Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN một số biện pháp giảm thiểu tỷ lệ học sinh yếu kém, xây dựng chất lượng lớp chủ nhiệm 10a5 ở trường THPT số 2 văn bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.02 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Tran
g

BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
IV. Phạm vị nghiên cứu
V. Đối tượng nghiên cứu
VI. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Nghiên cứu tâm lý giáo dục đối với học sinh yếu kém
2. Tìm hiểu đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm
3. Tạo niềm tin đối với học sinh
4. GVCN lập kế hoạch cá biệt để giúp đỡ từng học sinh yếu kém tiến
bộ, cuối năm học có thể được lên lớp
5. Khắc phục hiện tượng “nghiện” Game.

2
3
3
4
4
4


4
4
5
5
7
9
9
10
14
20
22

6. Nâng cao hiệu quả phối hợp với gia đình và phụ hunh học sinh:

24

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
30
TÀI LIỆU THAM KHẢO

32

BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Viết tắt

Nội dung

STT


Viết tắt

Nội dung


1

CBQL

2

CCCM

3

CMHS

4

GV

5

GVCN

6

HS


Cán bộ quản lý

7

HSG

Học sinh giỏi

8

HSTT

Học sinh tiên tiến

Cha mẹ học sinh

9

PHHS

Giáo viên

10

SGK

11

TNCS


12

THPT

Có cơng cách
mạng

Giáo viên chủ
nhiệm
Học sinh

Phụ huynh học
sinh
Sách giáo khoa
Thanh niên cộng
sản
Trung học phổ
thông

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

2


Trong các năm qua, tôi đã nghiên cứu rất nhiều tài liệu, đọc một số sách
báo về các phương pháp học tập hiệu quả và phát triển bản thân trong thanh
thiếu niên, học sinh nhằm giúp các em thành công cả trong học đường lẫn cuộc
sống. Nhờ thế mà tôi có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều học sinh với những thái độ
và cách hành xử khác nhau.

Một số em sống lạc quan, tự tin và đầy quyết tâm trong học tập nên đạt
những thành tích tốt về các mặt trong học tập, thể thao, văn nghệ. Trong khi đó,
có những em hồn tồn dửng dưng với việc học, ln sống trong tâm trạng sợ
hãi, có thái độ tiêu cực, nổi loạn và không màng đến tương lai. Từ những điều
mắt thấy tai nghe hàng ngày, trong tôi luôn trăn trở một câu hỏi lớn, sao lại có
sự khác biệt to lớn đến như thế. Có phải đó là những tính cách khác nhau được
hình thành từ lúc cha sinh mẹ đẻ? Hay so tác động của bạn bè xung quanh? Vì
những ngơi trường khác nhau mà các em đang học? Do ảnh hưởng của thầy cô
trong trường? Hay chỉ đơn giản là do chế độ dinh dưỡng hàng ngày của các em?
hoặc rộng hơn, do hoàn cảnh kinh tế xã hội?...
Mặc dù tất cả các yếu tố trên đều ít nhiều ảnh hưởng đến mỗi cá nhân
trong một chừng mực nào đó, tơi phát hiện ra rằng, yếu tố lớn nhất và quan
trọng nhất hình thành thái độ, hành vi và do đó tương lai của một đứa trẻ chính
là cách dạy dỗ của cha mẹ đối với con cái, do ý thức của HS, phương pháp giáo
dục và lịng nhiệt tình của các giáo viên bộ mơn cũng như GVCN.
Tôi cũng khám phá ra rằng, nếu cha mẹ có cách nghĩ tích cực và dành thời
gian để bảo ban, trị chuyện và nâng đỡ con em thì chúng sẽ tin tưởng vào bản
thân hơn, có động lực mạnh mẽ hơn và thành công hơn. Điều này cũng đúng với
những HS sinh trưởng trong gia đình nghèo, học ở “trường làng” và thậm chí kể
cả khi sống trong một môi trường không tốt. Thêm một phát hiện nữa, những
đứa trẻ có nhiều biến chuyển tích cực nhất và thành cơng nhất sau các khóa đào
tạo đều là con của những người cha người mẹ thật sự cảm thông và tích cực hỗ
trợ con cái trên con đường học tập.

