bộ t pháp
-------- --------
báo cáo phúc trình
đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ
NGHIÊN CứU VấN Đề Lý LUậN Và THựC TIễN
HOàN THIệN CHế ĐịNH TộI PHạM Và HìNH PHạT
HƯớNG TớI VIệC Sử ĐổI Bộ LUậT HìNH Sự 1999
ĐáP ứNG YÊU CầU ĐổI MớI
Chủ nhiệm đề tài: NGUYễN CÔNG HồNG
7527
22/10/2009
Hà Nội 2009
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương,
chính sách mới liên quan đến yêu cầu tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới. Các chủ trương, chính sách này được thể hiện rất rõ trong: Nghị
quyết trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết TW 3 và 7 khoá VIII, Văn kiện Đại hội IX,
Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 08/11/2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 09/CP và chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm của Chính phủ đến năm 2010, Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, .... Những
chủ trương, chính sách này đã từng bước được thể chế hóa bằng pháp luật nói chung
và pháp luật hình sự nói riêng.
BLHS được ban hành từ năm 1985, đã qua 5 lần sửa đổi, bổ sung (1989, 1991,
1992, 1997 và 1999), trong đó lần sửa đổi, bổ sung năm 1999 là cơ bản để cập nhật, bổ
sung những nội dung mới đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. BLHS đã
góp phần tích cực vào đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên,
trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như xu hướng hội nhập
quốc tế hiện nay, khi mà tình hình tội phạm vẫn đang diễn biến phức tạp và có chiều
hướng gia tăng, cơ cấu thành phần tội phạm có những thay đổi, tỷ lệ thanh thiếu niên
phạm tội ngày càng cao; tình trạng phạm tội có sử dụng bạo lực, có tổ chức, có tính
chất côn đồ hung hãn, xâm hại trẻ em, đâm thuê, chém mướn, v.v... xảy ra hết sức
nghiêm trọng gây lo lắng cho toàn xã hội thì các quy định của BLHS năm 1999 về tội
phạm và hình phạt đã bộc lộ nhiều bất cập.
Trước hết, về vấn đề tội phạm, có thể thấy, thứ nhất, trong điều kiện phát triển
kinh tế, xã hội, khoa học và công nghệ thì có một số loại tội phạm mới phát sinh như:
tội phạm công nghệ cao, chứng khoán … nhưng BLHS chưa có quy định về những
hành vi nguy hiểm này nên cơ quan tiến hành tố tụng bị bó tay, không thể xử lý về
hình sự được do nguyên tắc “luật không quy định thì không có tội”. Thứ hai, trong tình
hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay tình hình tội phạm nói chung cũng như một số
tội phạm có đã có sự thay đổi về đặc điểm, tính chất, quy mô cũng như phương thức
thực hiện, nên một số quy định có liên quan của BLHS về cấu thành tội phạm (như:
các tội phạm môi trường, các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin) phát sinh
nhiều bất cập, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và không còn đáp ứng
được yêu cầu về phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải được bổ
sung cho sát với tình hình. Thứ ba, BLHS hiện hành được ban hành từ năm 1999 trong
bối cảnh nước ta chưa hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nhiều điều ước quốc tế
chúng ta chưa có điều kiện gia nhập, do vậy, các quy định về tội phạm chưa phản ánh
được những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện hội
nhập quốc tế, nhất là tính chất, khái niệm một số tội phạm mang tính quốc tế như: tội
khủng bố, tội rửa tiền, tội buôn bán người, tội về sở hữu trí tuệ v.v...;. Vì vậy, chưa tạo
1
được cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc thực hiện các nghĩa vụ mà Việt Nam đã
cam kết trong các điều ước quốc tê như: các Công ước của Liên Hợp quốc về phòng,
chống ma tuý, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, các hiệp định quốc tế về sở
hữu trí tuệ, các điều ước quốc tế về chống khủng bố, buôn bán người, rửa tiền, v.v...
Về hình phạt cũng có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đặt ra cần được quan
tâm nghiên cứu. Ví dụ: cần phải nghiên cứu để bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội
phạm cụ thể cho phù hợp với chủ trương của Đảng và xu hướng chung của thế giới;
hoàn thiện các quy định hiện hành để nâng cao hiệu quả của hình phạt tù và các hình
phạt không phải là hình phạt tù; ý nghĩa và hiệu quả của hình phạt bổ sung và các biện
pháp tư pháp trong điều kiện hiện nay.
Từ những lý do nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung BLHS là một đòi hỏi khách
quan và cấp thiết của hoạt động lập pháp và thi hành pháp luật trong điều kiện phát
triển về kinh tế và xã hội hiện nay của nước ta nhằm góp phần khắc phục những bất
cập, hạn chế nói trên, đáp ứng yêu cầu bức xúc của thực tiễn và bảo đảm hiệu quả của
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Kết quả nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề về tội phạm và hình phạt sẽ
đưa ra được những giải pháp, phương án cụ thể nhằm khắc phục những bất cập, hạn
chế hiện nay, góp phần quan trọng vào việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999
để đáp ứng yêu cầu mới, đảm bảo đủ tính răn đe và mức độ trừng phạt cần thiết đối với
người phạm tội trong điều kiện mới.
Vì những lý do nêu trên, Ban chủ nhiệm đề tài lựa chọn việc “Nghiên cứu các
vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện chế định về tội phạm và hình phạt hướng
tới việc sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu mới” làm đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ năm 2007 để phục vụ trực tiếp cho việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS đã được Quốc hội quyết định đưa vào Chương trình xây
dựng Luật, Pháp lệnh năm 2007, dự kiến sẽ thông qua vào tháng 5 năm 2009 cũng như
việc sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự sau này.
Với đội ngũ tham gia nghiên cứu đề tài là những chuyên gia trong lĩnh vực hình
sự đã trực tiếp tham gia xây dựng Bộ luật hình sự từ năm 1985 đến nay, chúng tôi tin
rằng, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ hữu ích cho Bộ Tư pháp (cơ quan chủ trì soạn
thảo dự án BLHS sửa đổi) trong việc đề xuất, kiến nghị các phương án sửa đổi, bổ
sung BLHS.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến các lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, có một số công trình nghiên cứu
của các chuyên gia luật hình sự nước ngoài và một số tài liệu hội thảo, hội nghị mà Nhóm
nghiên cứu có điều kiện tiếp cận, trong đó đáng chú ý là: “Luật hình sự quốc tế hiện
đại”/Kubanhic A. G. - Trung tâm báo chí pháp lý 2003; “Hệ thống pháp luật một số nước
trên thế giới”/Remetnhicop Ph. M. - NXB Sách pháp lý, Matxcơva 1993; “Tài liệu Hội
thảo chống tham nhũng Đông Nam Á - lần thứ nhất”/Ủy ban chống tham nhũng Hàn
Quốc 2004; “Bộ công cụ phòng chống tham nhũng của Liên Hợp quốc”/Văn phòng ma
túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC) - Viên (Áo) 2004; “Báo cáo tổng hợp Tọa
đàm về tội phạm kinh tế và môi trường”/Bộ Tư Pháp, Hà Nội 1999; “Báo cáo của Ủy ban
kiểm soát ma túy quốc tế năm 2004”/Ủy ban kiểm soát ma túy quốc tế của Liên Hợp
Quốc, New York 2005; “Những loại hình tội phạm kinh tế ở Nhật Bản và các chế định xử
lý”/Tài liệu tham khảo của Bộ Tư pháp.
2
Ở trong nước, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khác nhau trong đó trực
tiếp hoặc gián tiếp có đề cập đến vấn đề tội phạm và hình phạt. Trước hết, có thể kể ra
nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm và hoàn thiện các chế định về tội phạm trong
BLHS trong giai đoạn hiện nay như: “Hoàn thiện pháp luật hình sự trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền”/PGS. TSKH Lê Cảm- NXB CAND 1999; “Phòng ngừa
tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực đưa người Việt Nam đi lao động
nước ngoài”/Đinh Anh Tuấn, Nguyễn Kim Phong- NXB CAND 2006; “Đặc điểm tội
phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay: LATS Luật học”/ Phạm Văn
Tỉnh; “Đấu tranh phòng, chống tội kinh doanh trái phép ở Việt Nam”; “Phòng chống
các loại tội phạm ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”/GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm-NXB
CAND 2005; “Tội phạm tài chính trong hội nhập”/Hà Hoàng Hợp, Phạm Bá KhiêmNXB Thống kê 2005; “Tội phạm kinh tế thời mở của”/ GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm,
TS. Nguyễn Hoà Bình, Nguyễn Phong Hoà-NXB CAND 2004; “Đấu tranh phòng,
chống tội phạm rửa tiền ở Việt Nam/ TS. Nguyễn Hoà Bình-NXB CAND 2004; v.v...
Về hình phạt đối với các tội phạm cụ thể có các công trình nghiên cứu như:
“Chế tài hình sự đối với tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên phạm tội”/
luật gia Hà Anh-NXB TP 2006; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma tuý
trong luật hình sự Việt Nam: LATS Luật học”/ Phạm Minh Tuyên 2006; “Định tội
danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam/ Lê Văn Đệ-NXB CAND
2004; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu: LATS Luật
học”/Nguyễn Ngọc Chí; v.v...
Ngoài ra, Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp đã hoàn thành việc nghiên cứu
một số đề tài nghiên cứu có liên quan như: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định
trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp luật về môi trường” (năm 2001);
“Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình - Thực trạng và giải
pháp” (năm 2003); “Cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (năm 2005) v..v.. Trong các công trình
nghiên cứu này đã làm rõ được một số nội dung quan trong có liên quan đến tội phạm
và hình phạt như: quan điểm về bản chất của tội phạm; tội phạm hoá, phi tội phạm
hoá; hình sự hoá, phi hình sự hoá; quan điểm về xử lý tội phạm v.v...
