Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN một số kinh nghiệm khi dạy nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.07 KB, 30 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẢNG NAM
TRƯỜNG THPT LÊ QUÝ ĐÔN_TAM KỲ

Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi

Năm học 2009-2011

A. Đặt vấn đề:
I. Cơ sở lý luận:
Môn ngữ văn (bao gồm ba phần: Văn học, Tiếng Việt, Làm văn) là
một môn học nền tảng về kiến thức và công cụ giao tiếp, có vị trí
quan trọng trong các môn học, góp phần tạo nên trình độ văn hóa cơ
bản cho học sinh.
Cùng với việc rèn kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng sử dụng tiếng Việt, phần
Làm văn được chú trọng vì đây là phần thể hiện rõ nhất kĩ năng thực
hành, sáng tạo của học sinh.
Làm văn gồm hai dạng: nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
Trong chương trình giảng dạy mới, nghị luận xã hội chiếm tỉ lệ cao
hơn nhiều so với trước đây, nhằm mục đích tăng cường sự gắn bó
của học sinh với đời sống xã hội, tạo cho học sinh năng lực chủ động


đề xuất, phát biểu những suy nghĩ của chính mình trước nhiều vấn
đề trong cuộc sống.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Về phía học sinh:
Nghị luận xã hội đã được học ở cấp trung học cơ sở, nhưng khi phải
trình bày những suy nghĩ, ý kiến cá nhân về các vấn đề tư tưởng đạo
lý, hiện tượng xã hội…thì đa số học sinh rất lúng túng và “sợ” kiểu
bài này.
Nguyên nhân vì sao? Khác với nghị luận văn học, nội dung kiến


thức đã được học trước và thiên về cảm xúc, thì nghị luận xã hội yêu
cầu kiến thức rộng hơn và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập
luận và lý lẽ; chính vì vậy mà kiểu bài này ít gợi được sự hứng thú ở
học sinh.
Thật ra ở sách giáo khoa và sách giáo viên đều có phần hướng dẫn
phương pháp làm bài khá cụ thể. Nhưng dù có áp dụng theo cách
hướng dẫn làm bài ấy, nhiều học sinh cũng thấy rất khó khăn khi
viết - viết mươi dòng đã hết ý! Đó là vì các em thiếu một phần vô
cùng quan trọng: Kiến thức văn hóa và Vốn sống. Vậy kiến thức này
lấy ở đâu? Điều này phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng tự học, tự
đọc, tự thu thập kiến thức của học sinh.
Ngày nay, với các phương tiện hiện đại thì việc truy cập thông tin là
điều đơn giản, nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại_học sinh rất
nghèo vốn kiến thức xã hội, văn hóa.
Vì vậy, học sinh cần phải được giáo viên định hướng, nắm bắt
những kiến thức cơ bản để làm tốt văn nghị luận xã hội.
2. Về phía giáo viên:
Việc cung cấp kiến thức cho học sinh là điều rất khó vì số tiết quy
định trong chương trình có giới hạn.
Tư liệu về nghị luận xã hội không phong phú như nghị luận văn học
nên cũng ít thuận lợi trong việc soạn giảng.
Từ những thực tế trên, tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm cá nhân
khi dạy nghị luận xã hội để đồng nghiệp tham khảo.
B. Nội dung nghiên cứu: gồm hai phần


-Phần I: Những kiến thức cơ bản để làm văn nghị luận xã
hội.
-Phần II: Các thao tác cơ bản của nghị luận xã hội.
Các dạng nghị luận xã hội.

Một số đề tham khảo.

*
*

*

Phần I. Những kiến thức cơ bản để làm văn nghị
luận xã hội
Đây là những kiến thức giúp các em làm tốt văn nghị luận xã hội.
Tùy theo yêu cầu cụ thể của từng đề bài, giáo viên sẽ có sự ứng dụng
linh hoạt. Riêng với chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên
có điều kiện thời gian thuận lợi để đi sâu, rộng hơn ở từng đơn vị
kiến thức.
1. Những khái niệm cơ bản:
a. Xã hội:
Hiểu theo nghĩa rộng, xã hội là hình thái sinh hoạt cuả cộng đồng
loài người. Hình thái xã hội luôn luôn phát triển, gắn với sự phát
triển của loài người.
Marx đã định nghĩa : “Xã hội – bất cứ hình thức nào cũng là kết quả
của sự tác động lẫn nhau giữa người và người”. Như vậy, xã hội do
cộng đồng ngươì hình thành, và sự tác động lẫn nhau giữa cộng
đồng này sinh ra sự phát triển xã hội. Trong lịch sử , cộng đồng
người đã phát triển từ thị tộc, bộ lạc, bộ tộc đến dân tộc.
Hiểu theo nghĩa hẹp, cộng đồng xã hội chính là những cộng đồng
nghề nghiệp chính trị, tôn giáo, văn hóa…trong phạm vi một lãnh
thổ quốc gia.


b. Chính trị :

Ngày nay, chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các
mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc mà cốt lõi của nó là
vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự
tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. (Từ điển bách khoa
Việt Nam).
c. Bản sắc văn hóa:
Bản sắc văn hóa là cái riêng, cái độc đáo mang tính bền vững và tích
cực của một cộng đồng văn hóa.
Văn hoá Việt có bản sắc riêng trong mối quan hệ với các nền văn
hóa khác. Bản sắc này hình thành từ chính thực tế địa lý, lịch sử,
đời sống cộng đồng của người Việt và quá trình giao lưu, tiếp xúc,
tiếp nhận, biến đổi các giá trị văn hóa của một số nền văn hóa khác
(Trung Hoa, Ấn Độ).
Văn hóa Việt giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự hài hòa trên
mọi phương diện (tôn giáo, nghệ thuật, ứng xử, sinh hoạt)
d. Môi trường:
Hiện nay thế giới đang đứng trước một loạt khó khăn, trong đó có 5
cuộc khủng hoảng lớn là dân số. lương thực, năng lượng, tài nguyên
và sinh thái. Năm cuộc khủng hoảng lớn này đều liên quan rất chặt
chẽ với môi trường.
Nói một cách đơn giản, môi trường là tất cả mọi thứ xung quanh
chúng ta.
Môi trường tự nhiên là tổng thể các nhân tố tự nhiên như: bầu khí
quyển, nước, thực phẩm, động vật, thổ nhưỡng, nham thạch, khoáng
sản, bức xạ mặt trời…
Môi trường nhân tạo là hệ thống môi trường được tạo ra do con
người lợi dụng tự nhiên, cải tạo tự nhiên.
Vì môi trường nhân tạo được sáng tạo và phát triển trên cơ sở môi
trường tự nhiên nên môi trường nhân tạo bị môi trường tự nhiên chi

