Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thu-Chi của ngân sách nhà nước và biện pháp cân đối ngân sách của nhà nước.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.08 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN ĐỀ
Đề tài:
Thu-Chi của ngân sách nhà nước và biện pháp cân đối ngân sách của nhà nước
Huế, 01/2010
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử loài người, Nhà Nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Nhà
Nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập trung nguồn lực tài chính vào trong tay Nhà Nước để làm
phương tiện vật chất trang trải cho các chi phí nuôi sống bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng
kinh tế, xã hội của Nhà Nước. Bằng quyền lực của mình, Nhà Nước tham gia vào quá trình phân phối
tổng sản phẩm xã hội. Trong điều kiện kinh tế hàng hoá- tiền tệ, các hình thức tiền tệ trong phân phối
như: thuế bằng tiền, vay nợ…được Nhà nước sử dụng để tạo lập quỹ tền tệ riêng có: NSNN. Như vậy,
NSNN là ngân sách của Nhà Nước, hay Nhà Nước là chủ thể của ngân sách đó Với mục tiêu “quản
lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng Ngân sách Nhà Nước (NSNN) lành mạnh,
củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà Nước; tăng tích luỹ để
thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”,.
I. Vị trí, vai trò của thu-chi ngân sách nhà nước:
* Vai trò ngân sách nhà nước:
-Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất,
điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội
-Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản
xuất kinh doanh và chống độc quyền.
-Đầu tiên , chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính
phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định
và bền vững.
1.Vị trí và vai trò của hoạch động chi NSNN:
a.Vị trí:
-Chi NSNN luôn gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-chính trị-xã hội


-Chi NSNN gắn liền với quyền lực nhà nước
-Chi NSNN mang tính pháp lí cao làm cho NSNN trở thành công cụ có hiệu lực trong quá trình điều
hành,quản lí kinh tế ,xã hội của NN
-Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được xem xét trên tầm vĩ mô.thông qua việc hoàn thành các chỉ
tiêu kinh tế ,xã hội,ANQP...
-Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn chặt với sự vận động của phạm
trù giá trị khác như tiền lương,lãi xuất...
b.Vai trò :
-Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế:
Thông qua hoạt động chi ngân sách, nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng,
hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế(có thể thấy rõ nhất tầm
quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp). Bên
cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để
chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong
những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát
triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu
mới hợp lý hơn.
- Giải quyết các vấn đề xã hội:
Xây dựng và phát triển các vấn đề xã hôi:y tế,giáo dục,giao thông…
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp
xã hội,trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu,các khoản chi phí để thực hiện
chính sách dân số,chính sách việc làm,chống mù chữ,hỗ trợ đồng bào bão lụt.
-Về mặt thị trường:
Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát ,bình ổn giá cả thị trường hàng hoá: nhà nước chỉ điều tiết
những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. cơ chế điều tiết thông qua trợ
giá, điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu, dự trũ quốc gia. thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành
trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. kiềm chế lạm phát: cùng với nhân hàng trung ương với chính sách
tền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
*Các lĩnh vực thường chi:

-Chi đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần lớn là xây dựng cơ bản, khấu hao tài sản
xã hội
-Chi bảo đảm xã hội, bao gồm:
+Giáo dục
+Y tế
+Công tác dân số
+Khoa học và công nghệ
+Văn hoá
+Thông tin đại chúng
+Thể thao
+Lương và trợ cấp xã hội …
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước đựoc chia ra:
-Tiêu dùng cuối cùng (của Nhà nước): các khoản chi thường xuyên cho mua sắm của các cơ quan Nhà
nước
-Đầu tư kết cấu hạ tầng: xây dựng cơ bản và khấu hao tài sản
-Phân phối và tái phân phối xã hội: lương công nhân viên chức và các khoản trợ cấp xã hội, hưu trí.
2.Vị trí và vai trò của hoạch động thu NSNN:
a.Vị trí :
-Cơ cấu các khoản thu NSNN đều gắn liền với chức năng nhiện vụ và quyền lực chính trị của nhà
nước.Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước là điều kiện xuất hiện nhưng khoản thu của NSNN
-Các khoản thu nhà nước là tiền đề vật chất không thể thiếu được thực hiện chức năng ,nhiệm vụ nhà
nước
b.Vai trò:
-Thu để tạo quỹ cho NSNN
-Tạo nguồn ngân quỹ không chỉ cho các khoản chi NSNN mà còn nhằm vào mục đích xã hội khác
như:trợ cấp thiên tai,cứu tế...
-Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu
-Thu NSNN có tác dụng kiềm chế và đẩy lùi lạm phát
VD : Khi lạm phát xãy ra ,giá tăng làm cung-cầu mất cân đối,chính phủ có thể tăng thuế tiêu dùng,giảm
thuế đầu tư...