Đây là những công trình có giá trị khoa học và thực tiễn cao. Tuy nhiên, mỗi
công trình lại khai thác sâu về một khía cạnh nhất định của vấn đề tội phạm và hình
phạt, chưa có công trình nào đề cập một cách đầy đủ, toàn diện về vấn đề tội phạm và
hình phạt để có thể đề xuất được những phương án, giải pháp sửa đổi, bổ sung BLHS
hiện hành theo yêu cầu mới hiện nay.
3. Mục đích, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
1. Đánh giá khái quát thực trạng các quy định của BLHS về tội phạm và hình
phạt cũng như tình hình áp dụng các quy định này trên thực tế trên cơ sở có sự kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các đề tài có liên quan.
2. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng về tội phạm và hình
phạt trong điều kiện mới.
3. Các kiến nghị giải pháp, hướng hoàn thiện các quy định của BLHS 1999 về
tội phạm và hình phạt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN, hội nhập
3
quốc tế, yêu cầu cải cách tư pháp và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chế định tội phạm và hình phạt là hai nội dung cơ bản của pháp luật hình sự và
thể hiện rõ chính sách hình sự của bất kỳ một quốc gia nào. Chế định tội phạm bao
gồm những vấn đề thuộc về lý luận chung như: khái niệm tội phạm, yếu tố lỗi của
người phạm tội, các yếu tố loại trừ tính phạm tội của hành vi, phân loại tội phạm, ... và
những vấn đề thuộc về các loại tội phạm cụ thể như tội phạm xâm phạm an ninh quốc
gia, tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người, tội xâm phạm
quyền tự do, dân chủ của công dân, .... Chế định hình phạt bao gồm các vấn đề lý luận
chung về hình phạt như: khái niệm, mục đích, hệ thống hình phạt, ... và các chế định
hình phạt cụ thể như: tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn, các hình phạt chính ngoài
tù (như phạt tiền, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ), các hình phạt bổ sung như: cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản
chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, ..., kể cả các biện pháp tư pháp hỗ
trợ hoặc thay thế cho hình phạt.
Như vậy, có thể thấy chế định tội phạm và hình phạt có nội dung rất rộng, bao
gồm nhiều vấn đề. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, Ban Chủ nhiệm đề tài
thấy rằng, không thể nghiên cứu một cách dàn trải tất cả các vấn đề thuộc về nội dung
đó mà cần tập trung chuyên sâu vào những vấn đề cơ bản, bức xúc. Trên tinh thần đó,
Ban Chủ nhiệm Đề tài xác định việc nghiên cứu đề tài cần dựa trên các tiêu chí sau:
- Hoàn thiện các quy định của BLHS để nhằm thể chế hoá chủ trương cải cách
tư pháp của Nhà nước ta, cụ thể là chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tử hình, quy
định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế được thể hiện
trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, Nghị quyết số 48/NQ-TW và Nghị quyết số 49/NQTW;
- Đáp ứng các bức xúc hiện nay trong đấu tranh phòng, chống một số loại tội
phạm, cũng như một số vấn đề hình phạt đang nổi cộm nhằm đưa ra các kiến nghị, đề
xuất sửa đổi các quy định này phục vụ kịp thời cho công cuộc đổi mới đất nước;
- Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước ta, xây dựng hệ
thống các quy định pháp luật hài hoà với các yêu cầu của các văn bản pháp luật quốc
tế mà Việt Nam đã và đang là thành viên.
Cụ thể, phạm vi nghiên cứu của Đề tài sẽ bao gồm các vấn đề sau:
- Chính sách hình sự thể hiện tại BLHS 1999 và phương hướng sửa đổi BLHS
trong giai đoạn tới.
- Về chế định tội phạm: Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện các quy định về một số
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; tội phạm môi trường; tội phạm chức vụ và
một số tội phạm mang tính quốc tế như: buôn bán người, khủng bố, rửa tiền; .
- Về chế định hình phạt: Đánh giá, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện các quy định
hiện hành về hình phạt tù, trong đó bao gồm tù có thời hạn và tù chung thân; nghiên
cứu hạn chế áp dụng hình phạt tử hình; nghiên cứu hoàn thiện các quy định về các
hình phạt chính không tước tự do; đánh giá, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện các quy định
4
hiện hành về hình phạt bổ sung; nghiên cứu bổ sung chế định miễn chấp hành có điều
kiện phần còn lại của hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê nin để xem xét vấn đề tội
phạm và hình phạt dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa xã
hội khoa học.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: so sánh pháp luật:
Phương pháp này dùng để nghiên cứu lý luận và thực tiễn các quy định tội phạm và
hình phạt của nước ngoài, đối chiếu so sánh với các quy định của Việt Nam, để tìm
được phương án, đề xuất hợp lý cho Việt Nam; Phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, hệ thống để tìm ra những luận giải về lý thuyết và thực tiễn về tội phạm và
hình phạt.
Ngoài ra, Nhóm nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp khác như phương
pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn, phân tích, đề xuất, kiến nghị, ...
4. Quá trình thực hiện đề tài
Để thu được kết quả cuối cùng của đề tài và để thực hiện được mục đích
nghiên cứu của đề tài, Ban chủ nhiệm đã tiến hành một hệ thống các hoạt động nghiên
cứu như sau:
1) Ngay sau khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký quyết định giao nhiệm vụ chủ
nhiệm đề tài, từ tháng 7 năm 2007 Ban chủ nhiệm đã triển khai xây dựng dự thảo hệ
chuyên đề nghiên cứu và mời các cộng tác viên tham gia nghiên cứu viết chuyên đề.
Các cộng tác viên là những cán bộ nghiên cứu đầu ngành về pháp luật hình sự đang
công tác tại các Viện nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học, cũng như các cán
bộ đang công tác tại các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có nhiều kinh nghiệm thực
tiễn về thực thi pháp luật hình sự, đặc biệt là các chuyên gia hình sự đã tham gia trong
quá trình soạn thảo BLHS 1999;
2) Sau khi có dự thảo hệ chuyên đề, Ban Chủ nhiệm đã mời các chuyên gia
trong Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính cũng như các chuyên gia của các cơ quan
hữu quan đến họp góp ý cho dự thảo hệ chuyên đề. Nhận được các ý kiến đóng góp,
Ban Chủ nhiệm đề tài đã chỉnh lý, hoàn thiện hệ chuyên đề và ký hợp đồng thực hiện
các chuyên đề với các cộng tác viên. Hệ chuyên đề này đã được hoàn tất xong vào
tháng 8 năm 2008;
3) Ban Chủ nhiệm đã ký hợp đồng với một số chuyên gia của Vụ Pháp luật
Hình sự - Hành chính và các chuyên gia khác dịch thuật một số tài liệu tham khảo từ
tiếng nước ngoài như các BLHS của các nước, cũng như thu thập các tài liệu nghiên
cứu, sách tham khảo có liên quan đến Đề tài để lập thành một Danh mục tài liệu tham
khảo sử dụng trong quá trình nghiên cứu;
4) Đồng thời với việc ký hợp đồng với các chuyên gia để thực hiện các chuyên
đề, Ban Chủ nhiệm cử người tham gia 02 cuộc khảo sát về tình hình thực tiễn 8 năm
thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 tại 6 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Thừa
thiên - Huế, Quảng Trị và Quảng Bình dưới sự chỉ đạo của Ban Soạn thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLHS;
5
5) Ban Chủ nhiệm Đề tài còn phối hợp với các Dự án khác tổ chức một số Hội
thảo để lấy ý kiến chuyên gia về một số vấn đề có liên quan của Đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Đề tài
Đề tài đã có một số đóng góp quan trọng như sau:
Về mặt lý luận:
- Trên cơ sở xác định rõ phạm vi nghiên cứu, tập thể tác giả đã tập trung nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến chế định tội phạm và hình phạt theo 4 nhóm vấn đề để
phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung BLHS. Đó là (i) tiếp tục nhân đạo hoá chính sách
hình sự, (ii) nghiên cứu việc hình sự hoá những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới
xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập
quốc tế (iii) nghiên cứu một số vấn đề cấp bách nhất nhằm góp phần tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay và (iv)
hoàn thiện các quy định của BLHS nhằm chuẩn bị các điều kiện pháp lý hình sự thực
hiện các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết. Thành công lớn của tập thể tác giả
là đã chỉ ra được một cách khá thuyết phục hệ thống các vấn đề còn bất cập liên quan
đến chế định tội phạm và hình phạt cần được hoàn thiện của BLHS 1999.
- Trên cơ sở phân tích nội dung, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
từng hành vi có so sánh với pháp luật quốc tế có liên quan và yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm hiện nay, Đề tài đã đánh giá được một cách có hệ thống về lý luận và
thực tiễn cho từng vấn đề và đề xuất được những giải pháp cụ thể và khả thi cho việc
sửa đổi, bổ sung phần các tội phạm của BLHS 1999.
- Trên cơ sở kết quả phân tích, đánh giá khá sâu, toàn diện và mang tính tổng
kết cao về các loại hình phạt, Đề tài đã đưa ra được những kiến nghị hoàn thiện hệ
thống hình phạt nói chung và các nguyên tắc có sức thuyết phục cao cho việc xem xét
giảm án tử hình trên thực tế nói riêng.
- Những ý kiến đánh giá, nhận xét của tập thể tác giả về sự tương thích và khác
nhau giữa quy định có liên quan của BLHS 1999 và quy định của pháp luật quốc tế có
liên quan và những khó khăn, bất cập trong quá trình áp dụng có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt lý luận và thực tiễn, đóng góp tích cực cho quán trình hoàn thiện pháp luật hình
sự.