phối, và ngược lại, nó cũng ảnh hưởng nhiều tới môi trường tự
nhiên.
2. Mối quan hệ giữa con người với cuộc sống:


a. Quan hệ với thế giới tự nhiên:
Ngươi Việt Nam yêu thiên nhiên, yêu những thắng cảnh hùng vĩ, mĩ
lệ của non sông đất nước và cũng yêu cảnh vật gần gũi, thân quen
trong cuộc sống hàng ngày (cây cỏ, hoa lá, chim muông…). Đó là
cội nguồn của tình yêu quê hương đất nước.
b. Quan hệ với quốc gia, dân tộc:
Đặc diểm cơ bản của dân tộc Việt Nam là cuộc đấu tranh gần như
liên tục và quyết liệt để giành độc lập và bảo vệ độc lập. Người Việt
Nam giàu lòng yêu nước, tự hào dân tộc, sẵn sàng xả thân để bảo vệ
độc lập tự do dân tộc; quá khứ anh hùng thêm sức mạnh cho hiện tại.
Ngày nay, giặc ngoại xâm không còn nhưng tinh thần đấu tranh của
dân tộc vẫn được phát huy để chống cái ác, cái xấu, cái tiêu cực…
c. Quan hệ với xã hội:
Người Việt yêu hòa bình, chuộng công lý, tôn trọng những giá
trị nhân văn. Tư tưởng nhân đạo bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo
của người Việt, chịu ảnh hưởng những giá trị nhân văn tích cực của
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo; biểu hiện qua lối sống “thương người
như thể thương thân”; qua những nguyên tắc đạo lý, thái độ ứng xử
tốt đẹp giữa người với người, khẳng định quyền sống quyền hạnh
phúc; lên án những thế lực tàn bạo; đề cao phẩm chất tài năng của
con người.
d. Quan hệ với bản thân:
Giàu lòng nhân ái, coi trọng tình nghĩa, yêu gia đình, làng xóm,
quê hương; sống theo đao lý làm người mang tính truyền thống của
dân tộc, hướng thiện, giàu tinh thần lạc quan.

3. Các nguồn tư tưởng khác:
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo là những tôn giáo có ảnh hường mạnh
nhất đến văn hóa truyền thống và đời sống của người Việt Nam từ
xưa đến nay.
Phần này chúng ta chỉ đề cập đến những vấn đề mang tính ảnh
hưởng chứ không đi sâu tìm hiểu về cội nguồn hoặc lịch sử phát
triển của các tôn giáo này.
Học sinh cần nắm một số kiến thức cơ bản, để khi gặp những đề bài
có liên quan các em sẽ làm bài đúng hướng và sâu sắc hơn. (Ví dụ:


Thế nào là “tiên học lễ, hậu học văn”?, “Công, dung, ngôn, hạnh”
có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống hiện đại?, Ý kiến của anh,
chị về quan niệm “đời là bể khổ”. “Cần, kiệm, liêm, sỉ” là gì?
Những đức tính ấy có còn giá trị với con người hiện đại?...)
a. Nho giáo:
Khái lược những tư tưởng về luân lý, đạo đức liên quan dến đời sống
thực tế của con người trong xã hội mà người đời thường gọi là lễ
giáo, Nho phong…
Dù ở thời hiện đại nhưng trong quan hệ giữa người với người,
những quan niệm nhân sinh của Nho giáo như : Nhân, lễ, nghĩa, trí,
tín, đạo cha con, tình thầy trò…vẫn còn có ý nghiã tích cực .
*Những khái niệm cơ bản :
-Tam cương: ba giềng mối kết hợp cá nhân để tạo nên một xã hội
có trật tự. Đó là:
+Quân thần cương: Vua phải xứng đáng làm giềng mối để muôn dân
nương tựa. Bề tôi (dân chúng) phải trung thành với vua.
+Phụ tử cương: Đạo cha con: cha phải xứng đáng để con cái nương
tựa; con cái phải hiếu thảo với mẹ cha.
+Phu thê cương: Đạo vợ chồng. Người chồng phải xứng đáng để vợ

nương tựa, Vợ có bổn phận phải chung thủy với chồng.
-Ngũ luân: năm cách ăn ở cho hợp với nhân luân, tức đạo làm
người:
+Vua tôi: Vua hiền, tôi trung.
+Cha-con: Cha từ, con hiếu.
+Vợ- chồng: Chồng xướng, vợ tùy.
+Anh-em: Anh nhường, em kính.
+Bằng hữu: Tin nhau, giúp nhau.
-Ngũ thường: năm đức tính thiết yếu hằng ngày mà mỗi cá nhân
phải trau dồi để thực hiện tốt trong cuộc sống. Đó là:


+Nhân: Yếu tố cơ bản của tình cảm. Đó không chỉ là lòng thương
người, thương mình, khoan dung độ lượng mà còn là đạo làm người.
+Nghĩa: Cư xử cho đúng phép với tất cả mọi người. Trong hành xử,
nghĩa thường kèm theo lợi, bởi vậy mà cần suy nghĩ chín chắn, chọn
cái nghĩa làm đầu.
+Lễ: Sự cúng tế và tôn kính trời-thần, và cũng là nghi thức phải áp
dụng khi giao tiếp với người khác.
+Trí: Dùng sự hiểu biết và kinh nghiệm để xét người, xét sự vật
trước khi hành xử.
+Tín: Thành thật với mình, với người để gây được lòng tin ở người
khác.
-Tam tòng: Ba điều phải theo:
+Tại gia tòng phụ: Khi còn ở nhà, phải theo sự dạy dỗ của cha mẹ.
+Xuất giá tòng phu: Khi lấy chồng, phải làm tròn nhiệm vụ của
người vợ.
+Phu tử tòng tử: Chồng chết thì phải thủ tiết nuôi con để giữ gìn
phẩm hạnh cho mình và cho con.


-Tứ đức: Bốn đức tính cần học cho thuần thục lúc còn ở nhà với
cha mẹ để chuẩn bị đi lấy chồng:
+Công: Khéo léo trong công việc nội trợ
+Dung: Vẻ mặt hiền hậu, dịu dàng.
+Ngôn: Nói năng nhỏ nhẹ, nghiêm trang.
+Hạnh: Tính tình thuần hậu, kín đáo.
b. Đạo giáo :
Cũng như Nho giáo, Đạo giáo là nguồn tư tưởng lớn ảnh hưởng đến
đời sống người Việt xưa, đặc biệt là tầng lớp trí thức trung đại.
Đạo giáo cao siêu, thâm viễn; giáo viên chỉ cần nói khái lược về
thuyết vô vi, lối hành xử đúng theo bản tính tự nhiên, sống theo chân


tính tự nhiên của con người; thú tiêu dao, an nhiên tự tại, biết đủ,
không tranh giành, xong việc thì rút lui, lấy đức báo oán, yêu tất cả
mọi người, không nô lệ dục vọng…
Chử Đồng Tử được coi là ông tổ của Đạo giáo Việt Nam nên còn
gọi là Chử Tổ Đạo.
c. Phật giáo:
Dù được du nhập vào nước ta sau Nho giáo và Đạo giáo nhưng Phật
giáo lại ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của người dân bởi sức hòa
đồng, hướng thiện, phù hợp với tinh thần người Việt.
Giáo lý Phật giáo có sức mạnh vô hình ngăn chặn những hành động
xấu xa, có hại cho con người, cho xã hội. Đó là: quan niệm nhân
quả, nghiệp báo, ác giả ác báo; khuyến thiện, tránh ác, giữ tâm trong
sạch; từ bi cứu khổ, yêu thương đồng loại, giàu lòng vị tha…
*
* *

Phần II:

1. CÁC THAO TÁC CƠ BẢN
a/ Giải thích:
+ Yêu cầu đặt ra:
Đi sâu vào những phát ngôn rất súc tích để tìm hiểu và lý giải nội
dung ý nghĩa bên trong. Tức là ta phải làm sáng tỏ, giảng giải, bóc
tách vấn đề cho người đọc hiểu được thấu đáo cái đang được đề cập
khi chúng còn đang mơ hồ.
+ Công việc cụ thể:
Để làm sáng tỏ vấn đề, ta phải đi vào lý giải từ ngữ, điển tích, khái
niệm, đi vào nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng, đi
vào những cách nói tế nhị bóng bẩy để hiểu được đến nơi đến chốn
điều người ta muốn và cái lẽ khiến người ta nói như vậy.
Trong thao tác giải thích, ta vừa dùng lý lẽ để phân tích, lý giải là
chủ yếu; vừa dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, xác lập một
cách hiểu đúng đắn, sâu sắc có tính biện chứng nhằm chống lại cách
hiểu sai, hiểu không đầy đủ, không hết ý.
Bước kết thúc của thao tác giải thích là rút ra điều chúng ta cần vận
dụng khi đã tìm hiểu được chân lý. Phương hướng để vận dụng


những chân lý này vào cuộc sống hàng ngày, tuỳ theo cho cá thể hay
cho cộng đồng mà có hướng vận dụng phù hợp, và mỗi chúng ta
phải như thế nào?
=> Từ những điều nói trên, ta rút ra một sơ đồ tổng quát theo ba
bước:
- Làm sáng tỏ điều mà người ta muốn nói.(giải thích)
- Trả lời vì sao người ta đã nói như vậy?(tại sao?)
- Từ chân lý được nói lên, rút ra bài học gì trong thực tiễn?(để làm
gì)
b/Chứng minh:

+ Yêu cầu đặt ra:
Làm sáng tỏ chân lý bằng các dẫn chứng và lý lẽ. Khi ta đã chấp
nhận cái chân lý thể hiện trong một phát ngôn nào đó, nhiệm vụ là ta
sẽ phải thuyết phục người khác cũng chấp nhận như mình = những
dẫn chứng rút ra từ thực tế cuộc sống xưa và nay, từ lịc sử, từ văn
học (nếu đề yêu cầu) và kèm theo dẫn chứng là những lý lẽ dẫn dắt,
phân tích tạo ra lập luận vững chắc, mang đến niềm tin cho người
đọc.
+ Công việc cụ thể:
Bước đầu tiên là phải tìm hiểu điều cần phải chứng minh , không
những chỉ bản thân mình hiểu, mà còn phải làm cho người khác
thống nhất, đồng tình với mình cách hiểu đúng nhất.
Tiếp theo là việc lựa chọn dẫn chứng. Từ thực tế cuộc sống rộng lớn,
tư liệu lịch sử rất phong phú, ta phải tìm & lựa chọn từ trong đó
những dẫn chứng xác đáng nhất, tiêu biểu, toàn diện nhất (nên chỉ
cần vài ba cái để làm sáng tỏ điều cần CM). Dẫn chứng phải thật sát
với điều đang muốn làm sáng tỏ và kèm theo dẫn chứng phải có lý lẽ
phân tích - chỉ ra những nét, những điểm ta cần làm nổi bật trong các
dẫn chứng kia. Để dẫn chứng và lý lẽ có sức thuyết phục cao, ta phải
sắp xếp chúng -> một hệ thống mạch lạc và chặt chẽ: theo trình tự
thời gian, không gian, từ xưa đến nay, từ xa đến gần, từ ngoài vào
trong hoặc ngược lại...miễn sao hợp logic.
Bước kết thúc vẫn là bước vận dụng, đặt vấn đề vào thực tiễn cuộc
sống hôm nay để đề xuất phương hướng nỗ lực. Chân lý chỉ giá trị
khi soi rọi cho ta sống, làm việc tốt hơn. Ta cần tránh công thức và
rút ra kết luận cho thoả đáng, thích hợp với từng người, hoàn cảnh,
sự việc.
=> Từ những điều nói trên, ta rút ra một sơ đồ tổng quát theo ba
bước:
- Làm rõ điều cần chứng minh trong luận đề được nêu lên.