3


Q trình tìm tịi để giải đáp cho nỗi băn khoăn trên là lý do để tôi viết đề
tài “Một số biện pháp giảm thiểu tỷ lệ học sinh yếu kém, xây dựng chất
lượng lớp chủ nhiệm 10A5 ở trường THPT Số 2 Văn Bàn”.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở, phân tích, đánh giá đúng thực trạng cơng tác chủ nhiệm lớp
trong những năm vừa qua, qua đúc rút kinh nghiệm bản thân để hệ thống một số
biện pháp chính giúp giảm thiểu tỷ lệ học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng lớp
chủ nhiệm, khắc phục tình trạng học sinh càng yếu càng chán học.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt mục đích trên, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tâm lý lứa tuổi học sinh.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá đúng thực trạng và những vấn đề gặp
phải trong công tác chủ nhiệm lớp của bản thân và các giáo viên khác trong nhà
trường
- Hệ thống một số biện pháp chính giúp xây dựng và quản lý lớp chủ
nhiệm đạt hiệu quả cao, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ giới hạn về thời gian và trình độ nhận thức của bản thân,
đề tài “Một số biện pháp giảm thiểu tỷ lệ học sinh yếu kém, xây dựng chất
lượng lớp chủ nhiệm 10A5 ở trường THPT Số 2 Văn Bàn” chỉ phân tích thực
trạng các biện pháp giáo dục học sinh yếu lớp chủ nhiệm, nâng cao chất lượng
lớp chủ nhiệm, tổng kết kinh nghiệm bản thân để hệ thống thành các giải pháp
nhằm xây dựng chất lượng lớp chủ nhiệm 10A5 ở trường THPT Số 2 Văn Bàn.
V. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh lớp 10A5 trường THPT Số 2 huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý ḷn
Gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, so sánh, phân loại
các tài liệu khoa học và các văn bản pháp qui của nhà nước, của ngành, của địa

4



phương có liên quan... Nhằm tìm hiểu, xây dựng cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, cơ
sở thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Gồm phương pháp đàm thoại, quan sát, phỏng vấn, trưng cầu ý kiến, tổng
kết kinh nghiệm của các GVCN khác, khảo nghiệm...
Phương pháp đàm thoại: Để tìm hiểu thực trạng học sinh yếu kém và
các biện pháp mà GVCN đã áp dụng để giáo dục đối tượng học sinh này, tôi đã
tiến hành phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với các CBQL nhà trường, GVCN và bản
thân HS trong nhà trường.
Phương pháp điều tra: Tơi đã tìm hiểu hiệu quả công tác GVCN đối
với việc giáo dục học sinh yếu kém ở trường THPT Số 2 Văn Bàn thông qua hệ
thống các câu hỏi, các phiếu khảo sát xin ý kiến các CBQL, GV và HS, nhằm
thu thập ý kiến chủ quan của các thành viên.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Là sự kết hợp giữa lý luận quản lý
về phối hợp các lực lượng giáo dục với thực tiễn, là q trình đem lý luận quản
lý phân tích những kinh nghiệm thực tiễn kinh nghiệm giáo dục học sinh lớp chủ
nhiệm.
3. Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ
Gồm các phương pháp thống kê, toán học, biểu bảng, sơ đồ …

5


PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Vị trí, vai trị của GVCN:
- Là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ HS quản
lý tồn diện tập thể HS lớp mình, phấn đấu theo mục tiêu chung của nhà trường.
- Là người lãnh đạo, tổ chức điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các
mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách.