Về mặt thực tiễn
Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học mang tính ứng dụng, do vậy, thành
công lớn của tập thể tác giả mang đậm ý nghĩa thực tiễn là những phân tích, đánh giá,
so sánh khá sâu sắc về nội dung, tính chất, mức độ mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, tính chất, mức độ răn đe, phòng ngừa của hình phạt làm cơ sở cho các kiến
nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể đối với những điều luật có liên quan của BLHS 1999.
6
PHẦN I
BÁO CÁO PHÚC TRÌNH
7
I. CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ THỂ HIỆN TẠI BỘ LUẬT HÌNH SỰ (BLHS)
1999 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG SỬA ĐỔI
1.1. Chính sách hình sự thể hiện tại BLHS 1999
Chính sách hình sự của Nhà nước ta là bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, bảo
vệ các quyền cơ bản của con người trong xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường có
môi trường xã hội lành mạnh để phát triển, có sự quản lý của Nhà nước, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các hình thức sở hữu được Hiến pháp thừa nhận, bảo
đảm trật tự, an toàn công cộng, trật tự quản lý hành chính, trật tự pháp luật, bảo đảm
giao lưu và hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tinh thần bao trùm chính sách hình sự của Nhà nước ta là chủ nghĩa nhân đạo,
bảo vệ quyền con người, được thể hiện ở những điểm chính sau đây:
Thứ nhất, chỉ áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng và cũng chỉ trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Do vậy, so với trước
đây, BLHS 1999 đã giảm đáng kể số lượng các tội phạm có thể bị áp dụng hình phạt tử
hình. Nếu như trước năm 1999 có 44 điều luật quy định hình phạt tử hình, thì nay chỉ
còn 29 điều luật, tập trung vào một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như: phản bội tổ
quốc, bạo loạn, khủng bố, giết người, cướp của, hiếp dâm, tội phạm ma tuý, tội phạm
về tham nhũng, …;
Thứ hai, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm
tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội
hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
Thứ ba, đa dạng hoá hệ thống hình phạt theo hướng tăng cường các hình phạt
không gắn với giam giữ; giảm đáng kể các trường hợp có thể bị áp dụng hình phạt tù,
bổ sung thêm hình phạt tiền để tăng sự lựa chọn hình phạt, đặc biệt là đối với các tội
phạm về kinh tế. Nếu như trước đây hầu như tội nào cũng có hình phạt tù, thì nay có
tới trên 70 điều luật (trên tổng số 267 điều) có quy định thêm hình phạt tiền và có trên
dưới 10 khung hình phạt chỉ có hình phạt tiền (không có hình phạt tù trong chế tài lựa
chọn);
Thứ tư, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên. Đặc biệt,
người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
1.2. Những bất cập của BLHS 1999
Qua các báo cáo tổng kết 8 năm thi hành BLHS của Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Báo cáo khảo sát liên ngành về tình hình 8
năm thi hành BLHS tại một số địa phương thì có thể thấy rằng, BLHS 1999 đã quy
định một cách tương đối hệ thống, toàn diện các nguyên tắc, chế định chung của chính
sách hình sự, đã hình sự hoá tương đối đầy đủ các hành vi nguy hiểm cho xã hội được
coi là tội phạm và có một hệ thống hình phạt khá toàn diện, khoa học. Trong 8 năm
qua, BLHS 1999 đã thực sự là công cụ pháp lý quan trọng, góp phần tích cực vào việc
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các thành tựu phát triển kinh tế xã hội, góp
phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
8
Tuy nhiên, do được ban hành đã lâu, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay
đã có nhiều thay đổi nên BLHS 1999 đã và đang bộc lộ nhiều điểm bất cập trước yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Các điểm bất cập này có thể
chia làm các nhóm sau đây:
Thứ nhất, bất cập của các quy định tại Phần chung BLHS về chế định tội phạm
có thể liệt kê như: quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự (Điều 2) chưa xác định rõ thế
nào là trách nhiệm hình sự, thời điểm phát sinh và kết thúc trách nhiệm hình sự; quy
định về khái niệm tội phạm (Điều 8) chưa thật khái quát; chế định đồng phạm (Điều
20) chưa rõ ràng về người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức; các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 46 và 48) chưa rõ ràng dẫn đến khó áp dụng
thống nhất...;
Thứ hai, bất cập của các quy định tại Phần chung BLHS về chế định hình phạt
có thể liệt kê như: quy định về hình phạt cảnh cáo (Điều 29) không có tác dụng giáo
dục, răn đe người phạm tội trong thực tiễn. Các quy định của BLHS hiện hành dẫn đến
một bất hợp lý là các biện pháp tư pháp, hình phạt không tước tự do như cải tạo không
giam giữ không được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16
tuổi. Quy định về hình phạt bổ sung tước một số quyền công dân còn mâu thuẫn với
các quy định tại các điều luật cụ thể của Phần các tội phạm....;
Thứ ba, bất cập của các quy định về các tội phạm cụ thể có thể kể ra như: một
số điều luật không mô tả hành vi khách quan nên khó xác định chính xác tội danh và
áp dụng thống nhất (Điều 134, 136, 137, 138); nội dung quy định trong cấu thành của
một số tội phạm còn có những bất cập, khó thực hiện, khó chứng minh trên thực tế
(Điều 80, 84, 104, 105, 119...); nhiều tội danh quy định ghép các hành vi có tính chất
và mức độ nguy hiểm khác nhau vào cùng một điều luật, gây khó khăn trong việc định
tội và định khung hình phạt (điều 120, 180, 181, 194...)....;
Thứ tư, bất cập của các quy định về các khung hình phạt tại Phần các tội phạm
có thể liệt kê như: mức khởi đầu và mức cuối của khung hình phạt tù có thời hạn quá
dài (khoản 3 Điều 104, khoản 1 Điều 133,...); khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa
của hình phạt tiền còn quá rộng (Điều 271, 133...).. ;
Thứ năm, trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội của đất nước, có một số hành vi đã trở nên không còn nguy hiểm cho xã hội nên
không cần phải quy định là tội phạm nữa, ngược lại, có một số hành vi mới xuất hiện
với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội tương đối cao, nhưng chưa được quy
định trong BLHS 1999.
Bên cạnh các bất cập nói trên, cũng có thể thấy rằng, với xu hướng hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, thì nhiều quy định của BLHS 1999 đã không đáp ứng kịp
với các cam kết quốc tế mà chúng ta đã ký kết hoặc tham gia với cộng đồng thế giới.
Ví dụ như: tội khủng bố (Điều 84), tội mua bán phụ nữ, tội mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoạt trẻ em (Điều 119, 120), tội phạm về sở hữu trí tuệ (Điều 131, 171), .... đã
trở nên lạc hậu, không phù hợp với yêu cầu của các công ước quốc tế, cần thiết phải
sớm sửa đổi, bổ sung.
1.3. Kiến nghị của Đề tài về phương hướng sửa đổi BLHS 1999
Với những trình bày ở trên, có thể thấy rằng, BLHS 1999 hiện nay có rất nhiều
bất cập. Điều này không những gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong thực
9
tiễn, mà còn không đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện
nay.
Tuy nhiên, trong phạm vi của một Đề tài khoa học cấp Bộ, với hạn chế về mặt
thời gian và nhân lực, chúng tôi không có tham vọng nghiên cứu để sửa đổi tất cả các
bất cập nói trên, mà chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề thật sự cấp bách nhất để phục
vụ cho việc xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS dự kiến sẽ
thông qua trong kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XII. Các vấn đề bất cập khác, chúng tôi
cho rằng sẽ tiếp tục được nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện ở những đề tài tiếp
theo.
Với những lý do trên, Ban Chủ nhiệm đề tài đã hướng các nội dung nghiên cứu
vào những vấn đề cấp thiết dựa trên các tiêu chí sau:
- Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS để nhằm thể chế hoá một bước
chủ trương cải cách tư pháp của Nhà nước ta, cụ thể là chủ trương hạn chế áp dụng
hình phạt tử hình, quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội
mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội
nhập quốc tế được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, Nghị quyết số 48/NQ-TW
và Nghị quyết số 49/NQ-TW;
- Nghiên cứu một số vấn đề thật sự cấp bách nhất nhằm góp phần tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện
nay;
- Nghiên cứu một số vấn đề để đáp ứng các yêu cầu của các cam kết quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia ký kết trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay.
Với những tiêu chí trên, Nhóm nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu các vấn đề
liên quan đến chế định tội phạm và hình phạt để sửa đổi BLHS như sau:
• Tiếp tục nhân đạo hoá chính sách hình sự
Tính nhân đạo trong chính sách hình sự được thể hiện trước hết ở việc giảm nhẹ
các hình phạt có tính hà khắc đối với người phạm tội, trong đó có hình phạt tử hình tước mạng sống của người phạm tội. Hiện nay, mặc dù đã có những bước đổi mới cơ
bản, song BLHS vẫn còn 29 điều luật quy định hình phạt tử hình. Trong tương lai,
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ý thức của người dân đối với việc
chấp hành pháp luật, tôn trọng cuộc sống cộng đồng ngày càng được nâng cao thì việc
thu hẹp hơn nữa các tội phạm có thể bị xử phạt tử hình cũng cần được đặt ra. Có thể,
vẫn cần duy trì hình phạt tử hình, song chỉ nên áp dụng đối với một số loại tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng như: khủng bố, giết người, cướp của mà làm chết người, ... còn
đối với các loại tội phạm khác thì mức hình phạt cao nhất là chung thân cũng là thích
đáng. Hiện nay, ở những nước còn duy trì hình phạt tử hình, chẳng hạn như Cộng hoà
Liên bang Nga cũng chỉ quy định hình phạt tử hình đối với 3 tội: khủng bố, giết người
có chủ mưu và diệt chủng.