-Tác dụng của việc thu thuế:
+Đối với thuế thu nhập cá nhân,thuế doanh nghiệp nhằm giúp sự phân hoá giàu nghèo,tiến tới đảm bảo
xã hội công bằng về thu nhập
+Thuế hang hoá: thuế cao cho hàng hoá xa xỉ,thuế thâp cho hàng thiết yếu nhằm phân phối lại thu nhập
người giàu
+Khuyến khích các DN trong nước phát triển băng các tăng thuế các mặt hàng nhập khẩu
-Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm
bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh
Các nguồn thu chính:
+Thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước: Thu từ sản xuất, thu từ lưu thông
+ phân phốinhàng hóa, thu từ hoạt động dịch vụ
+Thu từ nguồn thu ngoài nước: thu từ vay nợ và viện trợ của ngoại quốc
Có nhiều khoản thu:các hoạt động kinh tế của nhà nước(hoạt động góp vốn của nhà
nước;thu hồi tiền vay của nhà nước);thu từ các hoạt động vay nợ;các hoạt động bán và cho thuê TNTN
và các tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước và các khoản thu khác. Thu thuế: Thuế là 1 khoản thu
bắt buộc,không được hoàn trả trực tiếp của nhà nước đối với các cá nhân nhằm mục đichs trang trải các
khoản chi phí vì lợi ích.
II. Các khái niệm liên quan:
1.NSNN
NSNN, hay NS chính phủ, là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước"
được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia.
Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về
ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu.
Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong
một giai đoạn nhất định của quôc gia.
Mộ
t cách
hiểu
t
ương

t
ự,

ngườ
i
Pháp

cho

rằng:

NSNN

toàn

bộ
tài li
ệu

kế
t
o
á
n


t





trình
bày
các
khoản

thu



kinh

phí
c

a
Nhà

nướ
c
trong

mộ
t
năm.
Luật NSNN đã được quốc hội Việt Nam thông qua năm 1996 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn
bộ các khoản thu, chi của quốc gia trong dự toán đã được cơ quan chính phủ có thẩm quyền quyết định
và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của chính phủ.
Từ các quan điểm trên ta có thể xác định:NSNN là các quan hệ phát sinh gắn liền với quá trình tạo
lập,phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước khi hà nước tham gia phân phối các nguồn

tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trên cơ sở luật định.
2. Hệ thống mục lục ngân sách nhà nước
Hệ thống mục lục ngân sách nhà nước là bảng phân loại các khoản thu, chi ngân sách nhà nước theo hệ
thống tổ chức nhà nước, ngành kinh tế và các mục đích kinh tế - xã hội do nhà nước thực hiện, nhằm
phục vụ cho công tác lập, chấp hành, kế toán, quyết toán ngân sách nhà nước và phân tích các hoạt động
kinh tế, tài chính thuộc khu vực nhà nước.
3.Thu NSNN
Thu ngân sách nhà nước là quyền lực của nhà nước để tập trung 1 phần thu nhập kinh tế vào tay nhà
nước dể hình thành nên quỹ tiền tệ
Các mục thu ngân sách nhà nước quy định trên cơ sở chế độ, chính sách thu ngân sách nhà nước.
4.Chi NSNN
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các
nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ
của chính sách.
Các mục chi ngân sách nhà nước quy định trên cơ sở chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ngân sách
nhà nước.
5.Một số khái niệm khác:
Thâm hụt ngân sách (bội chi) trong kinh tế vĩ mô và kinh tế học cộng đồng là tình trạng các khoản chi
của NSNN (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách.
Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư NS (bội thu)
NỘI DUNG CHÍNH
I. Tình hình ngân sách nhà nước giai đoạn trước năm 2003
1. Chi ngân sách nhà nước
Trong những năm đầu thập niên 90, diễn biến NSNN khá thất thường. Tổng chi NSNN chiếm 20,5%
GDP năm 1990 đã giảm xuống còn 15,9% năm 1992. Sau đó tăng đột ngột lên 29,4% năm 1993. Từ
năm 1994, tổng chi so với GDP lại giảm liên tục, từ 29,4% (năm 1993) xuống còn 22.7% GDP (năm
1998), tương ứng với việc cắt giảm 1/5 tổng chi NSNN. Nhưng xét bình quân giai đoạn 1991-1995 đạt
24,5% GDP và khoảng 24,1% GDP giai đoạn 1996-2001 là tăng mạnh so với mức bình quân 19,7% giai
đoạn 1986-1990.
Giai đoạn 1991 – 2001, chi NSNN được kết cấu lại theo hướng chi trên cả ba lĩnh vực chi đầu tư, chi