- Là nhân vật trung tâm để hình thành nhân cách cho HS và là cầu nối
giữa nhà trường và xã hội.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của GVCN :
- Chức năng của GVCN lớp:
+ Xây dựng tổ chức lớp thành một đơn vị vững mạnh.
+ Tổ chức điều khiển lãnh đạo các hoạt động giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện.
+ Thiết lập và phát triển mối quan hệ với các lực lượng giáo dục trong và
ngoài trường để giáo dục HS.
- Nhiệm vụ của GVCN :
+ Tìm hiểu và nắm vững HS trong lớp về mọi mặt giáo dục để đẩy mạnh
sự tiến bộ của lớp.
+ Cùng các giáo viên khác và cán bộ Đồn, Hội phối hợp nhanh chóng,
nhất là biện pháp đẩy mạnh một tập thể vững mạnh, giúp đỡ và tạo điều kiện
cho Đoàn, Hội của lớp hoạt động và phát huy ý thức làm chủ, tự giác và chủ
động của học sinh trong các hoạt động giáo dục.
+ Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh trong nhiệm vụ giáo dục các
em.
+ Phối hợp với các giáo viên khác, với Đồn TNCS Hồ Chí Minh, với gia
đình học sinh tổ chức nhận xét đánh giá và xếp loại học sinh vào cuối kì và cuối
năm học theo nội dung và tiêu chuẩn quy định của Bộ Giáo dục, đề nghị khen
học sinh, đề nghị danh sách HS được lên lớp, phải ở lại lớp và danh sách được
giao nhiệm vụ học tập hoặc rèn luyện thêm trong hè.
6


- Quyền hạn của GVCN:
+ Được cung cấp phương tiện và tài liệu cần thiết để tiến hành nhiệm vụ.
+ Được tham dự và biểu quyết trong hội đồng kỷ luật và khen thưởng khi
các tổ chức này giải quyết những vấn đề liên quan đến học sinh của lớp mình

phụ trách.
+ Được quyền cho học sinh nghỉ học, được quyền đề nghị khen thưởng và
thi hành kỷ luật học sinh trong phạm vi thể lệ quy định.
3. Quy trình công tác của GVCN lớp:
Để đảm bảo công tác chủ nhiện lớp đạt hiệu quả cao, người giáo viên chủ
nhiệm lớp phải tuần thủ một số quy trình sau:
a. Điều tra đối tượng học sinh: Cụ thể là tìm hiểu tình hình mọi mặt của
học sinh lớp mình, hồn cảnh đặc biệt, đặc điểm, cá tính, điều kiện sống... của
từng em. Đối với những học sinh có dạng cá biệt để có những biện pháp giáo
dục thích hợp.
b. Xây dựng kế họch chủ nhiệm: Kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp phải
căn cứ vào chủ trương của nhà trường và tình hình thực tế của lớp. Cần xây
dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch học kỳ, kế hoạch tháng và kế hoạch tuần.
c. Chỉ đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch:
- Bồi dưỡng năng lực tổ chức, chỉ đạo và thực hiện kế hoạch cho đội ngũ
cán bộ lớp, để các em làm tốt nhiệm vụ được giao.
- Tổng kết đúc rút kinh nghiệm sau mỗi đợt công tác, có khen, có chê đối
với tập thể cùng như cá nhân.
- Trong khi điều hành công việc của lớp mình, mỗi GVCN phải có một số
cơng tác chủ nhiệm để ghi chép theo dõi hằng ngày.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thuận lợi
- Làm GVCN ai cũng đã từng gặp phải trong lớp mình có những HS cá
biệt như: Học lực yếu, hay cùng trốn tiết, trốn học, ngủ trong giờ học, vơ lễ với
GV… tóm lại những HS này khơng có niềm tin và động lực để học tập…khi
GVCN mời PHHS thì PHHS cũng bó tay, than phiền nhờ thầy cô giúp đỡ….
7


