Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thực trạng về cơ chế quản lý tiền lương trong các Doanh nghiệp ở nước ta hiện nay & phương hướng hoàn thiện.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.8 KB, 27 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, hiện đại hoá nền kinh tế. Một nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trong những năm qua chung
ta giành được nhiều thắng lợi, biểu hiện của nó rõ nhất là chúng ta dần dần
xoá đói, giảm nghèo, đời sống văn hoá xã hội của nhân dân được nâng lên
từng bước. Một nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, mức độ
tăng trưởng trung bình 8%GDP luôn duy trì sau những năm đổi mới, tỷ lệ
lạm phát dưới một con số và có thể khống chế được. Đảng và Nhà nước ta
nêu rõ, là phải đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực văn hoá, chính trị-
xã hội, kinh tế của đất nước. Một trong những đổi mới đó là Nhà nước đã
quyết định các nghành, các doanh nghiệp phải tự tiến hành hạch toán kinh
doanh. Để tiến hành hạch toán kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải
hạch toán lao động tiền lương. Tổ chức hạch toán tiền lương có một ý nghĩa
rất quan trong, nó tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển như nâng cao
năng suất lao động của người lao động, khuyến khích lao động sáng tạo, là
cơ sở cho việc tính lương theo đúng nguyên tắc phân phối lao động. Đồng
thời giúp cho doanh nghiệp có thể phân bổ chi phí nhân công vào giá thành
sản phẩm một cách chính xác và hợp lý. Hạch toán tiền lương tốt còn giúp
cho Nhà nước quản lý chặt chẽ phần thu ngân sách.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tổ chức hạch toán hợp lý
tiền lương, cùng với việc nghiên cứu lý luận về kế toán tiền lương và tìm
hiểu thực trạng cơ chế quản lý tiền lương ở Việt Nam để đánh giá những mặt
được của nó và những tồn tại em đã lựa chon đề tài này để nghiên cứu với
mong muốn góp phần nhỏ bé nhằm hoàn thiện hệ thống tiền lương ở nước ta.
Song vì em mới chỉ là một sinh viên với một lượng kiến thức thu lượm được
ở các thầy cô và qua sách vở, báo trí...còn thiếu nhiều kinh nghiệm về thực
tế nên trong quá trình nghiên cứu, trình bầy sẽ khó tránh khỏi những thiếu
sót và hạn chế. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc
để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!



PHẦN I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
1.1- Khái niệm và bản chất của tiền lương.
Trong cơ chế hoạch toán tập trung, tiền lương được hiểu là một phần của
thu nhập quốc dân, được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho cán bộ công
nhân viên dựa trên cơ sở, nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái sản
xuất sức lao động.
Quan niệm về tiền lương như vậy đã làm nảy sinh ra nhiều vấn đề sau:
Một là, vì không coi sức lao động là hàng hoá, nên tiền lương không phải
là tiền trả đúng giá trị sức lao động của cán bộ công nhân viên bỏ ra. Do vậy,
những trong năm tồn tại mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, mệnh lệnh
đã áp dụng hình thức phân phối theo chế độ bình quân, nhà nước bao cấp
tiền lương trong doanh nghiệp không gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh,
không kích thích con người trong lao động, sáng tạo để đạt năng suất cao,
đưa ra những sản phẩm mới... nên hiệu quả sản xuất kinh doanh và quản lý
kinh tế yếu kém.
Hai là, tiền lương được coi là một bộ phận của thu nhập quốc dân, nên cơ
chế phân phối tiền lương phụ thuộc vào vấn đề của chế độ phân phối. Theo
cơ chế, chế độ phân phối đó, thu nhập quốc dân còn nhiều thì phân phối
nhiều và nghược lại thu nhập quốc dân thấp thì phân phối ít, do đó nhiều khi
không tính đến một cách đầy đủ sự bù đắp chi phí sức lao động Kết quả là
biên chế lao động ngày càng lớn, dẫn tới ngân sách thâm hụt nặng nề do phải
bao cấp tiền lương, mà tiền lương laị không đủ tái sản xuất sức lao động, sản
xuất kinh doanh mất động lực nên mức tăng trưởng của nền kinh tế rất thấp
(có năm đạt tốc độ tăng trưởng âm), hiệu quả sản xuất kinh doanh không
cao.
Ba là, tiền lương không còn là mối quan tâm của công nhân viên chức
trong các doanh nghiệp Nhà nước, cái mà họ quan tâm là những lợi ích được
phân phối ngoài lương. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp ngày

