa ấy thành thanh hỏi cho từ đi trước nó: bên ấy – bển, bà ấy – bả, trong ấy –
trỏng, trên ấy – trển,…
- Sử dụng các phó từ chỉ mức độ đặc thù: Bên cạnh các phó từ chỉ mức độ
dùng chung với phương ngữ Bắc Bộ như: thật, rất, lắm, quá,..phương ngữ Nam Bộ
còn sử dụng các từ chỉ mức độ: lận, hà, thiệt, hung, dữ, dữ lắm,.. và các phó từ chỉ

mức độ đi kèm với các tính từ: dở ẹt, tối hù, cụt ngủn, ốm nhom, mập ù,…
- Sử dụng các ngữ khí từ đặc thù: hả, hén, hèn chi, hông, chèng ơi, dữ ác
hông, trời ơi là trời,..
- Sử dụng các quán ngữ đặc thù: Bên cạnh các quán ngữ chung với phương
ngữ Bắc, phương ngữ Nam còn hình thành các quán ngữ đặc thù của Nam Bộ: quá
cỡ thợ mộc, quá xá quà xa, mút chỉ cà tha, mút mùa Lệ Thủy, tan nát đời cô Lựu, xí
lắt léo, trần ai khoai củ, cà kê dê ngỗng, tàn canh giá lạnh,…
- Nói lái là hiện tượng phổ biến, quen thuộc trong diễn đạt, nhận thức của
người Nam Bộ. Hiện tượng này tạo sự liên tưởng thú vị, hài hước, thể hiện lối lạc
quan yêu đời theo cách của người Nam Bộ. Tuy nhiên, nói lái có thể tạo tiếng cười
thiếu nghiêm túc. Chẳng hạn nói ít li cứ nghĩ ai đó uống rượu ít, không được nhiều;
nhưng nghĩa lái thì khác hoàn toàn: y lít là tửu lượng vô song, không có đối thủ; nói
lì một lam hiểu bắn một loạt đạn lại được hiểu làm một ly; nói lộng kiếng trang
trọng nhưng được hiểu là liệng cống; nem Bá Lộc cứ nghĩ là tên cửa hiệu bán nem
nhưng hóa ra là nem bọc lá, nghĩa là nem không chất lượng,…
1.2. Vài nét về tác giả Bình Nguyên Lộc
1.2.1. Tiểu sử
Bình Nguyên Lộc (1914 – 1987 ) là nhà văn lớn Nam Bộ giai đoạn 1945 1975, tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 tại làng Tân Uyên,


16

tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương. Bình Nguyên Lộc xuất thân trong một gia đình trung lưu
có mười đời sống tại làng Tân Uyên. Cha ông là ông Tô Phương Sâm (1878 – 1971)
làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (1876 – 1972). Ngoài bút danh Bình
Nguyên Lộc, ông còn có các bút danh khác như : Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn, Tôn
Dzật Huân, Diên Quỳnh,..
Thuở nhỏ, ông học chữ Hán với thầy đồ ở làng và học tiểu học Pháp - Việt ở
quê. Năm 1928, ông xuống Sài Gòn học trung học tại trường Pétrus Ký ( nay là

trường Lê Hồng Phong ). Ông đậu tú tài phần thứ nhất niên khóa 1933-1934 nhằm
lúc kinh tế khủng hoảng nên không tiếp tục học được nữa.
Năm 1934 về quê lập gia đình với cô Dương Thị Thiệt (1916-1988), rồi làm
công chức kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1936 ông đổi
về Sài Gòn làm nhân viên kế toán ở Tổng Nha Ngân khố Sài Gòn. Thời gian này
ông bắt đầu tham gia hoạt động văn nghệ tại đây. Truyện ngắn đầu tay có tên là Phù
sa đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (1913-1989).
Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin nghỉ dài hạn không
lương và từ đó về sau không trở lại với nghề công chức nữa. Năm 1945, ông tản cư
về quê, nhưng cuối năm 1946 ông hồi cư trở lại quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một.
Trong thời gian này, Bình Nguyên Lộc có tham gia công tác kháng chiến tại miền
Đông Nam Bộ và là thành viên Hội Văn hóa cứu quốc Biên Hòa. Nhưng trong giai
đoạn này ( những năm 1944 – 1947 ), do bệnh cũ tái phát gây khủng hoảng tinh
thần nên Bình Nguyên Lộc không viết tác phẩm nào. Năm 1950, ông viết cuốn Nhốt
gió và xuất bản cùng năm.
Năm 1952, Bình Nguyên Lộc làm thư ký tòa soạn cho vài tờ báo xuất bản tại
Sài Gòn. Năm 1953, ông chủ trương tờ báo Vui sống, tuần báo văn nghệ có khuynh
hướng y học với mong muốn áp dụng kiến thức y học phổ thông vào đời sống thực
tế.
Năn 1956, ông cùng các văn hữu cho ra đời tờ Bến Nghé, tuần báo có tinh
thần văn nghệ lành mạnh mang màu màu sắc địa phương với mục đích làm sống