- Phấn đấu để đạt được kết quả học tập cao cho tất cả học sinh trong các

điều kiện của nền giáo dục THPT là nhiệm vụ phức tạp và rất quan trọng, nhưng
kinh nghiệm của các trường và của các giáo viên giàu kinh nghiệm đã khẳng
định rằng, nhiệm vụ này có thể hồn tồn thực hiện được. Nhiều trường phổ
thơng và nhiều giáo viên khơng có một học sinh lưu ban nào trong q trình
nhiều năm cơng tác.
- Cuộc đấu tranh vì chất lượng kiến thức cao, việc ngăn ngừa tình trạng
học kém và lưu ban là một vấn đề giáo dục quam trọng nhất địi hỏi khơng chỉ
áp dụng các phương pháp dạy học hợp lí nhất và hồn thiện q trình học tập,
mà nó cịn có liên quan điến việc hình thành đạo đức của học sinh đang thường
xuyên phát triển, đến việc giáo dục các phẩm chất đạo đức như lịng tơn trọng
nghĩa vụ, tinh thần trách nhiệm, tính tổ chức, sự cần mẫn, sự bền bỉ và ý thức tập
thể …Vì thế nên kết quả học tập của học sinh không chỉ phụ thuộc vào hoạt
động dạy học của các giáo viên bộ môn mà ở một mức độ đáng kể còn phụ
thuộc vào cơng tác giáo dục khéo léo và có mục đích của giào viên chủ nhiệm
và vào mối quan hệ của họ với gia đình học sinh. Vì vậy trong cơng tác chủ
nhiệm người giáo viên cần chuẩn bị cho mình những kiến thức, kỉ năng, kỉ xảo
cần thiết cho công tác với học sinh yếu, kém.
- Cần phải chỉ ra rằng, rất đáng tiếc là trong sách báo sư phạm hiện nay có
rất ít cơng trình đề cập đến vấn đề này, đặc biệt ít có tài liệu nói cụ thể về công
tác giáo dục với hoc sinh học kém.
2. Khó khăn:
- Một điều khó khăn lớn là đối tượng HS nghiên cứu có địa bàn phân bố
rộng, có những gia đình HS ở cách xa trường vài chục cây số, đường đến trường
lầy lội, khơng có điện thoại liên lạc, kinh tế gia đình khó khăn…..Khả năng nhận
thức tư duy của các em không đồng đều và thường không ổn định, sở thích nhu
cầu có nhiều khác biệt, động cơ học tập và hứng thú cũng khác biệt nhau rất
nhiều, số lượng HS trong một lớp đông.

8



- Tuy nhiên động lực lớn nhất
đối với mỗi giáo viên chúng tôi là
được sự động viên an ủi, tin tưởng
của nhà trường, của các đồng
nghiệp, PHHS và các cấp chính
quyền địa phương.
- Vì vậy với những kinh
nghiệm trong nhiều năm cơng tác
chủ nhiệm tơi xin trình bày một số
các biện pháp mà tôi đã thực hiện
trong những năm qua và mang lại
nhiều khả quan.

III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Nghiên cứu tâm lý giáo dục đối với học sinh yếu kém
- Qua khảo sát tìm hiểu đối nhiều HS của nhiều thế hệ mà tôi đã công tác
giảng dạy và làm chủ nhiệm thì nhiều HS cho rằng có rất nhiều vấn đề khó khăn
khiến các em gặp thất bại trong học tập. Và một số giáo viên chủ nhiệm nghĩ các
HS giỏi không bao giờ gặp phải những vấn đề như thế. Một kết quả nghiên cứu
cho thấy hầu hết các HS, kể cả nhũng HS giỏi đều có chung 16 vấn đề khó khăn
phổ biến sau đây:
+ Trí nhớ kém
+ Thích trì hỗn cơng việc
+ Lười biếng
+ Nghiện trị chơi điện tử, xem tivi, internet
+ Gặp khó khăn trong việc hiểu bài giảng
+ Dễ dàng bị sao lãng
+Khả năng tập trung ngắn hạn
+ Mơ màng trong lớp học