càng không đáp ứng được các nhu cầu thường nhật của đờì sống nhân dân.
Người lao động mặc dù được coi là chủ nhân nhưng không gắn bó với cơ sở
sản xuất, phổ biến tình trạng “cha chung không ai khóc” lãng phí ngày công,
giờ công, Nhà nước mất dần đội ngũ lao động có tay nghè cao. Do đó, đã
2
đẩy nền kinh tế nước ta ngày càng lấn sâu vào cuộc khủng hoảng, mức tăng
trưởng kinh tế thấp và kéo dài.
Thực hiện đổi mới nền kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ
chế thị trường buộc chung ta phải có phải những thay đổi lớn trong nhận
thức. Vì vậy, quan niệm về tiền lương cũng cần phải có sự đổi mới dựa trên
cơ sở, yêu cầu:
+ Coi sức lao động là hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất.
+ Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động và tuân thủ theo các quy
luật của thị trường.
+ Tiền lương là bộ phận cơ bản (hoặc duy nhất) trong thu nhập của
người lao động, đồng thời phải được hiểu nó là một trong những yếu tố đầu
vào của chi phí sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp.
Với ý nghĩa đó, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động
sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối
lượng sản phẩm hay công việc mà người lao động đã cống hiến cho doanh
nghiệp. Tiền lương chính là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Các
doanh nghiệp sử dụng công cụ tiền lương làm đòn bẩy kinh tế để khuyến
khích tinh thần trong lao động sản xuất, là nhân tố thúc đẩy để tăng năng suất
lao động. Đối với các doanh nghiệp, tiền lương phải trả cho người lao động
là một bộ phận chi phí cấu thành nên giá trị sản phẩm hàng hoá. Do vậy, các
doanh nghiệp phải sử dụng sức lao động một cách có hiệu quả để tiết kiệm
chi phí đầu vào, tiền đề để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh
hàng hoá của mình trên thị trường.
Cùng với khái niệm trên, tiền công chỉ là một biểu hiện hay là một tên gọi
khác của tiền lương. Tiền công gắn trực tiếp hơn với các quan hệ cung cầu

về sức lao động và thường được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
các hợp đồng thuê lao động có thời hạn. Tiền công còn được hiểu là tiền trả
cho một đơn vị thời gian lao động cung ứng, là tiền trả theo khối lượng sản
phẩm, công việc cho người lao động đã được thoả thuận trong hợp đồng và
có thể gọi là giá công lao động. Trong nền kinh tế thị trường ở các nước phát
triển, khái niệm tiền lương và tiền công được xem là đồng nhất cả về bản
chất kinh tế, phạm vi và đối tượng áp dụng. Nhưng ở các nước đang chuyển
từ nền kinh tế mệnh lệnh sang nền kinh tế thị trường như nước ta thì khái
niệm tiền lương thường được gắn với chế độ tuyển dụng suốt đời hoặc một
3
thoả thuận hợp đồng sử dụng lao động dài hạn, ổn định. Nói chung khái
niệm tiền lương có tính phổ cập hơn và cùng với nó là một loạt khái niệm:
+ Tiền lương danh nghĩa nó là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người
sử dụng sức lao động trả cho người cung ứng sức lao động căn cứ vào hợp
đồng thoả thuận giữa hai bên trong việc thuê mua. Trên thực tế, mọi mức
lương trả trả cho người lao động là tiền lương danh nghĩa. Song bản chất của
tiền lương danh nghĩa không thể biểu hiện được một cách đầy đủ về mức trả
công thực tế cho người lao động.
+ Tiền lương thực tế nó là một khái niệm chỉ số lượng tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương của mình sau
khi đã đóng các khoản thuế theo quy định của Nhà nước.
Đối với người lao động, lợi ích và mục đích cuối cùng của việc cung ứng
sức lao động là tiền lương thực tế chức không phải tiền lương danh nghĩa.
Vì tiền lương thực tế quyết định khả năng tái sản xuất sức lao động và các
lợi ích vật chất khác của họ. Do vậy, trong nội dung bản hợp đồng lao động
được ký kết hai bên (người sử dụng sức lao động và người cung ứng sức lao
động) luôn phải có một sự ngầm hiểu, so sánh, cân đối giữa mức lương đưa
ra và giá trị hiện hành để thống nhất một mức lương thực tế thích hợp.
+ Tiền lương tối thiểu cũng có những quan niệm khác nhau. Từ trước đến
nay mức lương tối thiểu được xem là “cái ngưỡng” cuối cùng để tiến tới đàm

