Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Yếu tố thông tin trong công nghệ.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.82 KB, 23 trang )

Thành phần công nghệ
n
I = - ∑ P
i
log
2
P
i
i=1
Thông tin phản hồi
Phổ biến
Hướng dẫn
4
x
x
x
3
Lọc thông tin
2
Hệ tự nhiên xã hội
1
Hệ tự nhiên xã hội
1
Đối tượng bị quản trị
F
LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến sự phát triển của xã hội loài người, không thể không nói đến
sự phát triển và sự tác động của khoa học công nghệ. Vai trò của công nghệ
trong bất cứ giai đoạn nào của xã hội loài người cũng đã được lịch sử thừa
nhận và tiến bộ công nghệ là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển
của xã hội loài người. Trong thời đại ngày nay, công nghệ chính là công cụ


chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng và bền vững
trong môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Đặc biệt, đối với
một doanh nghiệp, nắm trong tay công nghệ phù hợp là nắm chắc một phần
của sự thắng lợi. Vậy làm thế nào để tiếp cận với công nghệ, đó chính là nhờ
thông tin. Thông tin chính là chìa khoá để tiếp cận những công nghệ tiên tiến
và hiện đại. Trong lĩnh vực quản lý công nghệ, thông tin được coi là “sức
mạnh” của một công nghệ thông qua những tri thức được tích luỹ. Với ý
nghĩa quan trọng như vậy, cần thiết phải đi sâu vào tìm hiểu “yếu tố thông tin
trong công nghệ”. Đó chính là đề tài của đề án môn học mà em đã chọn.
Trong quá trình hoàn thiện đề án, có thể không tránh khỏi còn có sai
sót, kính mong các thầy cô trong khoa giúp đỡ và đóng góp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Kết cấu của đề án ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm có hai phần :
Phần thứ nhất: Khái quát về công nghệ.
Phần thứ hai: Yếu tố thông tin trong công nghệ.
1
Phần thứ nhất
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ
1.1. KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHỆ:
1.1.1. Công nghệ là gì?
Có thể nói công nghệ xuất hiện đồng thời với sự hình thành xã hội loài
người. Trong nền sản xuất giản đơn là nền sản xuất mà sự tham gia, can thiệp
của máy móc hết sức hạn chế; các yếu tố đầu ra chủ yếu phụ thuộc vào khả
năng tổ chức, khai thác, điều hành và quản lý quá trình ấy; bởi vậy, công
nghệ được hiểu là nghệ thuật làm việc, tác động lên đối tượng lao động nhất
định sao cho đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn nhất. Định nghĩa này chưa
nêu được bản chất khoa học của công nghệ.
Cùng với sự phát triển ngày một mạnh mẽ của khoa học - công nghệ,
khái niệm công nghệ ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên việc đưa ra một
định nghĩa hoàn chỉnh lại chưa có được sự thống nhất. Đó là do số lượng các

công nghệ nhiều đến mức không thể thống kê, công nghệ lại hết sức đa dạng
khiến những người sử dụng một công nghệ cụ thể trong những điều kiện và
hoàn cảnh không giống nhau sẽ dẫn đến sự khái quát của họ về công nghệ là
khác nhau.
Các tổ chức quốc tế về khoa học - công nghệ đã có nhiều cố gắng trong
việc đưa ra một định nghĩa công nghệ có thể dung hoà các quan điểm, đồng
thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập của các quốc gia trong từng
khu vực trên phạm vi toàn cầu:
Theo định nghĩa của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp
Quốc UNIDO thì: “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghệ bằng
cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và
phương pháp”. Định nghĩa này lần đầu tiên nêu được bản chất khoa học của
công nghệ. Tuy nhiên, nó chưa thể hiện được việc áp dụng mô hình sản xuất
công nghiệp trong lĩnh vực phi công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ. Bởi vậy, nó
2
hạn chế xu thế công nghiệp hoá - hiên đại hoá trong lĩnh vực phi công
nghiệp.
Định nghĩa của Uỷ ban kinh tế và xã hội châu Á - Thái Bình Dương
ESCAP: “Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để
chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả các kĩ năng, kiến thức, thiết
bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông
tin”. Với định nghĩa này, khái niệm công nghệ đã được mở rộng ra cả lĩnh
vực dịch vụ và quản lý. Tuy nhiên, nó chưa thể hiện được quan hệ giữa khoa
học công nghệ với nguồn lực của doanh nghiệp hoặc quốc tế, cũng như quan
hệ nhân quả giữa lý thuyết và thực hành,…
Từ những định nghĩa trên, ta có thể rút ra một định nghĩa khái quát
nhất về công nghệ: Công nghệ là hệ thống tập hợp các kiến thức và kết quả
của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi nguồn lực tự nhiên thành mục tiêu sinh
lời cho xã hội.
1.1.2. Phân loại công nghệ:

Hiện nay số lượng công nghệ trên khắp thế giới là không thể tính được,
do đó việc phân loại công nghệ một cách chính xác và chi tiết là khó có thể
thực hiện được. Bởi vậy, tuỳ theo mục đích người ta có thể phân loại công
nghệ theo các tiêu thức sau:
Theo tính chất: có thể phân thành công nghệ dịch vụ, công nghệ
thông tin, công nghệ giáo dục, công nghệ tin học,…
Theo ngành nghề: có công nghệ công nghiệp, công nghệ nông nghiệp,
công nghệ vật liệu,…
Theo đặc tính công nghệ: có công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng
loạt, công nghệ liên tục,…
Theo sản phẩm: có công nghệ cổ điển, công nghệ trung gian, công
nghệ tiên tiến,…
3
Theo đặc thù: căn cứ vào vai trò của công nghệ đối với một quốc gia
ta có thể phân thành công nghệ then chốt, công nghệ truyền thống, công nghệ
mũi nhọn.
Theo mục tiêu: có thể phân thành công nghệ dẫn dắt, công nghệ thúc
đẩy, công nghệ phát triển.
Theo sự ổn định của công nghệ: có công nghệ phần cứng và công
nghệ phần mềm.
1.2. THÀNH PHẦN CÔNG NGHỆ:
Có hai quan điểm về thành phần công nghệ:
1.2.1. Quan điểm điều chỉnh theo công nghệ hiện đại, công nghệ cao,
công nghệ mới ra đời:
Theo quan điểm này công nghệ gồm có hai thành phần là phần cứng
công nghệ và phần mềm công nghệ.
Phần cứng công nghệ gồm máy móc, trang thiết bị, công cụ,… Trong
công nghệ sản xuất, các vật thể này thường làm thành dây chuyền để thực
hiện quá trình biến đổi (thường gọi là dây chuyền công nghệ), ứng với một
quy trình công nghệ nhất định, đảm bảo tính liên tục của quá trình công nghệ

Phần mềm công nghệ: đặc trưng của phần này là chất xám, trí tuệ. Nó
bao gồm công nghệ hàm chứa trong kĩ năng công nghệ của con người làm
việc trong công nghệ, công nghệ hàm chứa trong khung thể chế để xây dựng
cấu trúc tổ chức, công nghệ hàm chứa trong các dữ liệu đã được tư liệu hoá
được sử dụng trong công nghệ.
1.2.2. Quan điểm Atlat công nghệ của Liên Hợp Quốc:
Theo quan điểm này, công nghệ gồm có bốn thành phần.
T H I O
1.2.2.1. T: máy móc, trang thiết bị:
4
Đây là phần vật thể ở trong công nghệ, bao gồm mọi phương tiện vật
chất như trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng, kho tàng,… Bất kì công nghệ
nào cũng phải chứa đựng bên trong nó phần thiết bị. Phần này được coi là cốt
lõi của công nghệ. Nó được triển khai, lắp đặt và vận hành bởi con người.
1.2.2.2. H: Phần con người:
Con người ở đây có thể là người sử dụng, vận hành, cũng có thể là
người chế tạo, cải tiến máy móc,… Con người trong công nghệ được hiểu là
năng lực của con người về công nghệ như kĩ năng, kinh nghiệm, sự sáng tạo,
khả năng lãnh đạo,… Con người là yếu tố quyết định, không những làm cho
máy móc thiết bị phát huy hết khả năng của chúng mà còn đóng vai trò chủ
động trong công nghệ. Tuy nhiên, con người lại chịu sự chi phối của thông tin
và tổ chức.
1.2.2.3. I: Phần thông tin:
Phần thông tin thể hiện tri thức được tích luỹ trong công nghệ. Nó bao
gồm toàn bộ tài liệu chuyên môn nghiệp vụ liên quan; toàn bộ số liệu, dữ
liệu, thông số cơ bản liên quan; sơ đồ nguyên tác, nguyên lý lắp ráp; bản vẽ
thiết kế, bí quyết công nghệ,…Có những phần tri thức này có thể rút ngắn
được thời gian, sức lực khi giải quyết các công việc có liên quan đến công
nghệ.
1.2.2.4. O: Phần tổ chức:

Bất kỳ hệ thống nào cũng cần phải có một tổ chức để điều hành hoạt
động của hệ thống. Công nghệ cũng vậy, nó cần phải có một bộ phận chịu
trách nhiệm phối hợp các thành phần còn lại của công nghệ với nhau để đảm
bảo sự hoạt động có hiệu quả nhất. Phần tổ chức giúp cho việc quản lý, lập kế
hoạch, tổ chức bộ máy nhân lực, kiểm soát các hoạt động biến đổi,…Nó phụ
thuộc vào độ phức tạp của các phần thiết bị và thông tin trong công nghệ
Như vậy, các thành phần của một công nghệ có quan hệ mật thiết, hỗ
trợ và bổ sung cho nhau, không thể thiếu bất cứ một thành phần nào. Trong
5
mối quan hệ này, phần thông tin đóng một vai trò quan trọng. Nó biểu hiện
các tri thức được tích luỹ trong công nghệ và giúp trả lời câu hỏi: “Làm cái
gì?” và “Làm như thế nào?”. Bởi vậy, phần thông tin được coi là “sức mạnh”
của một công nghệ, là một yếu tố không thể thiếu của công nghệ hiện đại.
Phần thứ hai
YẾU TỐ THÔNG TIN TRONG CÔNG NGHỆ
6
2.1. KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA YẾU TỐ THÔNG TIN TRONG
CÔNG NGHỆ:
2.1.1. Khái niệm:
Thông tin là một khái niệm rộng và đã có từ lâu đời. Tùy thuộc vào
lĩnh vực nghiên cứu mà người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau và giới
hạn khái niệm đó nhằm phục vụ lại mục đích nghiên cứu.
Dưới khía cạnh triết học mà xét: thông tin là một quá trình từ phản ánh
đến tiếp nhận phản ánh, biến phản ánh thành hiểu biết, tri thức để khám phá
bản chất của đối tượng được phản ánh, từ đó điều khiển đối tượng, hệ thống
đang xem xét.
Dưới khía cạnh sản lượng: thông tin là một độ đo giảm tính bất định
của một sự việc. Nó được thể hiện bởi công thức:
(Đơn vị: Bit)


Dưới khía cạnh lợi ích của thông tin thì lợi ích của thông tin nằm ngay
trong nội dung của bản tin. Cùng một thông tin nhưng với các đối tượng khác
nhau thì lợi ích của thông tin đó là khác nhau.
Từ sự phân tích ba khía cạnh trên, ta đưa ra khái niệm tổng quát về
thông tin như sau: Thông tin là những kiến thức mới được thừa nhận, đánh
giá là những kiến thức có ích nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giải quyết
một vấn đề nào đó.
Trong công nghệ: Thông tin công nghệ là những đại lượng được đo
lường, những tín hiệu được thu nhận, được hiểu và được đánh giá là có ích
trong việc ra quyết định liên quan công nghệ.
2.1.2. Một số đặc trưng cơ bản:
2.1.2.1. Thông tin gắn liền với quá trình điều khiển:
7
Bản thân thông tin không có mục đích tự thân. Nó chỉ tồn tại và có ý
nghĩa trong một hệ thống điều khiển nào đó. Thông tin công nghệ, dù ở bất kì
hình thức nào: bảng biểu, bản vẽ, kí hiệu,…đều là những yếu tố cơ bản của
một quá trình thành lập, lựa chọn và phát ra quyết định để điều khiển một hệ
thống công nghệ.
2.1.2.2. Thông tin có tính tương đối:
Phương pháp phân tích hệ thống đã khẳng định tính bất định của một
quá trình điều khiển phức tạp. Tính bất định đó chính là tình trạng không có
đầy đủ thông tin. Điều này cũng có nghĩa là mỗi thông tin chỉ là một sự phản
ánh chưa đầy đủ về hiện tượng và sự vật được phản ánh, đồng thời nó cũng
phụ thuộc vào trình độ và khả năng của nơi nhận phản ánh.
2.1.2.3. Tính định hướng của thông tin:
Thông tin phản ánh mối quan hệ giữa đối tượng được phản ánh và nơi
nhận phản ánh, đây là mối quan hệ hai ngôi.
Phản ánh
Ngôi thứ nhất Ngôi thứ hai
Hiểu biết