- Lần lượt đưa ra các dẫn chứng và lý lẽ để làm sáng tỏ điều cần
chứng minh.
- Rút ra kết luận về phương hướng nỗ lực.


c/Bình luận:
Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải
thích lẫn chứng minh. Nên những yêu cầu của giải thích và chứng
minh cũng là yêu cầu đối với văn bình luận, nhưng giải thích và
chứng minh sẽ được viết cô đọng, ngắn gọn hơn so với chỉ một thao
tác chứng minh hoặc giải thích để tập trung cho phần việc quan
trọng nhất là bình luận - phần mở rộng vấn đề.
Trước khi bình luận, ta thường phải bày tỏ thái độ, để khách quan và
tránh phiến diện, ta phải xem xét kĩ luận đề để từ đó có thái độ đúng
đắn, có ba khả năng:
- Hoàn toàn nhất trí.
- Chỉ nhất trí một phần. (có giới hạn, có điều kiện)
- Không chấp nhận. (bác bỏ)
Sau đó, ta bình luận - mở rộng lời bàn để vấn đề được nhìn nhận sâu
hơn, toàn diện hơn, triệt để hơn.
Cuối cùng, ta lại chỉ ra phương hướng vận dụng để đưa lý luận vào
áp dụng thực tế cuộc sống.

2. CÁC DẠNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:
a. Dạng nghị luận về một tư tưởng, đaọ lý:
a1. Đề tài:
- Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống..)
- Về tâm hồn, tính cách ( lòng yêu nước, lòng nhân ái, tính khiêm
tốn..)
- Về quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em…)

- Về quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn…)
a2. Cấu trúc triển khai tổng quát:
- Giới thiệu tư tưởng, đạo lý cần nghị luận.
- Giải thích tư tưởng, đạo lý cần bàn luận (từ ngữ, khái niệm,
nghĩa đen, nghĩa bóng…)
- Bàn luận về tư tưởng đạo lý.
+ Phân tích những mặt đúng,


+ Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn
luận.
(dẫn chứng từ đời sống và văn học)
- Rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lý.
a3. Một số đề tham khảo:
ĐỀ 1:
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh (chị) về quan
niệm sau:
“Hỏi một câu chỉ dốt trong một lát. Không hỏi sẽ dốt suốt cuộc đời”.
(Danh ngôn phương Tây – Dẫn theo Từ điển danh ngôn của Nguyễn
Nhật Hoài và Vũ Tiến Quỳnh)
*Các ý chính:
1. Giải thích:
-Nội dung câu danh ngôn đề cập đến vấn đề nhận thức, hỏi hay
không hỏi khi bản thân mỗi người gặp phải những vấn đề nan giải.
-Có thể khi ta hỏi, ta có khả năng bị cho là chưa đủ trình độ để
giải đáp sự việc, thậm chí bị xem là dốt, nhưng đó chỉ là cái dốt
trong thoáng chốc vì ngay sau đó ta đã có được câu giải đáp đầy đủ
về vấn đề.
-Nếu sĩ diện không hỏi, sự thiếu thông suốt về vấn đề sẽ đeo đẳng ta,
có khi là suốt cả một đời.

2. Bàn luận về quan niệm:
-Hỏi là một nhu cầu tất yếu của mỗi người khi gặp phải vấn đề chưa
thật rõ hoặc vượt qúa nhận thức của mình.
-Mục đích của việc hỏi là để được biết, được giỏi hơn. Việc hỏi để
được hiểu biết và nâng cao nhận thức cần được xem là một việc bình
thường và cần thiết vì những điều ta biết là rất có giới hạn.
-Quan niệm cho rằng khi mình hỏi ai đó một vấn đề gì sẽ bị người
khác cho là trình độ của mình còn thấp kém là một quan niệm không
đúng cả về mặt khoa học lẫn nhận thức.


3. Bài học nhận thức và hành động:
-Câu danh ngôn giúp mỗi người nhận thức thêm về vấn đề cần trao
đổi để nâng cao kiến thức.
-Việc học trong và ngoài nhà trường cần được bổ sung liên tục bằng
việc mọi người trao đổi với nhau những điều mình chưa rõ để tất cả
cùng rõ.
ĐỀ 2:
Hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh, chị về quan
niệm của Domat:
“Có ba điều để tạo nên hạnh phúc: đó là một thân thể khỏe mạnh,
một tinh thần minh mẫn và một trái tim trong sạch.”
*Các ý chính:
1. Giải thích:
-Ba yếu tố cần có để tạo nên cuộc sống hạnh phúc cho một con
người: sức khỏe (ăn ngon, ngủ yên, hưởng thụ, …) ; tinh thần khỏe
khoắn, sáng suốt giúp con người hoàn thành tốt công việc, góp phần
làm nên sự thành công ; trái tim _ tâm hồn trong sáng, trong sạch thì
thể xác và tinh thần mới yên ổn, an lạc.
2. Bàn luận về quan niệm:

-Quan niệm của Domat là đúng đắn ; khó lòng mà hạnh phúc nếu
cơ thể ôm đau, tinh thần thiếu sáng suốt.
- Những quan niệm cho rằng có đầy đủ vật chất sẽ có hạnh phúc
hoặc chỉ cần có thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn là đã có
hạnh phúc… là những quan niệm chưa thỏa đáng. Tất nhiên, vẫn có
thể nêu thêm một vài yếu tố có khả năng dẫn con người đến hạnh
phúc nhưng cần hiểu rằng quan niệm được dẫn trên là một quan
niệm hợp lý và tích cực.
3. Bài học nhận thức và hành động:
Phải biết giữ gìn sự lành mạnh cho cả thể xác, tinh thần, tâm hồn
thì mới có được hạnh phúc.
ĐỀ 3:


Nhà văn Nam Cao có lần đã gửi gắm suy nghĩ của mình về hạnh
phúc trong truyện ngắn của ông như sau:
“Hạnh phúc là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị
hở”
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về quan điểm trên của nhà văn
Nam Cao.
*Các ý chính:
1. Giải thích quan niệm:
-Hạnh phúc có thể xem như là một cái chăn có khả năng mang lại
sự ấm áp, sự yên ấm cho con người (cách nói ví von).
-Hạnh phúc ở đời thường có giới hạn (quá hẹp).
-Khó có hạnh phúc cùng một lúc cho tất cả mọi người, vì nếu người
này giành thật nhiều hạnh phúc về phần mình (người này co)
thì sẽ có người thiếu hụt hạnh phúc (người kia bị hở)
2. Bàn luận về quan niệm
-Quan niệm trên của Nam Cao là một quan niệm tuy chua chát

nhưng không phải là không sát với thực tế đời sống.
-Có hai loại người giành hạnh phúc về phần mình (kéo tấm chăn
hạnh phúc): loại người do vô tình, vô tâm và loại người ích kỉ, tham
lam.
-Trong thực tế học tập và trong thực tế đời sống, không nên giành tất
cả những thuận lợi về phía mình, đẩy bạn bè và người xung quanh
vào cảnh thiếu hụt, bất hạnh.
-Vẫn có những người sẵn sàng nhường tấm chăn hạnh phúc cho
những người khốn khó và lạnh lẽo hơn mình. Đó là những người vị
tha, nhân hậu.
3. Bài học nhận thức và hành động:
-Quan niệm của Nam Cao góp phần nhắc nhở những ai chỉ nghĩ đến
hạnh phúc của mình mà không quan tâm đến hạnh phúc của người
khác.


-Nên sống theo cách biết quan tâm đến hạnh phúc của người khác
và biết san sẻ với người khác những hạnh phúc của mình.
ĐỀ 4:
Nêu suy nghĩ cùa anh (chị) về câu ngạn ngữ Hi Lạp:
“Học vấn có những chùm rễ đắng cay, nhưng hoa quả lại ngọt
ngào”.
*Các ý chính:
1. Giải thích câu ngạn ngữ
Học vấn là sự hiểu biết do học tập mà có; là quá trình con người thu
nhận kiến thức từ nhà trường, thầy cô, sách vở, bạn bè …
- Chùm rễ đắng cay: hiểu theo nghĩa rộng: trên con đường học tập,
chúng ta phải đầu tư công sức, thời gian, tiền bạc, phải vượt qua rất
nhiều khó khăn, gian nan, mà không phải lúc nào kết quả cũng tốt
đẹp.

- Hoa quả ngọt ngào: những thành quả tốt đẹp sẽ đạt được sau một
quá trình dài nỗ lực học tập. Có học vấn con người mới có điều kiện
làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân mình.
2. Luận bàn về kinh nghiệm học tập và giá trị của học vấn
-Học vấn là con đường tiếp thu kiến thức của nhân loại, để học tập
có hiệu quả chúng ta phải đầu tư công sức, tiền bạc, thời gian…
-Trong đó, sự nỗ lực của bản thân là điều quan trọng. Sự nỗ lực đó
thể hiện nghị lực và quyết tâm cao của người học trong việc vượt lên
hoàn cảnh, thử thách.
- Chúng ta sẽ gặt hái những thành công tốt đẹp – không chỉ cho bản
thân ta mà còn góp phần làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn
- Tuy nhiên, hoa quả của học vấn không chỉ là sự giàu sang, địa
vị xã hội mà là sự hiểu biết cái Chân, Thiện, Mĩ để hoàn thiện nhân
cách, đạo đức con người
(Làm sáng tỏ tư tưởng trên bằng việc phân tích một số ví dụ lấy từ
các tấm gương học tập, phấn đấu và rèn luyện gian khổ để có được
những vinh quang cao quý…)


3. Bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức và hành động của bản thân trong học tập và cuộc sống.
ĐỀ 5:
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về quan niệm sau của Shakespeare:
“Ước mong mà không kèm theo hành động thì dù hy vọng có
cánh cũng không bao giờ bay tới mục đích”.
*Các ý chính:
1. Giải thích quan niệm:
-Ước mong là những mong muốn, ước mơ về những điều tốt đẹp
trong tương lai. Người ta sống ai cũng mong muốn về những điều tốt
đẹp cho mình (trong thực tế vẫn có những ước mong không chính