Cùng với việc giảm bớt hình phạt tử hình, cần nghiên cứu tiếp tục giảm bớt
hình phạt tù đối với người phạm tội. Hình phạt tù chỉ áp dụng đối với những tội phạm
nghiêm trọng và những tội phạm mà xét thấy nếu để người bị kết án ở ngoài xã hội thì
sẽ còn gây hại cho xã hội. Còn đối với những trường hợp khác thì xem xét áp dụng các
hình phạt không tước tự do. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu để giảm bớt số chế tài có
quy định hình phạt tù chung thân, đặc biệt là đối với một số nhóm tội như xâm phạm
sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, ...
10
• Nghiên cứu việc hình sự hoá những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất
hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội
nhập quốc tế
Trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của nước ta
hiện nay, nhiều vấn đề mới phát sinh, phát triển đòi hỏi phải được pháp luật hình sự
bảo vệ. Do vậy, cần phải nghiên cứu để hình sự hoá một số hành vi vi phạm mới. Ví
dụ: một số vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, đất đai; một số vi phạm liên quan đến
việc mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn chứng từ thu nộp ngân sách, ... (xem chi tiết
tại Mục 2.1. Hoàn thiện các quy định về tội phạm kinh tế); một số vi phạm nghiêm
trọng mới phát sinh trong lĩnh vực môi trường (xem chi tiết tại Mục 2.2. Hoàn thiện
các quy định về tội phạm môi trường); các hành vi: lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử
dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che người có hành vi
vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi (xem chi tiết tại Mục 2.3.
Hoàn thiện các quy định về tội phạm chức vụ); hành vi “mua bán nam giới” (xem chi
tiết tại Mục 2.4. Hoàn thiện các quy định về Tội phạm buôn bán người); hành vi khủng
bố theo nghĩa rộng hơn quy định của BLHS hiện hành, cũng như hành vi tài trợ khủng
bố (xem chi tiết tại Mục 2.5. Hoàn thiện các quy định về tội phạm khủng bố); một số
hành vi rửa tiền mới trong thực tiễn chưa được Bộ luật hình sự hiện hành quy định
(xem chi tiết tại Mục 2.6. Hoàn thiện các quy định về tội phạm rửa tiền).
• Nghiên cứu một số vấn đề cấp bách nhất nhằm góp phần tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm
hiện nay
Xuất phát thực tiễn đấu tranh với các loại tội phạm như tội phạm kinh tế, tội
phạm môi trường, tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, chúng ta thấy quy định hiện hành
còn nhiều bất cập trong yếu tố cấu thành tội phạm, các tình tiết định khung cũng như
mức hình phạt làm giảm hiệu quả phòng ngừa và gây khó khăn khi áp dụng các quy
định nói trên. Cụ thể là, với các tội phạm kinh tế thì nên nghiên cứu tăng cường chế tài
vật chất để nâng cao tính răn đe đối với loại tội phạm này; các tội phạm môi trường
với các yếu tố cấu thành quá chặt chẽ như hiện nay không thể áp dụng được trong thực
tiễn; các tội phạm mua bán phụ nữ, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em cũng
do yếu tố cấu thành chưa rõ ràng nên gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp
luật... Việc hoàn thiện các quy định về các tội phạm này bảo đảm hành lang pháp lý
cho hoạt động kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền con người ... Vì vậy, việc
nghiên cứu để sửa đổi các quy định này là thực sự cấp bách.
Thực tiễn áp dụng một số loại hình phạt cũng cho thấy cần thiết phải nghiên
cứu để sửa đối một số quy định về hình phạt hiện nay đang có nhiều bất cập như: cân
nhắc về hiệu quả phòng ngừa, giáo dục của hình phạt cảnh cáo, mức tối đa và tối thiểu
của hình phạt tiền, hệ thống hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên, hệ thống
các hình phạt bổ sung,....
Bên cạnh đó, để xử lý tội phạm một cách triệt để, nhất là các tội phạm trong
lĩnh vực kinh tế, môi trường, ... đã đến lúc cần phải đặt lại vấn đề trách nhiệm hình sự
của pháp nhân, nhất là pháp nhân kinh tế, bởi vì, hiện nay không ít tổ chức kinh tế
(pháp nhân), vì chạy theo lợi ích cục bộ mà đã thực hiện nhiểu hành vi trái pháp luật
mang tính chất tội phạm (ví dụ: đầu cơ, trốn thuế, kinh doanh trái phép, buôn lậu hoặc
11
vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường, về bảo hộ lao động gây hậu quả nghiêm
trọng, v.v...), trong khi đó, chính sách hình sự của nhà nước ta hiện nay mới chỉ xử lý
đối với cá nhân phạm tội, còn tổ chức (pháp nhân) cũng có hành vi vi phạm tương tự
thì không bị xử lý về hình sự mà bị áp dụng các chế tài xử phạt khác (hành chính, kinh
tế, dân sự). Việc xử lý như vậy là chưa thật thoả đáng, chưa truy xét đến cùng trách
nhiệm đối với hành vi phạm tội. Pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới đã quy
định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nhất là đối với pháp nhân kinh tế (từ năm
1997 Bộ luật Hình sự Trung Quốc quy định rất rõ vấn đề này).
Tuy nhiên, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một vấn đề lớn liên
quan đến nhiều chế định tại Phần chung của BLHS. Việc bổ sung chế định này vào
BLHS sẽ làm thay đổi hoàn toàn các quan niệm từ trước đến nay về cơ sở trách nhiệm
hình sự, năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi, hình phạt, ... Do vậy, vấn đề này cần được
tiếp tục nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng để
chuẩn bị cho việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự.
• Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS nhằm chuẩn bị các điều
kiện pháp lý hình sự thực hiện các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam
kết
Một số quy định của BLHS 1999 về tội mua bán phụ nữ, trẻ em, tội khủng bố,
tội rửa tiền cần phải được nghiên cứu sửa đổi để đáp ứng các yêu cầu của cam kết
quốc tế. Cụ thể: quy định về tội mua bán phụ nữ, trẻ em cần tuân thủ yêu cầu của Nghị
định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ
nữ, trẻ em, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia, Nghị định thư về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu
dâm trẻ em, bổ sung Công ước Quyền trẻ em; quy định về tội phạm khủng bố cần phải
đáp ứng yêu cầu của các điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt Nam đã là thành
viên; quy định về các tội phạm liên quan đến rửa tiền phải tuân thủ yêu cầu của Công
ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các khuyến nghị của Lực lượng đặc
nhiệm tài chính về chống rửa tiền.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH TỘI PHẠM
Với phạm vi nghiên cứu được xác định tại Mục 3.2 Phần Lời nói đầu và Mục
1.3 Phần I của Đề tài, phần hoàn thiện chế định tội phạm Nhóm nghiên cứu tập trung
nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các quy định về một số nhóm tội phạm cụ thể như: tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; tội phạm về môi trường; tội phạm về chức vụ và một
số tội phạm mang tính quốc tế như: buôn bán người, khủng bố, rửa tiền.
Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu cụ thể:
2.1. Hoàn thiện các quy định về tội phạm kinh tế
2.1.1. Các quy định hiện hành của BLHS về các tội phạm kinh tế
Chương XVI của Bộ luật hình sự năm 1999 với 29 điều luật (Điều 153 - Điều
181) quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Chính sách xử lý đối với
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong BLHS đã có sự chuyển biến khá căn bản
so với các quy định trong BLHS 1985, đã loại bỏ một số tội phạm gắn liền với cơ chế
quản lý kinh tế tập trung bao cấp, đồng thời, đã sửa đổi, bổ sung dấu hiệu cấu thành
của một số tội, bổ sung một số tội phạm mới đã và đang phát sinh trong nền kinh tế thị
trường, ... Nhiều tội phạm trong chương Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã
12
định lượng giá trị tài sản để làm cơ sở phân biệt trường hợp nào là tội phạm, trường
hợp nào là vi phạm hành chính, giúp cho việc xử lý thống nhất, chính xác, khách quan,
đồng thời, hạn chế tình trạng xử lý tuỳ tiện. Tuy nhiên, thực tiễn 10 năm thi hành Bộ
luật hình sự năm 1999 cho thấy, có nhiều quy định của chương XVI - Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế đã không còn phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới mà một trong những nguyên nhân
chính là do các qui định này chưa kịp thể chế hoá chính sách hình sự đã được đề ra tại
các nghị quyết của Đảng trong thời gian qua như Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị
quyết số 49- NQ/TW cũng như chưa đáp ứng được các yêu cầu của các cam kết quốc
tế mà Việt Nam đã tham gia.
2.1.2. Một số yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện Chương Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế
Ngoài các yêu cầu chung như: việc sửa đổi, bổ sung phải phúc đáp được những
đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới; qui định tội
phạm và hình phạt phải phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội; bảo
đảm tính thống nhất giữa phần riêng và phần chung của BLHS; các khái niệm sử dụng
phải thống nhất với hệ thống pháp luật chung, nhất là pháp luật về quản lý kinh tế, ...
thì đối với việc hoàn thiện chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cần đáp
ứng thêm một số yêu cầu riêng sau đây:
(1) Qui định xử lý về hình sự đối với các vi phạm trong lĩnh vực kinh tế cần phù
hợp với các qui luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực
góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển
Vấn đề xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng và được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp
năm 1992. Với đường lối kinh tế mới, nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, thay thế cho cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp.
Dưới tác động của các quan hệ kinh tế mới tình hình tội phạm nói chung, tình
hình các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng có nhiều thay đổi, đồng thời,
cũng đặt ra những yêu cầu mới về công tác đấu tranh phòng, chống đối với các loại tội
phạm này. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế một số hành vi nguy hiểm xuất hiện
đòi hỏi phải xử lý bằng biện pháp hình sự. Một số tội phạm tính nguy hiểm cho xã hội
lại tăng lên yêu cầu xử lý phải nghiêm khắc hơn. Ngược lại, một số tội phạm tính nguy
hiểm cho xã hội giảm đi hoặc thậm chí không cần thiết phải xử lý bằng biện pháp hình
sự mà cần chuyển sang xử lý bằng các biện pháp hành chính hoặc dân sự, ...
Pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật hình sự cần phải được đổi mới, được
cải cách mạnh mẽ hơn để có thể trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát
triển kinh tế, góp phần giải phóng mọi năng lực, mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế; trách tình trạng lạm dụng biện pháp hình sự trong việc xử lý các vi phạm trong
lĩnh vực kinh tế, thiếu cân nhắc đến hiệu quả kinh tế cũng như xã hội của các biện
pháp hình sự, dẫn đến tội phạm hoá tràn lan, bỏ qua các qui luật của nền kinh tế thị
trường. Do đó, ngoài việc tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động kinh tế,
pháp luật hình sự còn phải góp phần khuyến khích những hoạt động kinh tế theo cơ
chế kinh tế mới phát triển. Việc tội phạm hoá hoặc phi tội phạm hoá đối với các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế phải phù hợp với qui luật, đặc điểm và trình độ phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
13
(2) Qui định xử lý về hình sự đối với các vi phạm trong lĩnh vực kinh tế cần phù
hợp với pháp luật hình sự quốc tế
Trong những năm qua, Việt Nam ngày càng tham gia tích cực vào quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nước ta đã gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN), đã ký Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đã tham gia Khu vực tự
do thương mại các nước Đông Nam á (AFTA) và đã gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), ... Mặt khác, trong điều kiện giao lưu kinh tế đã khác nhiều so với trước
đây, việc lưu thông hàng hoá, không riêng gì nước ta, mà nhiều quốc gia khác cũng
như thế, đòi hỏi phải tôn trọng những “luật chơi chung” nhất định và như vậy, cũng có
nghĩa là các qui định về xử lý đối với những vi phạm phải phù hợp với pháp luật quốc
tế. Điều này còn góp phần tránh được các xung đột pháp luật không cần thiết có thể sẽ
xảy ra khi giải quyết các vi phạm trong tương lai.
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các qui định xử lý về hình sự đối với các vi phạm
trong lĩnh vực kinh tế cần phù hợp với pháp luật hình sự quốc tế đã trở thành một nhu
cầu khách quan. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ trương “đẩy mạnh việc rà roát,
sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản qui phạm pháp luật để phù hợp với
thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên” được nêu tại
Nghị quyết số 48-NQ/TW.
(3) Qui định xử lý đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế phải xuất
phát từ “tính chất kinh tế” của các tội phạm đó.
Đối với các tội phạm này cần qui định tối đa các hình phạt có khả năng tác
động về mặt kinh tế đối với người phạm tội như: hình phạt tiền (hình phạt chính và
hình phạt bổ sung), hình phạt tịch thu tài sản, … hạn chế qui định các hình phạt tước
tự do như: hình phạt tù, tù chung thân hoặc tử hình. Các hình phạt này vừa có tác dụng
giáo dục và cải tạo đối với người phạm tội, đồng thời, vừa góp phần giúp cho việc tiết
kiệm chi phí của xã hội như giảm được chi phí cho việc thi hành án, …. Theo chúng
tôi, về vấn đề này, nên tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia đi trước,
nhất là các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi tương tự Việt Nam như: Trung Quốc,
Liên bang Nga, …
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định hiện hành về các tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế
Để đáp ứng các yêu cầu trên đây đòi hỏi chương Các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế cần sửa đổi, bổ sung khá cơ bản các qui định hiện hành, cụ thể như:
(1) Tăng cường chế tài vật chất
Thực tiễn cho thấy, việc xử lý nghiêm hay không nghiêm không chỉ phụ thuộc
vào mức hình phạt được qui định nặng hay nhẹ. Vấn đề là ở chỗ, biện pháp xử lý phải
phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, phải phù hợp với bản chất của
từng loại tội phạm. Bất kỳ một hình phạt nào cũng là sự kết hợp giữa trừng trị và giáo
dục, trừng trị là biện pháp để giáo dục và có ý nghĩa răn đe. Do đó, khi qui định một
loại hình phạt nhà làm luật phải giải quyết hợp lý mối tương quan này. Nghĩa là, làm
thế nào để yếu tố trừng trị phải bảo đảm ở mức cần và đủ vì nếu nghiêm khắc thái quá
có thể sẽ tạo ra sự bi quan, phẫn uất, mất lòng tin vào động cơ giáo dục, cải tạo của
người phạm tội; tạo nên sự nhận xét, đánh giá, phản ứng không tốt của những người
xung quanh sẽ hạn chế tác dụng phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng của hình phạt.
14
Theo qui định của BLHS 1999 thì chỉ có hình phạt cải tạo không giam giữ, tịch
thu tài sản và hình phạt tiền là các hình phạt tác động trực tiếp về mặt kinh tế đến
người bị kết án. Tuy nhiên, hình phạt tiền có khả năng tác động mạnh mẽ và trực tiếp
hơn đối với người bị kết án. Còn tịch thu tài sản chỉ là hình phạt bổ sung, có khả năng
hỗ trợ cho hình phạt chính và chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm
trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp do BLHS
qui định. Nếu so sánh với hình phạt tịch thu tài sản thì hình phạt tiền có khả năng linh
hoạt hơn trong việc vận dụng. Nó vừa được qui định là hình phạt chính, vừa được qui
định là hình phạt bổ sung. Trong hệ thống hình phạt nước ta hiện nay thì tính chất
“lưỡng tính” này chỉ được qui định ở hình phạt tiền và hình phạt trục xuất. Với tư cách
là hình phạt chính, phạt tiền được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính. Với tư cách
là hình phạt bổ sung, phạt tiền được áp dụng đối với người phạm các tội về tham
nhũng, ma tuý và những tội phạm khác do BLHS qui định.
So với BLHS 1985, BLHS 1999 qui định hình phạt tiền khá phổ biến. Trong
BLHS 1985, chương Các tội phạm về kinh tế chỉ qui định hình phạt tiền là hình phạt
chính tại một điều duy nhất1, chiếm 4,7% (1/21 điều luật); hình phạt tiền là hình phạt
chính cũng chỉ được qui định trong 8 điều luật, chiếm 4% so với tổng số điều luật phần
các tội phạm2. Đến BLHS 1999 thì phần lớn những tội thuộc chương Các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế đều có qui định hình phạt tiền là hình phạt chính. Tuy
nhiên, tại chương này, qui định hình phạt tù vẫn là phổ biến, chiếm 100% các điều
luật. Hình phạt chung thân, tử hình còn chiếm tới 10,3% (3/29 điều luật). Hình phạt
tiền được qui định là hình phạt chính, so với BLHS 1985, đã tăng nhiều, chiếm tới
62% (18/29 điều luật) nhưng lại ở dạng lựa chọn với nhiều hình phạt khác như phạt tù,
cải tạo không giam giữ, … Còn hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính độc lập
thì chưa được qui định ở một điều luật nào, chiếm 0 % (0/29 điều luật). Với tư cách là
hình phạt bổ sung, hình phạt tiền được qui định có khá hơn, chiếm 75,8%, nhưng cũng
như đối với hình phạt tiền là hình phạt chính, thường được qui định dưới dạng lựa
chọn với nhiều hình phạt bổ sung khác như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định,…Còn hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung
độc lập thì chỉ được qui định ở 5 điều luật, chiếm 17 % (5/29 điều luật). Do đó, đối
với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cần mở rộng phạm vi qui định hình phạt
tiền hơn nữa. Đặc biệt, cần nghiên cứu để có thể qui định hình phạt tiền với tư cách là
hình phạt chính duy nhất đối với một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ít nghiêm
trọng. Trước mắt đối với các tội như Tội kinh doanh trái phép (Điều 159), Tội trốn
thuế (Điều 161), Tội cho vay lãi nặng (Điều 163),…khoản 1 cần qui định hình phạt
tiền là hình phạt chính độc lập mà không nên qui định là chế tài lựa chọn với các chế
tài khác như hiện nay. Đối với hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cũng nên qui định
độc lập phổ biến hơn đối với một số tội phạm ít nghiêm trọng. Với trường hợp phải qui
định hình phạt tù thì cần nghiên cứu theo hướng qui định hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung bắt buộc đối với một số tội nhất định.
(2) Sửa đổi một số quy định hiện hành để phù hợp với các yêu cầu của các cam
kết quốc tế
1
Điều 179. Tội vi phạm các qui định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên trong
lòng đất, trong các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam
2
Trong BLHS 1985 có 218 điều luật qui định về tội phạm
15
Trong bối cảnh hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các nước đang ngày càng sâu
rộng, thì việc sửa đổi pháp luật hình sự nói chung và các quy định của BLHS về các
tội phạm kinh tế nói riêng để đáp ứng các yêu cầu của các cam kết quốc tế là điều hết
sức cần thiết. Rà soát lại các quy định về các tội phạm kinh tế, Nhóm nghiên cứu thấy
cần phải sửa đổi yếu tố cấu thành và nâng khung hình phạt của các tội xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ.
Việt Nam đã tham gia ký kết các điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ như
Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO, Công
ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Hiệp ước hợp tác Bằng sáng chế PCT, Thỏa
ước Mandrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Nghị định thư Mandrid về đăng
ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật, Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép
trái phép, Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ
chức phát sóng, Thoả ước La Hay về Đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp, Công
ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV), Hiệp định giữa VN và
Thụy Sỹ về bảo hộ SHTT và hợp tác trong lĩnh vực SHTT, Hiệp định giữa VN và Hoa
Kỳ về việc thiết lập quan hệ quyền tác giả, Hiệp định Thương mại VN - Hoa Kỳ,…
Đặc biệt, từ năm 2007, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), một trong những vấn đề Việt Nam cam kết thực hiện là
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chống sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm bảo đảm sự
cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, quyền và lợi
ích cũng như sức khỏe của người tiêu dùng cũng như uy tín của Việt Nam trong hợp
tác thương mại quốc tế.