9


+ Sợ thi cử
+ Hay phạm lỗi do bất cẩn
+ Chịu áp lực từ gia đình
+ Có q nhiều thứ để học và
q ít thời gian
+ Khơng có động lực học
+ Dễ dàng bỏ cuộc
+ Thầy cô dạy không lôi cuốn
+ Khơng có hứng thú đối với
mơn học

- Việc nghiên cứu các nguyên nhân học kém là một nhiệm vụ vơ cùng khó
khăn đối với người giáo viên chủ nhiệm. Để giảm nhẹ cho công việc thu thập tài
liệu về HS học yếu, kém chúng ta cần phải có những chương trình đặc biệt.
Trong chương trình này có điểm ra những điều cần biết về HS. Chương trình
cần nghiên cứu đầy đủ toàn diện về HS bao gồm: Nghiên cứu hoạt động nhận
thức, lĩnh vực tình cảm, ý chí, hành vi và tình hình thể lực của các em. Căn cứ
vào các dữ liệu như: trạng thái xúc cảm, lí trí hành vi và tình trạng thể lực, trạng
thái chú ý và trí nhớ hoặc chức năng tâm lí riêng biệt nào đó của các em HS.
- Khi bắt tay vào nghiên cứu HS yếu, kém người GVCN cần thiết lập mối
quan hệ cần thiết với em HS. Điều này sẽ giúp cho việc tìm hiểu được tốt hơn
những đặc điểm cá nhân của HS. Nhằm mục đích này tơi thường dự giờ các giờ
học lớp chủ nhiệm, thăm gia đình, tham dự vào các hoạt động ngoại khóa, tham
gia trị chuyện cùng HS.
2. Tìm hiểu đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm
- Ngay khi tiếp nhận lớp chủ nhiệm, việc đầu tiên cần làm là tìm hiểu đối

tượng học sinh, hồn cảnh gia đình, sở trường, sở thích, tính cách … để từ đó có
những đánh giá chính xác nhất về từng đối tượng, trên cơ sở đó có những biện
pháp giáo dục phù hợp.
Các biện pháp chủ yếu để tìm hiểu đối tượng là:
10


2.1. Thông qua phiếu điều tra thông tin học sinh
PHIẾU ĐIỀU TRA HỌC SINH ĐẦU NĂM
1. Họ tên học sinh: ………………………………………Nam/ Nữ:………….…
2. Ngày tháng năm sinh:…………… Nơi sinh:…………………………………..
3. Quê quán:……………………………………………………………..………...
4. Dân tộc:……………………………….Tơn giáo:………….…….………….
5. Đồn viên/Đội viên:……………………Ngày vào Đồn:……….…….………
6. Chỗ ở hiện nay (Số nhà, tổ, thôn bản /khu phố, xã/ thị trấn, huyện, tỉnh):
……………………………………………………………………………...
7. Địa chỉ, số điện thoại nơi ở trọ (nếu có): ……………………………………..
8. Phương tiện đi học:……………………………………………
9. Kết quả học tập năm trước: + Học lực:…………… + Hạnh kiểm:……..
+ Các môn học tốt nhất:…………………………………………………………..
+ Môn học chưa tốt:……………………………………………………………....
10. Chức vụ đã làm những năm học trước:…………………………………….…
11. Năng lực, sở trường của bản thân: …………………………………………...
12. Sở thích cá nhân:……………………………………………………………...
13. Ước mơ nghề nghiệp:…………………………………………………………
14. Khó khăn của bản thân hiện nay:……………………………………………..
15.Tự đánh giá hạn chế của bản thân:…………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
16. Người bạn thân nhất (Họ tên, học lớp nào, trường nào/đang làm gì, số điện
thoại):……………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………
17. Họ tên cha:……………………… Năm sinh:……… Nghề nghiệp:…………
18. Họ tên mẹ:……………………… Năm sinh:………..Nghề nghiệp:…….…...
19. Địa chỉ, số điện thoại liên lạc với PHHS:………………………………..…
20. Họ tên, nghề nghiệp, số điện thoại của anh, chị, em ruột:………….………
………………………………………………………………………….…………
……………………………………………………………………….……………
11