phán, xây dựng nên hệ thống tiền lương của các nghành, các lĩnh vực hay hệ
thống tiền lương chung thống nhất cho một quốc gia. Nó là căn cứ để định ra
và hoàn thiện hoá chính sách tiền lương.
Chúng ta không chỉ hiểu rằng, tiền lư mức lương tối thiểu là sự cần thiết
tất yếu. Có như vậy lợi ích cục bộ mới thống nhất với lợi ích cộng đồng và
phát triển kinh tế luôn gắn liền với vấn đề dân sinh.
1.2 - Vai trò của chính sách tiền lương trong sản xuất kinh doanh.
Trong sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp, tiền l còn chứa
đựng một yếu tố quan trọng đó là vấn đề xã hội, liên quan trực tiương là một
yếu tố của sản xuất. Còn đối với người cung ơng không chỉ đơn thuần là một
vấn đề kinh tế, một vấn đề lợi ích mà còn phải hiểu rộng hơn là nó ếp đến
các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, trong cơ chế điều tiết của thị
trường lao động phải được định hướng bằng các chính sách của Chính phủ
phải chú ý đến các quy định kiểm soát cấp sức lao động, tiền lương là thu
nhập chủ yếu của họ.hay nói khác đi, mục tiêu cuối cùng của nhà sản xuất là
4
lợi nhận và của người cung cấp sức lao động là tiền lương Với ý nghĩa đó,
tiền lương không chỉ mang bản chất của chi phí mà nó đã trở thành phương
tiện tạo ra giá trị mới, hay nói đúng hơn là nguồn cung ứng sự sáng tạo sức
sản xuất, năng lực lao động trong quá trình sản xuất tạo ra giá trị gia tăng.
Đối với người lao động, tiền lương nhận được thoả đáng sẽ là động lực kích
thích tính sáng tạo, tinh thần lao động để từ đó làm tăng năng suất lao động.
Mặt khác, khi năng suất lao động tăng thì lợi nhận của doanh nghiệp tăng, do
đó nguồn phúc lợi của doanh nghiệp mà người lao động được hưởng cũng
tăng lên. Từ đó nó sẽ tăng lên, phân bổ thêm cho tiền lương làm tăng thu
nhập và tăng lợi ích cho người lao động. Hơn nữa, khi lợi ích của ngườild
được đảm bảo bằng các mức lương thoả đáng, nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng
đồng giữa những người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp,
xoá bỏ sử ngăn cách giữa người chủ doanh nghiệp và công nhân, làm cho
người lao động có trách nhiệm hơn, tự giác hơn với các hoạt động của mình

đối với doanh nghiệp... Các nhà kinh tế gọi đó là “phản ứng dây chuyền tích
cực” của tiền lương.
Ngược lại, nếu chế độ trả tiền lương trong doanh nghiệp không hợp lý
không chú ý đúng mức đến lợi ích người lao động, chỉ vì mục tiêu lợi nhuận
thuần tuý thì nguồn nhân lực có thể bị kiệt quệ về số lượng cũng như chất
lượng của nó. Biểu hiện của nó được thể hiện trong sản phẩm, hiệu quả sản
suất kinh doanh và đồng thời nó lại sinh ra mâu thuẫn người lao động với
chủ doanh nghiệp có thể dẫn tới bãi công, đình công,...Mà điều tồi tệ hơn đó
là sự di chuyển lao động, chất xám sang những khu vực doanh nghiệp mới
có mức lương hấp dẫn hơn. Hậu quả gây ra không những mất đi nguồn nhân
lực quý giá mà nó còn làm cho doanh nghiệp thiếu hụt lao động cục bộ, đình
đốn trong sản xuất và làm giảm sức cạnh tranh của mình trên thị trường, có
khi dẫn tới thị trường bị thu hẹp và đưa doanh nghiệp dẫn tới phá sản.
1.3 - Tầm quan trọng của công tác hạch toán tiền lương trong các
doanh nghiệp.
Vấn đề quản lý tiền lương là một nội dung quan trọng trong công tác
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là một nhân tố giúp cho
doanh nghiệp hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh
doanh của mình. Tổ chức tốt công tác hạch toán tiền lương nó sẽ thúc đẩy
người lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động, nâng cao tinh thần trách
nhiệm và năng lực sáng tạo, tăng năng suất và chất lượng lao động trong
hoạt động sản xuất. Chi phí tiền lương không chỉ có ý nghĩa đối với các nhà
5
sản xuất mà còn là mục đích, động cơ và lợi ích kinh tế của người cung cấp
sức lao động. Một mức lương hợp lý nó sẽ tác động tới cả cung và cầu sức
lao động. Đối với doanh nghiệp để tối thiểu hoá chi phí đầu vào thì mức
lương trả cho người lao động không được lớn hơn doanh thu biên mà người
công nhân được thuê thêm cuối cùng tạo ra nó. Còn đối với người công
nhân, mức lương hợp lý có tác dụng kích thích sức sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm trong lao động cũng như thái độ cung ứng sức lao động. Kết quả đó là