thường xuyên và chi trả nợ. Trong đó, chi đầu tư phát triển, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ bản được
quan tâm. Mặc dù chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng lớn, bình quân khoảng 63,5% tổng chi NSNN,
nhưng tỷ trọng chi đầu tư phát triển đã vươn lên đạt mức bình quân khoảng 25%, chi viện trợ và trả nợ
chiếm hơn 11% trong tổng chi NSNN.
Đầu năm 2003 các khoản chi mới phát sinh như chi phòng chống và dập dịch SARS, chi công tác chuẩn
bị SEA Games 22 và ASEAN Paragames 2, chi bổ sung khắc phục hậu quả thiên tai đã dẫn đến chi 2003
tăng 6,1% so với dự toán ban đầu và chiếm 27,3% so với GDP, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 7,8%
GDP và chi thường xuyên bằng 15,5% GDP. Cũng trong năm 2003 cải cách tiền lương khiến tổng quỹ
lương nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với 2002 lấy từ khoản giảm chi thường xuyên 10%, và một số
nguồn khác.
Những khoản chi mang tính bao cấp không thuộc chức năng, nhiệm vụ của NSNN nhìn chung được cắt
giảm đáng kể, giảm bớt gánh nặng chính đáng cho NSNN trong điều kiện mới. Đồng thời các khoản chi
bao cấp cho DNNN cũng giảm đáng kể nhờ có biện pháp cổ phần hóa và kiên quyết cắt giảm chi bao
cấp từ NSNN. Bên cạnh đó, ta thấy được một xu hướng mới đang hình thành. Chi đầu tư phát triển từ
nguồn vốn tập trung của Nhà nước đang được dành chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạ tầng và những khu
vực khó hoặc không thu hồi được vốn. Xu hướng này tích cực, phù hợp với thực tế nước ta, cần được
củng cố và tăng cường trong giai đoạn chuẩn bị bước đầu hội nhập.
2.Thu ngân sách nhà nước
Trong thời gian qua, thu ngân sách góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực tài chính nhà nước. Thu
ngân sách không những đã bảo đảm đủ nguồn thu cho chi tiêu thường xuyên của Chính phủ mà còn để
dành ra một phần tích luỹ cho đầu tư phát triển. Số thu ngân sách, theo giá hiện hành, đã tăng 7,7 lần từ
năm 1991 đến năm 2000. Trong đó số thu từ thuế lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN. Bình
quân thu từ thuế, phí và lệ phí đạt khoảng 95% trong tổng số thu. Về quy mô, thu NSNN so với tổng
GDP tăng từ 13,8% GDP năm 1991 lên đến đỉnh cao 23,3% năm 1995. Bình quân thu ngân sách giai
đoạn này là 20,5% GDP. Giai đoạn 1996 – 2000, mục tiêu Đại hội Đảng đề ra là huy động 20% – 21%
GDP vào NSNN thông qua thuế và phí. Nhưng thực tế thực hiện năm 1997 đạt 19,4%, năm 1998 đạt
17,7%, năm 1999 đạt 17% và năm 2000 đạt 19,4%. Và như vậy là chưa năm nào đạt mục tiêu đề ra.
Trong năm 2001-2003 cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo chiều hướng tích cực hơn, thu từ nguồn
trong nước đã tăng từ 50,7% lên 52,6% so với tổng thu trong năm 2003 nhưng thu từ dầu thô, hoạt động
XNK đã giảm từ 47,4% xuống còn 45,9% năm 2003. Ngoài ra do thực hiện pháp lệnh về phí và lệ phí