Để đáp ứng các yêu cầu của các cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ, chúng tôi
kiến nghị cần tập trung sửa đổi Điều 131 và 171 của Bộ luật hình sự theo hướng sửa
đổi yếu tố cấu thành cơ bản của hai điều luật trên: từ “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án” thành ”cố ý” và ”với quy mô thương mại”
cho phù hợp với Điều 14 Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và Điều 61 Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của WTO.
Đồng thời, bổ sung thêm một loạt hành vi xâm phạm quyền quyền tác giả và quyền
liên quan bao gồm quyền tài sản thuộc quyền tác giả, quyền tài sản của người biểu
diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền tài sản của tổ chức phát
sóng, quyền của người phát tín hiệu vệ tinh vào quy định của Điều 131 và chuyển điều
này sang chương XVI. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Sửa đổi Điều 171
theo hướng chỉ quy định xử lý hình sự đối với hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam, còn đối với các hành vi sử dụng bất hợp
pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp khác hoặc giống cây trồng chỉ quy định xử lý
hình sự trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng.
(3) Qui định bổ sung một số tội phạm mới
Do diễn biến của tình hình kinh tế - xã hội, bên cạnh tình hình tội phạm có lúc
tăng lúc giảm thì một số hành vi nguy hiểm xuất hiện đòi hỏi cần được xử lý bằng các
biện pháp hình sự. Trước mắt, chúng ta phải hình sự hoá một số hành vi nguy hiểm đã
xuất hiện trong lĩnh vực kinh tế, xâm phạm đến sự ổn định và phát triển của nền kinh
tế như: một số vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, đất đai; một số vi phạm liên quan
đến việc mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn chứng từ thu nộp ngân sách, ...
16
Báo cáo của Bộ Công an gần đây cho thấy rằng các hành vi vi phạm quy định
về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hóa đơn trên thực tế đang là vấn đề rất bức xúc,
gây thiệt hại nghiêm trọng đến ngân sách Nhà nước. Để phòng, chống các hành vi vi
phạm này, hiện nay, chúng ta có Nghị định của Chính phủ số 89/2002/NĐ-CP ngày
7/11/2002 quy định về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hóa đơn. Nghị định này đã
quy định các biện pháp xử phạt hành chính đối với các vi phạm về in, phát hành, sử
dụng và quản lý hóa đơn. Tuy nhiên, với nhiều vi phạm nghiêm trọng thì chế tài xử
phạt hành chính thực sự không hiệu quả trong ngăn chặn và đấu tranh với loại hành vi
này. Vì vậy, việc quy định một chế tài hình sự mang tính răn đe, phòng ngừa cao là
thực sự cần thiết đối với các vi phạm mang tính chất nghiêm trọng. Vì lý do đó Nhóm
nghiên cứu kiến nghị hình sự hóa những hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa
đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước cũng như các hành vi vi phạm quy định về
bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước.
Trong lĩnh vực chứng khoán chúng ta thấy rằng, thị trường chứng khoán đã đi
vào hoạt động được 10 năm. Thời gian 10 năm qua thị trường chứng khoán đã chứng
tỏ những hiệu quả tích cực của mình với vai trò là một kênh quan trọng để Nhà nước
cũng như doanh nghiệp huy động nguồn vốn phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh
doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh mặt tích cực như đã thấy rõ,
báo cáo của một số ban ngành liên quan cũng như phản ánh của các phương tiện thông
tin đại chúng cho thấy rằng trong lĩnh vực hoạt động thị trường chứng khoán hiện nay
đã xuất hiện nhiều hành vi vi phạm xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của các nhà đầu
tư, các doanh nghiệp cũng như hoạt động bình thường của thị trường chứng khoán như
nội gián, cung cấp thông tin thiếu khách quan, thao túng giá cả trong hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Điều đó đã làm cho hoạt động này thiếu tính minh bạch và sự hấp
dẫn để thu hút các nhà đầu tư vào thị trường mới manh nha này.. Để điều chỉnh các
hoạt động của thị trường chứng khoán, Quốc hội đã ban hành Luật Chứng khoán số
70/2006/QH11 ngày 29/6/2006, trong đó, Điều 9 quy định 4 loại hành vi bị cấm trong
lĩnh vực hoạt động chứng khoán. Tiếp đó, ngày 8/3/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 36/2007/NĐ-CP Về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán
và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, quy định cấm và chế tài xử phạt hành chính sẽ
không đủ sức để ngăn ngừa và răn đe đối với những hành vi vi phạm trong hoạt động
chứng khoán gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhà đầu tư, doanh nghiệp cũng như ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thị trường. Vì vậy, Nhóm nghiên cứu đề xuất cần phải hình
sự hóa một số hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán xảy ra phổ biến trong thực
tiễn và gây hậu quả nghiêm trọng như công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán; sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán hoặc
hành vi thao túng giá chứng khoán.
(4) Sửa đổi yếu tố cấu thành của một số tội phạm
Thực tiễn áp dụng một số quy định tội phạm kinh tế như tội đầu cơ, tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai cho thấy cần phải sửa đổi các yếu tố cấu thành của các
tội phạm này để các cơ quan tiến hành tố tụng không bị bó tay đối với một số hành vi
nguy hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng đến nền kinh tế quốc dân.
Quy định hiện hành tại Điều 160 về tội đầu cơ chỉ trừng trị các hành vi lợi dụng
tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo mua vét hàng hoá có số lượng
lớn nhằm bán lại thu lợi bất chính trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh.
Theo kết quả khảo sát của các cơ quan Toà án, Viện Kiểm sát thì hầu như trong các
năm qua chỉ xét xử rất ít các vụ án về đầu cơ. Tuy nhiên, vừa qua, trong tình hình lạm
17
phát, giá cả nhiều mặt hàng lên xuống thất thường, giá tiêu dùng tăng cao, đã xảy ra
nhiều hành vi lợi dụng tình hình khó khăn về kinh tế, găm hàng hoặc mua với số lượng
lớn, chờ khi giá lên bán ra thu lời lớn, do vậy, một số loại hàng hoá như phân bón, vật
liệu xây dựng, sữa và thuốc chữa bệnh đã bị nâng giá quá mức làm ảnh hưởng đến đời
sống nhân dân. Thực chất, các hành vi này là đầu cơ, tuy nhiên, vì Điều 160 không
quy định nên các cơ quan tiến hành tố tụng đành bó tay với các hành vi này. Vì vậy,
nhóm nghiên cứu cho rằng cần bổ sung yếu tố “hoặc tình hình có khó khăn về kinh tế”
vào cấu thành cơ bản của tội đầu cơ để giải quyết bất cập trên đây.
Trong lĩnh vực quản lý đất đai tình hình vi phạm về quản lý đất đai, cụ thể là
các hành vi của những người lợi dụng chức vụ quyền hạn để giao đất, thu hồi đất, cho
thuê đất trái pháp luật đang có xu hướng gia tăng và nhiều lúc, nhiều nơi xảy ra hết sức
nghiêm trọng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quỹ đất đai là tài sản quý giá của Nhà
nước, đồng thời cũng gây dư luận bức xúc trong nhân dân. Bộ luật hình sự hiện hành
đã có một điều khoản quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều
174), tuy nhiên, trong thực tiễn, các cơ quan tiến hành tố tụng không dễ dàng áp dụng
được điều khoản này để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm quy
định về quản lý đất đai vì theo quy định tại Điều 174 bắt buộc phải có yếu tố “đã bị xử
lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” thì mới có thể truy cứu trách nhiệm hình sự
người lợi dụng chức vụ, quyền hạn có hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai
được. Vì thế, trong nhiều trường hợp, hành vi vi phạm về quản lý đất đai đã gây hậu
quả nghiêm trọng, thậm chí rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, cũng như xâm
phạm đến đất đai có giá trị lớn hoặc diện tích lớn, nếu chưa bị xử lý lỷ luật, thì vẫn
không đưa ra truy cứu trách nhiệm hình sự được. Điều bất cập nói trên đã gây trở ngại
cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng điều khoản này, và như vậy, sẽ làm mất
khả năng răn đe, phòng ngừa của điều luật. Trên cơ sở nghiên cứu các điểm bất cập đó,
Nhóm nghiên cứu đề xuất sửa đổi Điều 174 tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai theo hướng bổ sung thêm hai yếu tố cấu thành cơ bản là “Đất có diện tích lớn hoặc
có giá trị lớn” hoặc “Gây hậu quả nghiêm trọng” để tăng cường tính phòng ngừa, răn
đe đối với các hành vi phạm tội này.
2.2. Hoàn thiện các quy định về tội phạm môi trường
2.2.1. Quy định hiện hành của BLHS về tội phạm môi trường
BLHS 1999 đã dành hẳn một chương riêng (Chương XVII) với 10 điều luật quy
định về tội phạm môi trường. Theo các quy định về tội phạm môi trường nói trên,
chúng ta có thể chia thành 4 nhóm và sắp xếp theo trật tự sau: Nhóm 1- Các hành vi
gây ô nhiễm môi trường (từ Điều 181 đến Điều 185); Nhóm 2 - Các hành vi gây dịch
bệnh cho người và động vật (Điều 186 và Điều 187); Nhóm 3 - Các hành vi huỷ hoại
tài nguyên môi trường (từ Điều 188 và Điều 189); Nhóm 4 - Các hành vi xâm phạm
chế độ bảo vệ đặc biệt đối với một số đối tượng môi trường (Điều 190 và 191). Các
quy định nói trên đã thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước ta trong việc đấu tranh
với những hành vi nguy hiểm xâm phạm đến việc bảo vệ môi trường và nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định hiện hành của BLHS về tội
phạm môi trường, chúng ta thấy còn có những bất cập sau đây :
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định 10 tội phạm về môi trường,
nhưng vẫn chưa điều chỉnh được hết những hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại nghiêm
trọng cho môi trường đã và đang xảy ra.