sẽ làm cho tăng năng suất lao động, do đó tiết kiệm chi phí tiền lương cho
doanh nghiệp. Trong trường hợp này, lợi ích kinh tế của người hưởng lương
đã nhất trí với lợi ích của doanh nghiệp, đó chính là động lực, nhân tố lớn
nhất của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như
trong hoạt động của nền kinh tế nói chung.
Thực hiện tốt quá trình tỏ chức công tác hạch toán lao động và tiền lương
còn giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt quỹ lương, đảm bảo việc trả lương và
trợ cấp bảo hiểm xã hội đúng nguyên tắc, chế độ và kích thích người lao
động hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mặt khác còn tạo ra cơ sở cho việc
phân bổ chi phí nhân công vào giá thành sản phẩm một cách chính xác và
hợp lý.
1.4 - Nhiệm vụ của hạch toán tiền lương.
Để làm tốt công tác quản lý kinh doanh của doanh nghiệp thì nhiệm vụ
của công tác kế toán tiền lương phải tổ chức tốt các nhiệm vụ sau:
+Thực hiện tốt quá trình ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu để tính
lương và các khoản phải trích theo lương, phân bổ chi phí nhân công đúng
đối tượng sử dụng lao động.
+ Hướng dẫn, kiểm tra các nhân viên hạch toán ở các cơ sở, bộ phận sản
xuất kinh doanh, các phòng ban thực hiện đầy đủ các chứng từ hoá đơn ghi
chép ban đầu về lao động, về tiền lương, mở sổ cần thiết và hạch toán nghiệp
vụ lao động, đúng phương pháp và tiền lương đúng chế độ.
+ Lập các báo cáo về tiền lương thuộc phần việc do mình phụ trách.
+ Phân tích tình hình sử dụng và quản lý chi phí nhân công, đề xuất các
biện pháp nhằm khai thác, sử dụng triệt để vàcó hiệu quả mọi tiềm năng về
nguồn nhân lực sẳn có của doanh nghiệp.
1.5 - Các hình thức tiền lương.
Quá trình tổ chức công tác quản lý hạch toán và chi trả tiền lương trong
các doanh nghiệp có một ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng nhằm quán triệt
nguyên tắc, chế độ phân phối theo lao động, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích
6

chung của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Việc lựa
chọn hình thức trả lương đúng đắn, hợp lý còn có tác dụng đòn bẩy kinh tế,
khuyến khích người lao động chấp hành tốt kỷ cương trong lao động, phát
huy năng lực sáng tạo,.... trong sản xuất. Trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam ta hiện nay chủ yếu áp dụng các hình thức trả lương sau:
+ Hình thức trả lương theo thời gian.
+ Hình thức trả lương theo sản phẩm.
1.5.1 - H ình thức trả lương theo thời gian.
Hình thức trả theo thời gian là hình thức thực hiện việc tính lương cho
người lao động theo thời gian làm việc dựa trên cơ sở ngành nghề và trình độ
thành thạo nghiệp vụ, kỷ thuật, chuyên môn của người lao động. Tuỳ theo
thuộc tính, tính chất của lao động khác nhau và mỗi ngành nghề cụ thể có
một thang lương riêng. Trong mỗi thang lương lại tuỳ theo trình độ thành
thạo nghiệp vụ, kỷ thuật và tay nghề chuyên môn mà chia làm nhiều bậc
lương. Mỗi bậc lương có một mức lương nhất định. Đơn vị để tính tiền
lương thời gian là lương tháng, lương ngày hoặc lương giờ. Lương tháng
được quy định sẵn đối với từng bậc lương trong các thang lương, lương
tháng thường được áp dụngđể trả lương cho nhân viên làm công tác quản lý
hành chính, quản lý kinh tế và thuộc các ngành nghề mang tính chất xã hội
không mang tính chất sản xuất.
Hình thức trả lương theo ngày là tiền lương trả cho người lao động theo
mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng. Mức lương ngày
thường được tính bằng cách lấy mức lương tháng chia cho số ngày làm việc
trong tháng theo chế độ (thường tính 26 ngày). Lương ngày thường áp dụng
để trả lương cho người lao động trực tiếp hưởng lương thời gian, tính lương
cho người lao động trong những ngày hội họp, học tập hoặc làm nghĩa vụ
khác và làm căn cứ để tính trợ cấp bảo hiểm xã hội.Nó có thể khái quát theo
công thức sau:
Tiền lương phải Mức lương Số ngày làm việc thực
trả trong tháng. một ngày. tế trong tháng.