đã bãi bỏ 140 khoản phí thuộc các bộ ngành TW và 105 khoản phí thuộc các địa phương đã làm giảm
chi phí xã hội khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm. Thu NSNN năm 2004 dự kiến đạt 166.900 tỷ đồng, vượt
dự toán 11,8%, tăng 17,4% so với năm 2003 và tương đương 22,7% GDP. Trong số tăng thu, số tăng từ
dầu thô, nhà đất chiếm tỷ trọng lớn.
3.Những thách thức trong cân đối ngân sách thời gian qua
Năm 1996 luật NSNN ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phương pháp điều hành tài
khóa. Nhìn chung chúng đã giúp cải thiện rất lớn tình hình ngân sách những năm qua. Tuy vậy, liên tiếp
từ năm 1999 đến nay, bội chi ngân sách tính trên GDP tăng liên tục, năm 1999 là 4,9%; năm 2000 là
5%, điều này cũng cho thấy chính sách nới lỏng tài khóa đã được thực hiện. Nhưng xét về hình thức thì
lại xuất hiện mâu thuẫn giữa tốc độ tăng chi đầu tư xây dựng cơ bản chậm, tỷ lệ giải ngân vốn còn thấp
với chủ trương tăng chi ngân sách cho đầu tư phát triển nhằm kích thích tổng cầu nền kinh tế, thúc đẩy
tăng trưởng. Chính những bất cập trong lĩnh vực đầu tư và cấp phát vốn đầu tư từ NSNN đã cho thấy
những dấu hiệu cảnh báo cần thận trọng khi sử dụng chính sách tài khóa nới lỏng. Tăng mức chi ngân
sách cho đầu tư phát triển là chủ trương đúng, là biện pháp kinh tế có thể làm tăng tổng cầu, thúc đẩy
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng bội chi tăng thêm phải được sử dụng cho những công trình có hiệu
quả, tạo sản phẩm, hàng hóa dịch vụ cho nền kinh tế, vừa tích luỹ tài chính tạo nguồn để trả nợ, bù đắp
bội chi; hoặc phải sử dụng bội chi để đầu tư vào những công trình xây dựng cơ bản tạo môi trường
thuận lợi cho kinh doanh. Tuy nhiên, khi quan sát diễn biến thực tế chi NSNN thời gian qua chúng ta có
thể nhận thấy chính sách tài khoá được điều hành dưới áp lực chống lạm phát. Do đối mặt với những
khó khăn về nguồn thu, tiềm lực tài chính, tâm lý lo ngại nguy cơ giá cả tăng vọt không kiểm soát được,
tình trạng lãng phí. Ngân sách đã được điều hành theo chủ trương thắt chặt chi tiêu tiến hành tiết kiệm,
cắt giảm chi thường xuyên.
Trong giai đoạn 2001-2003 bội chi NSNN năm 2001 là -4,67%, sang năm 2002 có tăng đôi chút là
-4,96% và trong năm 2003 là -5,0% so với GDP, như vậy mức thâm hụt ngân sách trong những năm gần
đây đều nằm trong phạm vi cho phép (là mức đã được Quốc hội thông qua) và không gây mất ổn định
kinh tế vĩ mô. Để bù đắp cho các khoản thiếu hụt này Chính phủ đã vay nợ trong nước bằng cách phát
hành trái phiếu Chính phủ chủ yếu khoảng 60% và bù đắp bội chi từ bên ngoài ở mức xấp xỉ 39%-40%.
Bên cạnh việc đạt được những kết quả tích cực, thu chi NSNN vẫn còn không ít tồn tại, cần có những
thay đổi cơ bản.
° Tình trạng thất thu còn khá phổ biến, hiệu quả kiểm soát nguồn thu ngân sách còn hạn chế. Thu NSNN

vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các biến động theo thị trường thế giới như dầu thô và hoạt động xuất nhập
khẩu. Theo những đánh giá của IMF, hoạt động ngân sách trong một số năm nay là tích cực, ngoài ra, do
có nguồn thu lớn từ dầu thô cho nên vị thế về trung hạn của ngân sách là có thể kiểm soát được, miễn là
hoạt động cho vay lại và các khoản nợ nằm ngoài ngân sách được kiểm soát chặt chẽ.Tuy nhiên trong
năm gần đây cũng ghi nhận những chuyển biến, theo đó cơ chế quản lý tài chính được sửa đổi theo
hướng minh bạch và tăng cường tự chủ tài chính, gắn trách nhiệm của đơn vị sử dụng ngân sách, tạo cơ
sở cho việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính công trong những năm tới.
° Việc hoàn thuế và kiểm tra hoàn thuế còn nhiều bất cập. Vấn đề không hoàn thành các mục tiêu đề ra
là cần phải xem xét. Như vậy, trong bối cảnh tiến hành hội nhập với những biến động phức tạp của thị
trường thế giới thì đây là dấu hiệu cảnh báo về quản lý NSNN. Nguồn thu ngân sách qua các năm không
ổn định và Thực hiện công khai, minh bạch toàn bộ hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN là một giải
pháp cấp bách trong quá trình hội nhập. Nhất là khi đường lối chủ động hội nhập quốc tế và lộ trình cắt
giảm thuế quan được công khai.
° Bên cạnh những nhiệm vụ chi thực hiện sát với dự toán, một số nhiệm vụ chi tăng so với dự toán là
cần thiết như tăng chi sự nghiệp kinh tế để khắc phục hậu quả thiên tai; hỗ trợ nông dân khắc phục hậu
quả của dịch bệnh cúm gia cầm và khôi phục sản xuất chăn nuôi; tăng chi đầu tư phát triển; một số địa
phưng đã chủ động bố trí vốn trong dự toán ngân sách năm 2004 để thanh toán nợ xây dựng cơ bản…
Tuy nhiên, những tồn tại trong quản lý ngân sách còn lớn như nhiều địa phương bố trí vốn còn phân tán;
sử dụng ngân sách lãng phí; việc sử dụng vốn trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng trường, lớp học
chưa hiệu quả, vốn huy động phi lãi suất chưa được sử dụng kịp thời, thường xuyên bị tồn đọng ở mức
lớn.
° Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải, sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ thất thoát lớn khi mà
nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn NSNN cao là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế –
xã hội và kết quả cân đối ngân sách nhưng vẫn chậm được xử lý.
II. Tình hình ngân sách nhà nước giai đoạn 2004- 2006:
1. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2004:
Năm 2004, cả nước sẽ “thu” 152.920 tỉ đồng
Theo quyết định của Quốc hội (QH), trong năm 2004 tổng số thu cân đối ngân sách trung ương là
107.777 tỉ đồng, chiếm 70,5% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước; tổng số thu cân đối ngân sách
địa phương là 45.143 tỉ đồng, chiếm 29,5% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước.