Tri thức
Hình 1: Sơ đồ thể hiện tính định hướng của thông tin
Từ đối tượng được phản ánh tới chủ thể nhận phản ánh được coi là
hướng của thông tin. Thiếu một trong hai ngôi thông tin không có hướng và
thực tế không còn ý nghĩa của thông tin nữa.
2.1.2.4. Mỗi thông tin đều có vật mang tin và lượng tin:
Bản thân thông tin không phải là vật chất nhưng luôn tồn tại trong vật
mang tin. Thông tin là linh hồn còn vật mang tin là cái vỏ vật chất. Trên một
vật mang tin có thể có nhiều nội dung tin và thông tin thường thay đổi vật
mang tin trong quá trình lưu chuyển của mình.
8
Khái niệm khối lượng tin được dùng cho việc đo quy mô của vật mang tin,
có thể gọi là độ dài bản tin. Đơn vị kỹ thuật tin học để đo bản tin hiện nay là Bit.
2.2. VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN TRONG CÔNG NGHỆ:
Có thể nói rằng thông tin công nghệ là phương tiện để thống nhất mọi
hoạt động liên quan đến công nghệ; là mắt xích kết nối các yếu tố con người,
trang thiết bị, tổ chức trong công nghệ thành một chuỗi hoạt động lôgic. Như
vậy, nó chính là mạch máu của hệ thống công nghệ. Mọi hoạt động của hệ
thống này đều phụ thuộc vào thông tin để hợp tác, hợp nhất sao cho có hiệu
quả nhất.
Thông tin còn là cầu nối giữa tổ chức, doanh nghiệp với môi trường
công nghệ bên ngoài. Chính qua thông tin mà các doanh nghiệp trở thành một
hệ thống mở tác động tương hỗ với môi trường công nghệ, bởi vậy nó là cơ
sở để đề ra các quyết định về công nghệ như quyết định lựa chọn công nghệ,
đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ,… Mọi doanh nghiệp tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng đến mục đích lợi nhuận tối đa,
muốn vậy phải kiếm được “đầu vào” với chi phí thấp nhất. Đầu vào dây
chuyền công nghệ nếu hoạt động hiệu quả sẽ giúp tiết kiệm nguyên nhiên
liêu, giảm sức người, sức của. Việc tìm kiếm một dây chuyền như vậy không
quá khó khăn nhưng cũng không phải đơn giản, vấn đề quan trọng là doanh

nghiệp phải có được những thông tin cần thiết để quyết định chọn nơi mua
bán có lợi nhất cả về giá cả và hiệu quả sử dụng. Xu hướng kinh tế thế giới
cũng đang thay thế sự tăng mức lợi nhuận chủ yếu bằng mở rộng quy mô sản
xuất sang thực hiện tối ưu hóa quá trình sản xuất, đầu tư chiều sâu và áp dụng
các kĩ thuật công nghệ mới. Trong lĩnh vực này, người ta đang bỏ ra rất nhiều
công sức và chi phí để có được những thông tin mới mẻ, đôi khi mang tính
chất giành giật quyết định. Như vậy, thông tin công nghệ góp phần phục vụ
tối ưu hóa các yếu tố sản xuất.
Thông tin công nghệ thể hiện tri thức được tích lũy trong công nghệ.
Nhờ các tri thức này mà các sản phẩm của nó có các đặc trưng mà sản phẩm
cùng loại của các công nghệ khác làm ra không thể có được. Đối với cùng
một công nghệ nếu áp dụng những kiến thức khác nhau cũng có thể tạo ra
9

×