17

dậy sinh khí của vùng đất Gia Định xưa. Ngoài ra, ông còn cùng các đồng nghiệp
thành lập Nhà xuất bản Bến Nghé, chuyên xuất bản các tác phẩm văn chương mang
hương vị Đồng Nai, Bến Nghé.
Năm 1957, 1958 ông cộng tác với các tạp chí Bách khoa, Văn hóa ngày nay
(của Nhất Linh). Năm 1959, ông làm chủ nhiệm tuần báo Vui sống. Trong thời gian

này, ông đoạt giải nhất văn chương toàn quốc 1959 – 1960 thể loại tiểu thuyết với
cuốn Đò dọc. Năm 1960 – 1963, ông phụ trách trang văn nghệ của báo Tiếng
chuông, năm 1964 – 1965 làm chủ biên nhật báo Tin sớm.Từ năm 1965 – 1975, ông
chuyên viết truyện dài kỳ cho các nhật báo. Giai đoạn 1970 – 1975, ông làm hội
viên Hội đồng văn hóa giáo dục Việt Nam.
Sau 1975, ông ngưng cầm bút vì bệnh nặng. Từ năm 1975 – 1985 ông không
tham gia các hoạt động xã hội và văn nghệ với lý do bị bệnh kiệt sức và huyết áp
cao. Sau khi sang Mỹ định cư từ tháng 10.1985, bệnh đỡ nhiều, ông bắt đầu viết
lách trở lại và đăng báo nhiều bài thuộc các thể loại truyện ngắn, hồi ký, tiểu
thuyết,…Một số tiểu thuyết của ông đang được viết và đăng báo dở dang thì ông
qua đời. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Cordova, Sacramento, California,
vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi. Ông được an táng ngày 14 tháng 3 năm 1987 tại
nghĩa trang Sunset Lawn.
1.2.2. Các sáng tác chính
Bình Nguyên Lộc là nhà văn lớn của Việt Nam, ông thuộc vào ba nhà văn đã
sáng tác nhiều nhất trong cả nước. Trong khoảng 50 năm sáng tác, Bình Nguyên
Lộc viết trên nhiều lĩnh vực như dân tộc học, cổ sử học, ngôn ngữ học, văn
chương,…Riêng về văn chương, ông viết nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu
thuyết, thơ,..
Cổ văn: Bình Nguyên Lộc chú giải các tác phẩm văn chương cổ điển Việt
Nam bao gồm Văn tế chiêu hồn (Nguyễn Du), Tiếc thay duyên Tấn phận Tần
(Nguyễn Du), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận).
Các công trình này lần lượt được công bố trên các tạp chí Văn học ở Sài Gòn.


18

Dân tộc học: Nổi bật là tác phẩm Nguồn sống Mã Lai của dân tộc Việt Nam
(1971). Đây là một công trình khá dài trong sự nghiệp nghiên cứu của ông. Tác
phẩm cũng gây nên một dư luận đáng chú ý đối với các nhà Việt Nam học.