Tổng số chi cân đối ngân sách T.Ư là 142.527 tỉ đồng. Sau khi bổ sung cân đối, bổ sung có mục tiêu cho
ngân sách địa phương thì tổng số thực chi cân đối ngân sách T.Ư là 106.890 tỉ đồng, chiếm 57% tổng số
chi cân đối ngân sách nhà nước. Tổng số thực chi cân đối ngân sách các địa phương (bao gồm cả bổ
sung từ ngân sách T.Ư cho ngân sách địa phương) là 80.780 tỉ đồng, chiếm 43% tổng số chi cân đối
ngân sách nhà nước.
Chi 6.600 tỉ cho cải cách tiền lương
Dự toán chi ngân sách T.Ư (kể cả bằng nguồn vay nợ, viện trợ) theo lĩnh vực năm 2004 như sau: tổng số
chi cân đối ngân sách T.Ư 142.527 tỉ đồng. Trong đó chi ĐTXDCB 28.992 tỉ đồng; chi bổ sung quĩ hỗ
trợ xuất khẩu, thưởng xuất khẩu, hỗ trợ xuất khẩu cho một số mặt hàng quan trọng 300 tỉ đồng; chi cho
vay tôn nền nhà và làm nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, cho vay làm nhà đồng bào Tây nguyên 300 tỉ
đồng. Đầu tư cho Tổng công ty Dầu khí 2.500 tỉ đồng; chương trình 135: 1.550 tỉ.
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh: 48.529 tỉ đồng. Trong đó, chi cải cách tiền
lương: 6.600 tỉ, quản lý hành chính 3.154 tỉ, tinh giản biên chế: 300 tỉ; chi giáo dục, đào tạo, dạy nghề:
4.558 tỉ; chi phát thanh, truyền hình: 493 tỉ; chi khoa học, công nghệ: 1.732 tỉ; chi lương hưu và bảo
đảm xã hội: 14.262 tỉ đồng.
2. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2005:
So với kết quả tạm tính vào cuối năm 2005, báo cáo mới đây của Chính phủ
cho biết, tình hình cân đối thu chi ngân sách đầy đủ của năm 2005 và cả
nhiệm vụ ngân sách Nhà nước năm 2006 đã có những dấu hiệu tích cực trên
nhiều mặt. Trên cơ sở cân nhắc kết quả, khả năng và tình hình mới, Chính
phủ đã đề nghị tăng nhiều khoản thu chi trong quyết toán, nhiệm vụ ngân
sách Nhà nước trong giai đoạn tới.Theo báo cáo, kết quả thực tế thu cân đối
ngân sách Nhà nước năm 2005 là 217.080 tỷ đồng, vượt hơn 7.000 tỷ đồng
so với mức báo cáo và vượt 18,6% (34.080 tỷ đồng) so với dự toán.
Cụ thể, thu nội địa (không kể dầu thô) đạt 115.205 tỷ đồng vượt gần 10 tỷ
đồng so với dự toán. Đặc biệt, thu dầu thô dự toán chỉ 38.000 tỷ, báo cáo
55.500 tỷ nhưng thực tế đạt tới 61.533 tỷ, tăng 31,7% so với thực hiện năm
2004.
Các khoản thu khác cũng đều vượt tương tự: thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu đạt 38.000 tỷ, vượt 300 tỷ đồng so với dự toán và báo cáo, thu viện trợ

không hoàn lại đạt 2.342 tỷ đồng, tăng 142 tỷ so với con số báo cáo.
Nhiều khoản thu vượt mong đợi
Nhiều địa phương kết quả thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng khá so
với dự toán được giao: Bình Phước vượt 48,3%, Bà Rịa - Vũng Tàu 48,1%, Hải Dương 44,2%, Quảng
Ninh 40,4%, Đà Nẵng 34,4%, Bình Dương 33,2%, Hà Tây 30,5%, Hưng Yên 29,4%, Tp.HCM 7,1%...
Như vậy, trong số thu nội địa các khoản thu từ khu vực kinh tế quốc doanh, công thương nghiệp và dịch
vụ ngoài quốc doanh, thu từ nhà và đất đều có kết quả thực hiện tăng khá so với dự tính (tăng 3.234 tỷ
đồng).Ngoài ra, cũng phải kể đến các khoản thu từ doanh nghiệp FDI, thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao, phí và lệ phí, phí xăng dầu đã không đạt mức mong muốn, tấp hơn 3.029 tỷ đồng so với
Tên(+)
Tổng
thu
Tổng
chi
QuảngNinh 3.596 1.084
Hà Nội 22.439 4.156
Hải Phòng 8.304 1.612
VĩnhPhúc 2.142 691
Đà Nẵng 2.435 1.092
KhánhHòa 2.595 1.063
TP.HCM 47.457 9.288
Đồng Nai 5.209 1.775
BìnhDương 3.103 989
TâyNinh 802 704
Vũng Tàu 32.441 2.153
Long An 925 867
Tiền Giang 900 893
Vĩnh Long 700 635
Cần Thơ 1.562 1.146

×