18
Thứ hai, các yếu tố cấu thành của các tội phạm môi trường còn chung chung,
lại chưa có văn bản nào hướng dẫn áp dụng nên gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử các loại án này. Đặc biệt, việc xác định dấu hiệu “hậu quả” (nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) là hết sức khó khăn. Dấu hiệu “hậu quả” ở
đây rất đa dạng có thể là hậu quả về môi trường, sinh thái, những thiệt hại về vật chất,
... và đối với mỗi thành phần môi trường bị xâm hại lại có tiêu chí khác nhau để đánh
giá mức độ thiệt hại khác nhau. Ví dụ: hậu quả nghiêm trọng ở tội gây ô nhiễm nguồn
nước (Điều 183 BLHS) hoàn toàn khác với hậu quả nghiêm trọng ở tội huỷ hoại nguồn
lợi thuỷ sản (Điều 188 BLHS); hậu quả gây ô nhiễm môi trường thường khó xác định
được ngay sau khi hành vi vi phạm được thực hiện; thiệt hại môi trường khó định
lượng, không thể cân đo, đong đếm được, có loại thiệt hại gián tiếp, tiềm ẩn thường
phải ước lượng, dự đoán, không có những tiêu chí đánh giá thiệt hại chính xác, ... (Ví
dụ Điều 189 Tội huỷ hoại rừng thì gây thiệt hại nghiêm trọng ở đây là với điện tích
bao nhiêu ha đối với rừng phòng hộ? bao nhiêu ha đối với rừng đầu nguồn, rừng ngập
mặn?...; hay Điều 184 Tội gây ô nhiễm đất “người nào chôn vùi hoặc thải vào đất các
chất độc hại quá tiêu chuẩn cho phép, ...” vậy tiêu chuẩn cho phép là bao nhiêu? căn
cứ vào đâu để đánh giá mức chuẩn?...).
Thứ ba, theo quy định hiện hành thì đa số các hành vi vi phạm pháp luật về môi
trường chỉ có thể bị xử lý về hình sự khi chủ thể tiến hành các hành vi đó “đã bị xử
phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định
của cơ quan có thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng”. Việc quy định nhiều điều
kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự như vậy đã thực sự làm cản trở các cơ quan điều
tra, truy tố, xét xử khi thực hiện truy tố các hành vi tội phạm về môi trường và là
nguyên nhân chính của việc hầu hết các quy định này không thể đi vào cuộc sống
được.
2.2.2. Thực trạng áp dụng các quy định về tội phạm môi trường và xu hướng
chung về tội phạm môi trường
2.2.2.1. Thực trạng áp dụng các quy định về tội phạm môi trường
Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao thì trong khoảng thời gian từ 1985 1998, các Tòa án đã thụ lý 1413 vụ với 2942 bị cáo (đã xét xử 1204 vụ với 2390 bị
cáo) vi phạm các Điều 179, 181 và 195 Bộ luật Hình sự 1985. Từ 1/7/1999 - 2002, số
án đã thụ lý là 28 vụ với 56 bị cáo (đã xử 20 vụ với 44 bị cáo) vi phạm các Điều 183,
186, 187, 188, 189 và 190 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Mặc dù có được những kết quả đáng ghi nhận nhưng hoạt động phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm về môi trường vẫn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ những hạn
chế. Những hạn chế chủ yếu được thể hiện qua những mặt sau:
- Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao thì từ năm 1985 đến 1999 chúng ta
chỉ xét xử các vụ vi phạm tại 3 Điều: 195, 179 và 181 của Bộ luật Hình sự 1985 và đến
nay vẫn chưa xử lý hết trong khi đó tội phạm về môi trường đang tăng lên cả về số
lượng và tính chất nguy hiểm. Đây là điều rất đáng lo ngại.
- Mặc dù số lượng vụ án về môi trường được đưa ra truy tố, xét xử đã tăng
nhưng so với tình hình thực tế thì tỷ lệ vẫn còn thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm hiện nay.
2.2.2.2. Xu hướng chung về tội phạm môi trường
19
Kết quả nghiên cứu cho thấy các tội phạm môi trường đang có các xu hướng
phát triển sau :
Thứ nhất, theo đánh giá chung thì tình hình về nhóm tội phạm gây ô nhiễm môi
trường có thể không những không giảm mà còn có chiều hướng gia tăng. Theo dự báo,
tỷ trọng GDP từ khu vực công nghiệp ở nước ta sẽ tăng tới 34% vào năm 2010. Với dự
kiến tăng trưởng công nghiệp như vậy, sự ô nhiễm công nghiệp sẽ trở thành một vấn
đề rất đáng lo ngại. Cường độ độc hại trên quy mô toàn quốc dự tính sẽ tăng lên 3,8
lần sau 10 năm ( 2000-2010), điều này có nghĩa là tỷ lệ tăng ô nhiễm hàng năm sẽ là
14% nếu không có các biện pháp kịp thời để ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm.
Hiện nay, vấn đề sử dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật trong sản
xuất nông nghiệp cũng là vấn đề cần thiết phải có sự quan tâm đúng mức, đặc biệt ở
khu vực nông thôn. Thuốc bảo vệ thực vật được dùng ở Việt Nam từ nhiều năm nay và
số lượng được sử dụng hàng năm vào khoảng 6.500-9000 tấn, chủ yếu là các loại
thuốc có độc tính cao, dễ gây nhiễm độc và chậm phân huỷ trong môi trường như:
DDT, 666 (BHC), Parathion Ethy Polychlorocamphene. Nhiều lô thuốc đã qua hạn
còn tồn đọng trong các kho, nếu không xử lý kịp thời, các lô thuốc này có thể bằng các
con đường khác nhau được sử dụng trở lại, mặt khác do tồn đọng lâu trong các kho sẽ
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng các khu vực xung quanh.
Đáng lo ngại hơn là việc xử lý không đúng kỹ thuật các chất thải công nghiệp
và sinh hoạt khác của người và súc vật, hoặc các xác sinh vật chết (chất thải sinh hoạt
ở khu vực đô thị, chất thải y tế, chất thải lỏng của ngành công nghiệp và của các bệnh
viện), đã dẫn tới tình trạng đất bị suy thoái và ô nhiễm khá nặng nề. Ô nhiễm đất làm
giảm năng suất và chất lượng cây trồng, huỷ diệt sự sống một số sinh vật trong những
khu vực ô nhiễm nặng, đồng thời còn đe doạ sức khoẻ con người thông qua vật nuôi,
cây trồng, thậm chí gây ra những biến dạng sinh thái và di truyền nặng nề cho hệ sinh
sống.
Thứ hai, tội phạm huỷ hoại các tài nguyên môi trường, vi phạm các chế độ bảo
vệ đặc biệt đối với một số đối tượng môi trường sẽ gia tăng một cách đáng kể và với
mức độ ngày càng nguy hiểm, mang tính chất hủy diệt.
Việt Nam được xem là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về
đa dạng sinh học. Đây là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của nước ta.
Tuy nhiên, thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này và sử dụng một cách hợp lý,
chúng ta đang khai thác một cách quá mức và phí phạm, không những thế nhiều người
còn sử dụng những biện pháp mang tính chất huỷ diệt như các chất độc, kích điện, ...
nhiều loài hiện đã trở nên hiếm, một số loài có nguy cơ diệt vong. Độ che phủ của
rừng Việt Nam đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng rừng ở các vùng còn rừng
đã bị hạ thấp quá mức, rừng bị suy thoái một cách nặng nề và hết sức trầm trọng, ...
Trong cơ chế thị trường thì mục đích lợi nhuận, lợi nhuận siêu ngạch là mục
đích mà bọn buôn lậu, trốn thuế hướng tới. Chính vì vậy, các loại tội phạm về đốt, phá
rừng để lấy gỗ buôn bán trái phép, săn bắt các loại thú quý hiếm để mang đi tiêu thụ
trong nước hoặc xuất khẩu lậu là tình trạng rất đáng lo ngại. Bọn lâm tặc không từ một
thủ đoạn nào để khai thác và khai thác cho được các loại tài nguyên trên, từ thủ đoạn
đưa hối lộ cho tới cả việc chúng sẵn sàng chống trả một cách quyết liệt với các lực
lượng có trách nhiệm trong việc bảo vệ tài nguyên môi trường.
20
Thứ ba, ngày càng xuất hiện nhiều nhóm tội phạm có tổ chức khá chặt chẽ hoạt
động mang tính chất xuyên quốc gia về buôn bán trái phép động vật hoang dã quý
hiếm. Có nhiều khả năng có sự xâm nhập, móc nối của các tổ chức tội phạm quốc tế
vào các hoạt động này.
Thứ tư, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế- xã hội thì một số loại hành
vi nguy hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường đã xảy ra khá phổ biến ở Việt
nam như: hành vi mua bán, tái chế rác thải y tế hoặc rác thải chưa qua xử lý; hành vi vi
phạm các quy định về phòng ngừa sự cố môi trường; hành vi nhập khẩu các loài động
thực vật nguy hại; …
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định hiện hành của BLHS về tội phạm
môi trường
Từ sự phân tích trên đây, Nhóm tác giả có một số đề xuất các kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm về môi trường
như sau:
2.2.3.1. Điều chỉnh cấu thành các tội phạm môi trường theo hướng mở rộng
khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm môi trường cho thấy do các quy
định hiện hành đặt ra quá nhiều điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự như: đã bị
xử phạt hành chính, cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả, gây hậu
quả nghiêm trọng … nên gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi
áp dụng các điều luật này. Đây là nguyên nhân chính làm cho các quy định này không
vào cuộc sống được, làm giảm đáng kể tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với hành vi tội
phạm về môi trường. Vì vậy, trước mắt, Nhóm tác giả cho rằng cần phải loại bỏ các
điều kiện nói trên để mở rộng khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành
vi xâm phạm môi trường, tạo điều kiện tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc khi áp dụng
pháp luật cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
2.2.3.2. Tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường và
bảo đảm sự tương xứng giữa các chế tài của các tội phạm về môi trường.