đáng, ta quan niệm rằng đó chỉ là những dục vọng thấp hèn). Nhưng
từ hiện thực của đời sống đến hiện thực cần vươn tới để đạt được
trong tương lai là một khoảng cách. Nó là cả một đường bay dài –
hiểu theo cách nói Shakespeare.
-Ước mong phải đi đôi với hành động, Nếu ước mong mà không
thực hiện bằng những việc làm cụ thể thì cuối cùng ước mong đó
cũng chỉ là mong ước. Shakespeare rất có ý thức nhấn mạnh vai
trò của hành động trong việc hiện thực hóa ước mơ của con người.
Chỉ bằng hành động ta mới đạt được những gì mình cần đạt tới.
2. Suy nghĩ về quan niệm:
-Quan niệm trên là một quan niệm đúng đắn. Thực tế cho thấy
chẳng mấy ai hoàn thành sở nguyện của mình khi cứ ngồi mong ước
suông. Những người thành đạt trong đời luôn làm việc, luôn hành
động.
-Hành động luôn cần thiết đối với tất cả mọi người – nhất là những
hành động mang tính định hướng. Không phải có hành động là sẽ có
thành công nhưng muốn thành công thì phải hành động. Hành động
hợp lý sẽ rút ngắn con đường đến đích. Nếu ngược lại, con đường ấy
sẽ kéo dài thêm ra.
-Hành động có thể dẫn đến thành công hay thất bại song điều quan
trọng là phải biết rút ra những bài học kinh nghiệm từ những thành
công hay thất bại đó.


-Ước mong phải phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của mỗi người.
Ước mong xa vời, thiếu thực tế thì dù có cố gắng đến mấy cũng khó
mà đạt được.
-Nếu ai đó trong đời thường bất chấp tất cả nhằm thỏa mãn ước
mong của mình thì đó là một sai lầm lớn.
3. Bài học nhận thức và hành động:

-Quan niệm của Shakespeare góp phần nhắc nhở những ai chỉ
biết ước mong mà không chịu hành động.
-Ở một góc độ khác, có thể xem quan niệm trên là lời tán thành,
biểu dương những con ngươì luôn làm việc không ngừng để đạt
được ước mong của mình.
b. DẠNG NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG:
b1. Đề tài:
- Môi trường (hiện tượng Trái đất nóng lên, thiên tai, ô nhiễm…)
- Ứng xử văn hóa (lời cám ơn, lời xin lỗi, cách nói năng nơi công
cộng…)
- Hiện tượng tiêu cực (nghiện thuốc lá, bạo lực gia đình, học sinh
đánh nhau trong trường học…)
- Hiện tượng tích cực (hiến máu nhân đạo, chương trình mùa hè
xanh, xây nhà tình nghiã, người tốt việc tốt…)
b2. Cấu trúc triển khai tổng quát:
- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Nêu rõ hiện tượng.
- Bàn luận về hiện tượng.
+ Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng.
+ Phân tích mặt đúng, sai, lợi, hại
(Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh)
- Bày tỏ thái độ, ý kiến của bản thân về hiện tượng trên


b3. Một số đề tham khảo:

ĐỀ 1:
Anh (chị) nghĩ gì về hiện tượng một số người chọn cách sống chỉ
luôn ngồi trông chờ may mắn đến với mình?


*Các ý chính:
1.Nêu hiện tượng:
+ Trong xã hội ngày nay, có hiện tượng là một số người đã chọn
cho mình cách sống chỉ luôn ngồi trông chờ may mắn đến với mình.
Họ lấy điều đó làm chính cho cuộc đời mình, thay cho việc ra sức
học tập và làm việc.
2. Bàn luận về hiện tượng:
- Nêu nguyên nhân và phân tích các mặt đúng – sai:
+Sở dĩ có hiện tượng đó là vì đã là con người, ai cũng mong may
mắn, thuận lợi đến với mình, Chờ đợi may mắn đến với mình là một
tâm lí chung của mọi người bởi cuộc đời luôn ẩn chứa những bất
trắc không lường hết được.
+Tâm lý trông chờ may mắn cũng có mặt tích cực của nó.
Nó có thể duy trì trong mỗi người niềm vui, niềm hi vọng để sống.
+Nhưng nếu chỉ thụ động trông chờ may mắn thì dễ thất bại (vì
may mắn là một yếu tố ở bên ngoài ta, không phụ thuộc vào ý chí và
mong đợi của ta; may mắn cũng không thể luôn đến với ta; và cũng
bởi một mình sự may mắn không thể dẫn đến thành công.)
3.Bày tỏ thái độ , ý kiến về hiện tượng xã hội đó:
+Tôn trọng ước muốn đợi chờ sự may mắn của một số người quanh
ta nhưng phải cần thấy hiện tượng chỉ trông chờ vào may mắn là một
hiện tượng mang tính phiêu lưu, xác suất rủi ro rất cao.
+Nên chăng vẫn chờ đợi sự may mắn đến với cuộc đời mỗi người,
nhưng phải hết sức phấn đấu, nỗ lực trong học tập và trong công
việc. Bởi chính những nỗ lực đó sẽ giúp mỗi người thành công.


+Xét về mức độ may mắn thì càng làm việc càng tạo ra những
cơ hội để may mắn có điền kiện đến với ta nhiều hơn.
ĐỀ 2: (đề thi tuyển sinh đại học năm 2010 khối C)