7
x
=
Mức lương tháng theo Hệ số các loại phụ cấp
cấp bậc (hay chức vụ) (nếu có)
Số ngày làm việc trong tháng theo chế độ (26 ngày)
8
Mức lương ngày =
Mức lương ngày
Số giờ làm việc theo chế độ (8 giờ)
Lương được tính theo giờ thường được áp dụng để trả lương cho lao động
trực tiếp trong thời gian làm việc không hưởng theo sản phẩm (nó thường áp
dụng đối với các ngành nặng nhọc, nguy hiểm).
Tiền lương tính theo thời gian được chia thành: tiền lương tính theo thời
gian giản đơn và tiền lương tính theo thời gian có thưởng.
+ Tiền lương tính theo thời gian giản đơn căn cứ vào số giờ làm việc
thực tế nhân với mức tiền lương của một đơn vị thời gian. Tiền lương tính
theo thời gian giản đơn không phát huy được đầy đủ nguyên tắc phân phối
theo lao động, vì nó chưa chú ý đến kết quả và chất lượng lao động thực tế
của người lao động.
+ Tiền lương tính theo thời gian có thưởng là tiền lương tính theo thời
gian giản đơn kết hợp với chế độ tiền thưởng trong sản xuất. Tiền lương tính
theo thời gian có thưởng có tác dụng thúc đẩy người lao động tăng năng suất
lao động, tiết kiệm vật tư, tính năng động sáng tạo,... trong sản xuất và bảo
đảm chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Nhìn chung hình thức trả lương theo thời gian có những mặt hạn chế của
nó như tiền lương mang tính chất bình quân nhiều khi không phù hợp với kết
quả lao động thực tế của người lao động. Do vậy, chỉ những trường hợp chưa
đủ điều kiện trả lương theo sản phẩm mới áp dụng chế độ trả lương theo
thời gian.

1.5.2 - Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương theo số lượng
và chất lượng công việc đã hoàn thành. Đây là hình thức trả lương phù hợp
với nguyên tắc phân phối theo lao động gắn chặt với số lượng lao động và
9
Mức lương giờ =
chất lượng lao động, nó có tác dụng khuyến khích người lao động nâng cao
năng suất lao động, năng lực sáng tạo,... từ đó góp phần tăng thêm của cải,
sản phẩm hàng hoá cho xã hội một cách hợp lý. Là hình thức trả lương theo
sản phẩm, do đó còn phải tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể ở từng doanh
nghiệp, từng lĩnh vực mà vận dụng theo các hình thức cụ thể sau đây:
+ Trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế. Với hình thức này
tiền lương phải trả cho người lao động tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm
hoàn thành dựa trên kết quả đánh giá, nghiệm thu về quy cách, phẩm chất, số
lượng,... của sản phẩm làm ra của người lao động và đơn giá tiền lương sản
phẩm đã quy định không chịu một sự hạn chế nào. Đây là hình thức được các
doanh nghiệp sử dụng phổ biến để tính lương phải trả cho lao động trực tiếp.
+ Trả lương theo sản phẩm gián tiếp. Là hình thức được áp dụng để trả
lương cho lao động gián tiếp ở các bộ phận sản xuất như lao động làm nhiệm
vụ vận chuyển vật liệu, thành phẩm, bảo dưỡng máy móc thiết bị,...Tuy lao
động của họ không trực tiếp tạo ra sản phẩm, nhưng lại gián tiếp ảnh hưởng
tới năng suất lao động của lao động trực tiếp. Vì vậy, có thể căn cứ vào kết
quả của lao động trực tiếp mà lao động giáp tiếp phục vụ để tính lương cho
lao động gián tiếp.
+ Trả lương theo sản phẩm có thưởng, phạt. Theo hình thức này, ngoài
lương tính theo sản phẩm trực tiếp, người lao động còn được hưởng trong
sản xuất như thưởng về chất lượng sản phẩm tốt, thưởng về tăng năng suất
lao động, tiết kiệm vật tư,... Nhưng trong các trường hợp người lao động làm
ra các sản phẩm hỏng, sản phẩm không đủ chất lượng, lãng phí vật tư,... thì
có thể phải chịu tiền phạt và khấu trừ vào tiền lương của họ. Thu nhập của

họ bằng tiền lương theo sản phẩm trực tiếp cộng với các khoản được thưởng
và trừ đi các khoản tiền bị phạt.
+ Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến. Theo hình thức này, ngoài tiền lương
theo sản phẩm trực tiếp còn căn cứ vào mức độ hoàn thành vượt định mức
10

×