Nghiên cứu các hình thức trách nhiệm, mức độ trách nhiệm hình sự được quy
định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về môi trường cho thấy,
Nhà nước ta đã thể hiện thái độ trừng trị nghiêm khắc hơn đối với các tội phạm đó so
với Bộ luật Hình sự năm 1985. Tuy vậy, xuất phát từ nhu cầu đấu tranh đối với các tội
phạm này trong giai đoạn hiện nay, thì sự nghiêm khắc đó vẫn chưa thoả đáng.
Mặt khác, việc quy định các loại hình phạt và mức hình phạt đối với các tội
phạm về môi trường trong chương XVII của Bộ luật hình sự hiện hành cũng chưa bảo
đảm sự tương xứng về mức độ nghiêm khắc. Nhóm tác giả cho rằng, cần cân đối lại
mức hình phạt và loại hình phạt áp dụng đối với các tội phạm về môi trường theo
hướng các tội phạm về môi trường có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội tương
đương nhau thì cần quy định những loại và mức hình phạt như nhau.
2.2.3.3. Tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi
trường
Nghiên cứu diễn biến của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
cần được pháp luật hình sự bảo vệ và các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về
các tội phạm môi trường, Nhóm nghiên cứu thấy rằng, việc bảo vệ bằng pháp luật hình
21
sự đối với các quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn chưa đầy đủ, chưa bao
quát hết chiều sâu và chiều rộng của loại quan hệ đang phát triển rất nhanh này. Do
vậy, việc nghiên cứu bổ sung một số tội phạm mới trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là
rất cần thiết. Cụ thể, trước mắt có thể nghiên cứu để bổ sung một số tội danh như: Tội
vi phạm các quy định về phòng ngừa sự cố môi trường; tội vi phạm các quy định về
quản lý các chất thải nguy hiểm cho môi trường; tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại
lai xâm hại3. Về lâu dài, chúng ta có thể nghiên cứu để bổ sung các tội danh như: Tội
phạm về vũ khí sinh học; tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường xung quanh
khi tiến hành sản xuất; tội vi phạm các quy định về an toàn khi tiếp xúc với các độc tố
vi sinh hay độc tố sinh học khác; ....
2.3. Hoàn thiện các quy định về tội phạm chức vụ
2.3.1. Quy định hiện hành của BLHS về các tội phạm chức vụ
2.3.1.1. Về khái niệm tội phạm chức vụ
Theo Điều 277 Bộ luật hình sự, thì các tội phạm về chức vụ là những hành
vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực
hiện trong khi thực hiện công vụ.
Ngoài các tội phạm quy đinh tại Chương XXI Bộ luật hình sự ra, còn nhiều
tội phạm khác quy định ở các Chương khác cũng do người có chức vụ thực hiện
và cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, nhưng lại không
được coi là các tội phạm về chức vụ.
Việc đưa ra một khái niệm về các tội phạm về chức vụ thật chính xác, thật
đặc trưng cho loại tội phạm này về lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề phải
tiếp tục nghiên cứu.
Cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do hành vi phạm tội gây ra bao gồm các cơ
quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, được gọi chung là cơ
quan, tổ chức.
Hành vi xâm phạm đến cơ quan, tổ chức rất đa dạng và phong phú, nhưng
các tội phạm về chức vụ chỉ xâm phạm đến các hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức và cũng chỉ xâm phạm đến một số lĩnh vực chứ không phải xâm
phạm hết tất cả các hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm
thực hiện chức năng và mục đích đã đề ra. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì
cán bộ, công chức phải chí công, vô tư, không được lợi dụng chức vụ để trục lợi,
nhưng trong cơ quan, tổ chức nào đó có cán bộ đã tham ô, nhận hối lộ, hoặc lấy
tiền của cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để đưa hối lộ... là đã xâm phạm
đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đó. Có thể nói, những hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do các tội phạm về chức vụ gây ra,
chính là những quy định của pháp luật hoặc của điều lệ buộc phải làm mà không
làm, cấm không được làm thì lại làm. Những quy định cụ thể này được thể hiện
3
Nhóm nghiên cứu sử dụng thuật ngữ “loài ngoại lai xâm hại” cho phù hợp với thực tiễn cũng như
Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12 ngày 13/11/2008
22
trong từng hành vi phạm tội cụ thể trong từng tội phạm về chức vụ trong chương
này.
Người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao
thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện
công vụ.
Nếu căn cứ vào quy định tại Điều 277 Bộ luật hình sự thì các tội phạm về
chức vụ quy định từ Điều 278 đến Điều 291 Bộ luật hình sự có một số trường hợp
không thoả mãn khái niệm như: tội đưa hối lộ quy định tại Điều 289, tội làm môi
giới hối lộ quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự, không chỉ người có chức vụ
thực hiện mà còn bao gồm cả những người không có chức vụ thực hiện, mặc dù
hành vi của họ cũng xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Như vậy, tên chương và khái niệm các tội phạm về chức vụ không phù hợp
với nội dung của một số tội phạm được quy định trong chương này. Mặt khác, do
yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thì cần thiết phải quy định
một chương các tội phạm về tham nhũng mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay.
2.3.1.2. Về các tội phạm chức vụ cụ thể
Qua nghiên cứu các tội phạm về chức vụ, Nhóm nghiên cứu thấy có các
điểm bất cập như sau:
Thứ nhất, các hành vi tội phạm về tham nhũng quy định tại Mục A Chương
XXI chưa bao quát được hết các hành vi tham nhũng quy định tại Luật phòng,
chống tham nhũng. Theo Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng thì các hành vi
tham nhũng bao gồm:
- Tham ô tài sản;
- Nhận hối lộ;
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi;
- Lạm quyền trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục
lợi;
- Giả mạo trong công tác để vụ lợi;
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ
lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì
vụ lợi;
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
23
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Như vậy, Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định 12 hành vi tham
nhũng, trong đó có hành vi đã được quy định tại mục A - Các tội phạm về tham
nhũng của chương XXI Bộ luật hình sự, có hành vi được quy định trong các tội
phạm khác, tại chương khác của Bộ luật hình sự.
Thứ hai, về các tình tiết là yếu tố định tội cũng như định khung hình phạt
quy định đối với một số tội chưa hợp lý, một số tình tiết rất khó áp dụng. Ví dụ
như: tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” là tình tiết định tội đối với các tội:
tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi
dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh đối với người khác để trục lợi, nhưng nếu “gây
hậu quả nghiêm trọng khác” thì lại là tình tiết định khung hình phạt của chính các
tội phạm đó trong khi khó có thể phân biệt sự khác nhau giữa hậu quả nghiêm
trọng với hậu quả nghiêm trọng khác của cùng một hành vi phạm tội; ...
Mức trị giá tài sản để làm ranh giới phân biệt giữa hành vi phạm tội và
hành vi vi phạm khác cũng không còn phù hợp, vì tình hình kinh tế-xã hội đã khác
nhiều so với cuối thế kỷ 20.
Thứ ba, về khung hình phạt cũng như mức hình phạt đối với các tội phạm
về tham nhũng, nói chung là nghiêm khắc. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
cần phải xem xét lại để quy định khung hình phạt cũng như mức hình phạt cho
phù hợp hơn như: giữa tội tham ô và tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội không có gì khác nhau,
thậm chí tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản còn nghiêm trọng hơn
tội tham ô tài sản, nhưng khung hình phạt và mức hình phạt quy định đối với tội
tham ô nặng hơn đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; giữa
tội nhận hối lộ với tội đưa hối lộ, tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau nhưng
khung hình phạt và mức hình phạt lại như nhau v.v…
2.3.2. Thực trạng áp dụng các quy định về tội phạm chức vụ
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì trong năm 2007, qua công tác thanh
tra đã phát hiện vi phạm với tổng giá trị lên tới hơn 8.000 tỷ đồng và hơn 1 triệu
USD; vi phạm về đất đai hơn 8.700 ha; kiến nghị xử lý hơn 200 tập thể và 2.300
cá nhân có sai phạm; Cơ quan điều tra đã phát hiện trên 580 vụ với hơn 1200 đối
tượng đã gây thiệt hại hơn 865 tỷ đồng; Viện kiểm sát đã truy tố 392 vụ với 1.031
bị can; Toà án đã xét xử 360 vụ với 843 bị cáo. So với năm 2006 thì năm 2007 số
vụ án về tham nhũng tăng nhiều, nhất là đối với tội lạm quyền trong khi thi hành
công vụ tăng hơn 66%; tội nhận hối lộ tăng 23% về số vụ và hơn 67% số bị can.
Các địa phương có án tham nhũng nhiều là các tỉnh Bắc Giang, Thừa Thiên-Huế,
thành phố Hà Nội , Nghệ An, Long An, Bình Thuận, Bắc Ninh, Hoà Bình4…
Thực tiễn xét xử cho thấy, trong các tội phạm về chức vụ mà Toà án các cấp
đã xét xử, thì tội tham ô tài sản là tội phạm chiếm tỷ lệ cao nhất; tiếp đó là tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ; tội đưa hối lộ; tội nhận hối lộ; tội làm môi giới hối lộ;
4
Báo cáo tổng kết của Thanh tra Nhà nước năm 2007
24