Như một thứ a-xit vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân
có thể ăn mòn cả một xã hội.
Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy
nghĩ của mình về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của
con người trong cuộc sống hiện nay.
*Các ý chính:
1. Giải thích ý kiến:
- Về nội dung, ý kiến này đề cập đến mối nguy hại ngấm ngầm rất
cần cảnh giác của thói vô trách nhiệm; nó xuất phát từ mỗi cá nhân
nhưng lại gây hậu quả to lớn đối với toàn xã hội.
-Về thực chất, ý kiến này là sự cảnh báo về một vấn nạn đạo đức
mang tính thời sự: thói vô trách nhiệm và hậu quả khôn lường của
nó.
2. Luận bàn về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của
con người:
-Tình thần trách nhiệm:
+ Tinh thần trách nhiệm là ý thức và nỗ lực nhằm hoàn thành tốt
những phận sự của mình. Nó được biểu hiện cụ thể, sống động trong
ba mối quan hệ cơ bản : giữa cá nhân với gia đình, cá nhân với toàn
xã hội và các nhân với bản thân mình.
+ Tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất cao đẹp, một thước đo
giá trị con người; là cơ sở để xây dựng hạnh phúc của mỗi gia đình;
đồng thời tinh thần trách nhiệm cũng góp phần quan trọng tạo nên
quan hệ xã hội tốt đẹp, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
-Thói vô trách nhiệm
+ Thói vô trách nhiệm là một sự biểu hiện của lối sống phi đạo đức,
thể hiện ý thức và hành động không làm tròn phận sự của mình đối
với xã hội, gia đình và bản thân, gây nên những hậu quả tiêu cực.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, lối sống ấy đang khá
phổ biến, trở thành một vấn nạn trong xã hội.



+ Tác hại của thói vô trách nhiệm: làm băng hoại đạo đức của con
người; gây tổn hại hạnh phúc gia đình; gây tổn thất cho cộng đồng,
kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội.
3. Bài học nhận thức và hành động:
-Bản thân cần nhận thức sâu sắc tinh thần trách nhiệm là thước đo
phẩm giá con người; không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm của
mình trong mọi lĩnh vực đời sống.
-Cần ý thức rõ tác hại và có thái độ kiên quyết đấu tranh với
mọi biểu hiện của thói vô trách nhiệm trong xã hội.
ĐỀ 3: (đề thi tuyển sinh đại học năm 2010 khối D)
Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào
nhoáng.
*Các ý chính:
1. Giải thích ý kiến:
-Đạo đức giả là cách ứng xử giả tạo, dùng vỏ đạo đức bên ngoài
nhằm che đậy bản chất vô đạo đức bên trong.
-Về thực chất, đạo đức giả là lối sống giả dối, vì thế nó nguy hại
như một căn bệnh chết người nhưng khó nhận biết.
2. Luận bàn về sự nguy hại của căn bệnh đạo đức giả:
-Những biểu hiện của bệnh đạo đức giả
+ Dùng những lời nói hay ho, đẹp đẽ bên ngoài để che đậy
ý nghĩ đen tối và tình cảm thấp hèn bên trong.
+ Dùng những hành động có v ẻ tích cực để ngụy trang cho những
động cơ xấu xa, đê tiện.
-Tác hại của bệnh đạo đức giả:
+ Đối với mỗi người: Vì sống giả dối nên tự đánh mất dần nhân
cách, đánh mất niềm tin, sự quý trọng của mỗi người dành cho mình.
+ Đối với xã hội: Làm lẫn lộn những giá trị đạo đức, khiến cho

thật giả bất phân; làm suy đồi phong hóa xã hội và gây nhiều hậu
quả khôn lường.


3. Bài học nhận thức và hành động
- Thấy rõ sự cần thiết phải tích cực trao dồi nhân cách, bồi đắp
những giá trị đạo đức, sống chân thành, trung thực.
-Kiên quyết lên án, vạch trần và ngăn chặn thói đạo đức giả.
ĐỀ 4:
Trong “ Thông điệp nhân Ngày Thế giới chống AIDS, 1-12-2003”,
Cô-phi-A-nan viết : “ Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống
lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”.
(Trích Ngữ văn 12, tập 1, trang 82, Chương trình chuẩn, NXB Giáo
dục 2008)
Từ lời kêu gọi đó, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn, trình bày suy
nghĩ của mình.
*Các ý chính:
1. Nêu những biểu hiện về căn bệnh HIV/AIDS.
2. Luận bàn về sự nguy hại của căn bệnh trên
- Sự nguy hiểm của đại dịnh mang tính toàn cầu
- Không có thuốc đặc trị
- Nguy cơ lây lan nhanh trên toàn thế giới.
- Tác hại: cướp đi tuổi thọ, sinh mạng con người; làm suy kiệt nguồn
nhân lực, dẫn đến tình trạng nghèo đói.
(Dẫn chứng từ thực tế đời sống)
- Ý nghĩa cấp bách của việc phòng chống HIV/AIDS: không chỉ cùa
ngành y tế mà được nâng lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị
sự và hành động thực tế của mỗi quốc gia
3. Bài học nhận thức và hành động:
- Khẳng định tính nhân văn của bản thông điệp: đề cao vai trò con

người với ý thức trách nhiệm và lòng nhân ái cao cả.


- Hành động thiết thực của bản thân trong việc phòng, chống HIV/
AIDS.
ĐỀ 5:
Trình bày suy nghĩ của anh, chị về hiện tượng nhiều học sinh đã
vượt qua những trở lực của hoàn cảnh để có mặt ở ngôi trường đại
học mình yêu thích.
*Các ý chính:
1. Nêu hiện tượng:
Trong thực tế học tập, nhiều học sinh đã vượt qua những trở lực
khác nhau của hoàn cảnh để có mặt ở ngôi trường đại học mình yêu
thích.
2. Luận bàn:
* Nêu nguyên nhân và phân tích:
-Nguyên nhân:
+Sự tự nỗ lực của bản thân trong học tập và trong đời sống
(chủ quan)
+Sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè, cộng đồng…(khách quan)
-Phân tích:
+Sự tự nỗ lực của bản thân là điều quan trọng nhất. Sự tự nỗ lực đó
thể hiện nghị lực và quyết tâm cao của người học sinh trong việc
vượt qua sự khó khăn của hoàn cảnh.
+Sự tự nỗ lực của những học sinh có hoàn cảnh khó khăn đã được
sự tiếp sức của nhà trường và xã hội cũng như các phương tiện
truyền thông đại chúng…
+Một trong những điều đáng quý ở những học sinh vượt qua cảnh
ngộ để có mặt ở ngôi trường đại học mình yêu thích là đã dám ước
mơ, dám có khát vọng và dám hành động.