Ngôn ngữ học: Tiêu biểu là tác phẩm Lột trần Việt ngữ (1972), là một cái
nhìn mới về ngữ nghĩa tiếng Việt. Bình Nguyên Lộc đứng trên quan điểm dân tộc
học để tìm hiểu nguồn gốc và nguyên nhân của tiếng Việt từ thời cổ đến thời hiện
đại.
Văn chương: Đây là phần đồ sộ nhất trong hành trình sáng tác của Bình
Nguyên Lộc. Ông từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên như Thơ Ba Mén, Việt
sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca dao,…
Tiểu thuyết: Ông có 53 tiểu thuyết (gồm cả xuất bản và chưa xuất bản). Một
số tác phẩm nổi tiếng: Đò dọc, Tỳ vết tâm linh, Khi Từ Thức về trần, Xô ngã bức
tường rêu,…
Truyện ngắn: Ông có khoảng 1000 truyện ngắn. Tuy nhiên chỉ có một số nhỏ
được xuất bản, số còn lại chưa xuất bản và bị thất lạc. Tác phẩm đầu tay tựa đề
Hương gió Đồng Nai viết trong gần mười năm (1935 – 1942) nhưng bản thảo bị thất
lạc trong lúc tản cư, khi Pháp trở lại chiếm Tân Uyên cuối 1945. Dấu vết Hương gió
Đồng Nai chỉ còn lại một truyện ngắn và một tùy bút (đăng báo khoảng 1943).
Nhưng sau đó cũng bị thất lạc. Tập truyện thứ nhì là tác phẩm Phù sa và nó cũng có
cùng số phận với Hương gió Đồng Nai, nhưng may mắn hơn là đoạn mở đầu của nó
đã được đăng trên báo Thanh niên 1943, với tên Di dân lập ấp. Về sau, ông viết lại
được khoảng 1/6 tác phẩm này và cho in trên tuần báo Nhân loại.
Các tập truyện nổi tiếng đã xuất bản như: Nhốt gió (1950), Tân liêu trai
(1959), Ký thác (1960), Tâm trạng hồng (1963), Mưa thu nhớ tằm (Phù sa, 1965),
Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (1966), Thầm lặng
(1967), Nụ cười nước mắt học trò (1967), Cuốn rún chưa lìa (1969),…
1.2.3. Nội dung của tác phẩm Bình Nguyên Lộc
Tình yêu quê hương đất nước là một tình cảm mà bất cứ một người Việt Nam
chân chính nào cũng có trong trái tim mình, trong đó phải kể đến đầu tiên là giới


19


văn nghệ sĩ Việt Nam. Nhưng mỗi nhà văn, nhà thơ có cách thể hiện tình cảm ấy
theo cách riêng. Trong khoảng thời gian từ 1965 -1975, khu vực Nam Bộ bị xáo
động dữ dội do giặc Mỹ xâm lược. Các cuộc càn quét của Mỹ đã làm biết bao số
phận phải điêu đứng. Nhiều nhà văn đã cầm bút phản ánh thực tại xã hội với niềm
căm phẫn tột độ. Tuy nhiên, yêu nước trong giai đoạn này không đơn thuần là cầm
bút chiến đấu. Những trang văn của Bình Nguyên Lộc không sục sôi niềm căm
phẫn nhưng người đọc vẫn thấy một thời máu lửa của dân tộc trong suốt hai mươi
năm chống Mỹ và cảm nhận được một trái tim luôn luôn hướng về đất nước, đau
nỗi đau của dân tộc nơi tác giả Bình Nguyên Lộc.
Đọc tác phẩm của ông, chúng ta thấy lòng yêu nước biểu hiện trên hai phương
diện: tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ và lòng yêu thương
người dân ở Nam Bộ, đặc biệt là những số phận nghèo khó
1.2.3.1. Tình yêu đối với vùng đất chôn nhau cắt rốn Nam Bộ
Sống gắn bó với miền Nam và là người trong hàng ngũ kháng chiến cũ ở lại
miền Nam sau 1954, quê hương Đồng Nai - Bến Nghé luôn là nỗi day dứt thường
trực trong tâm thức Bình Nguyên Lộc. Đó cũng là lý do vì sao tập truyện ngắn - tùy
bút đầu tay của ông có tên là “Hương gió Đồng Nai”. Tập truyện là tình cảm mà
ông dành cho mảnh đất Đồng Nai thân yêu.
Việc thường chọn vùng đất Đồng Nai, Bến Nghé hay Gia Định xưa làm bối
cảnh trong sáng tác cho thấy sự gắn bó trước hết của nhà văn với đất và con người
quê hương. Đề tài về thổ ngơi, cuộc sống, mùi vị, nếp sinh hoạt của người dân vùng
đồng bằng sông Đồng Nai, sông Cửu Long...luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ
vơi cạn, chắp cánh cho những trang viết thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước, tạo
nên đặc trưng trong phong cách truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Trong mối liên hệ
ràng buộc giữa con người với tự nhiên, tình yêu đất là thứ tình cảm thiêng liêng và
sâu nặng hơn cả (Rừng mắm - tập Ký thác; Thèm mùi đất, Phân nửa con người,
Bám níu - tập Cuống rún chưa lìa; Đất không chết - tập Nhốt gió). Tình cảm ấy
được nhà văn biểu hiện một cách đa dạng, phong phú, nhiều sắc thái, có lúc như
một ám ảnh, thậm chí trở thành nỗi u uất, khủng hoảng trong tâm hồn, tình cảm con



×