+Trong thực tế, có những học sinh có đầy đủ điều kiện để vào đại
học nhưng đã không tận dụng những điều kiện đó – đó là một thực
tế đáng buồn.


3. Bài học nhận thức và hành động:
-Hiện tượng trên là một trong những hiện tượng đẹp đẽ trong đời
sống, xứng đáng được xã hội nhìn nhận, đón nhận và trân trọng.
-Phải dám ước mơ, dám có khát vọng vượt qua trở lực để vươn đến
tương lai; phải có niềm tin vào nhà trường và cộng đồng.
c. DẠNG NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG
TÁC PHẨM VĂN HỌC:
c1. Đề tài: Một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó đặt ra trong
tác phẩm văn học,
*Vấn đề xã hội có ý nghĩa có thể lấy từ hai nguồn: tác phẩm văn
học đã học trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn
bản văn học ngắn gọn mà HS chưa được học.
c2. Cấu trúc triển khai tổng quát:
-Phần một: Phân tích văn bản (hoặc nêu vắn tắt nội dung câu
chuyện) để rút ra ý nghĩa của vấn đề (hoặc câu chuyện)
-Phần hai (trọng tâm): Nghị luận (phát biểu) về ý nghĩa của vấn đề
xã hội rút ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện).
c3. Một số đề tham khảo:
Đề 1:
Từ tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), anh (chị)
hãy bàn về vai trò của gia đình trong đời sống mỗi con người .
*Các ý chính:
-Những ấn tượng về cuộc sống gia đình trong tác phẩm.
-Mỗi người đều cần có một gia đình, một mái ấm yêu thương để
sống và trường thành. Thật bất hạnh cho những ai không có một gia

đình theo đúng nghĩa của gia đình. (phân tích và lí giải vì sao cần có
một gia đình).
-Gia đình với một truyền thống tốt đẹp, một nếp sống lành mạnh sẽ
là cơ sở để bồi dưỡng và hình thành nhân cách cao đẹp và ngược lại,
gia đình nếu không có nề nếp, gia phong sẽ tạo nên những hậu quả
rất xấu trong việc giáo dục con người.


Đề 2:
Theo anh (chị) đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang
Vũ) đã góp phần phê phán những chuyện gì trong xã hội hiện nay
*Các ý chính:
-Tóm tắt diễn biến của tình huống kịch trong đoạn trích.
-Phê phán thói chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất,
chỉ thích hưởng thụ đến mức trở nên phàm phu, thô thiển.
-Phê phán những kẻ lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần đáng
trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không
phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất, đây là biẻu hiện của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng.
-Tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không
được sống thật với bản thân mình. Đó là nguy cơ đẩy con người đến
chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
*
* *
* Các giải pháp thực hiện
-Ngoài kiến thức dạy ở lớp, giáo viên cần cung cấp những tư liệu
cần thiết do mình tự biên soạn trong quá trình đầu tư kiến thức để
dạy bồi dưỡng.
-Hướng dẫn học sinh tự đọc thêm dưới nhiều hình thức (qua mạng
internet, thư viện nhà trường).


C. Kết luận
Trên đây là những nguồn tư tưởng có ảnh hưởng mạnh nhất đến
truyền thống văn hóa người Việt. Tuy nhiên người Việt tiếp nhận
các tư tưởng này theo tinh thần “thiết thực, linh hoạt, dung hòa”
(Trần Đình Hựơu).


Các giá trị văn hóa thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau không loại
trừ nhau trong đời sống văn hóa Việt, người Việt chọn lọc và kế thừa
những giá trị này để tạo nên sự hài hòa bình ổn trong đời sống văn
hóa. Chính vì thế, văn hoá Việt truyền thống giàu giá trị nhân bản.
Cùng với rèn luyện kĩ năng, việc cung cấp kiến thức cho học
sinh như đã nêu trên là rất cần thiết để học sinh có thể làm tốt văn
nghị luận xã hội.
D. Kết quả:
1. Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi được thực hiện ở khối lớp 12
và đã đạt được kết quả khả quan.
-Năm học 2008-2009: đạt hai giải khuyến khích (bốn học sinh
dự thi)
-Năm học 2009-2010: đạt một giải khuyến khích (ba học sinh dự thi;
có một học sinh được dự thi tuyển giải quốc gia)
2. Được áp dụng vào việc ôn luyện cho học sinh thi khối C, D.
E. Đề nghị :
1. Hiện nay những tư liệu liên quan đến nội dung thuộc phạm trù
khoa học xã hội nhân văn thì thư viện nhà trường còn rất thiếu .
Đề nghị thư viện bổ sung thêm sách mới để học sinh và giáo viên có
điều kiện tham khảo, học tập.
2. Nhà trường cần hỗ trợ kinh phí cho học sinh để các em photo
những văn bản cần thiết trong quá trình tự học.



MỤC LỤC
TRANG
A. Đặt vấn đề
I. Cơ sở lý luận

1. Về phía học sinh
2. Về phía giáo viên
B. Nội dung nghiên cứu
Phần I: Những kiến thức cơ bản để làm văn nghị luận
1. Những kiến thức cơ bản

1
1
1
2
2
2
2

a. Xã hội

2

b. Chính trị

3

c. Bản sắc văn hóa

d. Môi trường
2. Mối quan hệ giữa con người với cuộc sống

3
3
3

a. Quan hệ với thế giới tự nhiên

3

b. Quan hệ với quốc gia, dân tộc

3

c. Quan hệ xã hội

4

d. Quan hệ với bản thân
3. Các nguồn tư tưởng khác

4
4

a. Nho giáo

4

b. Đạo giáo


5

c. Phật giáo
Phần II:
1. Các thao tác cơ bản

5
6
6

a. Giải thích

6

b. Chứng minh

7

c. Bình luận

7


×