21. Thuộc diện con liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình CCCM: ………….
22. Gia đình thuộc diện đói, nghèo, cận nghèo:…………………………………
2.2. Tìm hiểu đặc điểm học sinh thơng qua quan sát học sinh học tập,
vui trơi hoặc bằng việc trao đổi, trò chuyện với học sinh, phụ huynh, GVCN
cũ … của các em.
- Việc quan sát phải lâu dài và có hệ thống để sao cho các kết luận rút ra
từ các sự kiện quan sát được không phải là những kết luận tình cờ và hời hợt,
chúng phải phản ánh được những đặc điểm cá nhân đáng kể của HS, cho phép
theo dõi em HS trong sự phát triển của em đó, việc quan sát cần phải sâu sắc, nó
bao gồm khơng chỉ một sự ghi chép chính xác và đầy đủ các sự kiện và hiện
tượng về hành vi của HS mà cịn giải thích đúng đắn các sự kiện và hiện tượng
này, vì rằng việc quan sát không chỉ nhằm mô tả các hành động bên ngồi của
HS mà cịn phải tìm ra các động cơ và nguyên nhân của những hành động này.
Đây cũng là mục đích cơ bản của sự quan sát: Xuất phát từ những sự kiện bên
ngoài của việc quan sát phải vạch ra được những đặc điểm cá nhân của HS và
những đặc điểm đặc thù về nhân cách của em đó.
- Hiệu quả của các cuộc trị chuyện phụ thuộc vào sự suy nghĩ kĩ càng về
phương pháp tiến hành chúng, tùy thuộc vào kĩ năng, nghệ thuật và sự lịch thiệp
cùa giáo viên. Các thủ thuật tiến hành phải được cá biệt hóa tối đa và chúng phải
nhất thiết thay đổi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể , tùy theo cá tính của

em học sinh cần nghiên cứu. Khi tiến hành các cuộc trò chuyện cần phải lưu ý
không chỉ tới nội dung các câu trả lời của HS, mà cần phải tới cả cách thể hiện
bên ngồi của HS trong khi trả lời, tới tính cách giọng nói và cách diễn đạt ngơn
ngữ.
- Những cái mà HS đã làm như bài làm văn, bài báo tường, sổ nhật kí, bức
tranh vẽ, hình vẽ, vở HS, các mơ hình…sẽ cho ta nhiều điều q báu nêu lên
được đặc điểm của HS. Tất cả những dạng sáng tạo này của các em sẽ giúp ta
tìm ra được những đặc điểm cá nhân của các em chỉ trong trường hợp nếu như
sự phân tích những sản phẩm này là khách quan, và những cứ liệu thu nhận
được sẽ được đối chiếu với những sự kiện khác nhận được bằng các thủ pháp
12


khác về mặt phương pháp. Quy tắc này cịn có liên quan đến việc sử dụng các
bài tập thực nghiệm trong khi nghiên cứu các q trình tâm lí riêng biệt của HS.
- Một trong những yêu cầu quan trọng đối với công tác nghiên cứu HS
học kém là việc tiến hành ghi chép có hệ thống các sự kiện quan sát trong một
cuốn sổ tay dành riêng cho mục đích này. Trong q trình nghiên cứu HS, sổ tay
được sử dụng theo một hệ thống nhất định và có kế hoạch, nó cho phép ta nhìn
thấy sự phát triển và vận động của HS, lập được kế hoạch đúng đắn cho tồn bộ
cơng tác giáo dục và giảng dạy HS. Xin trích dẫn ra đây 1 ví dụ cụ thể như sau:
Trong thời gian làm công tác chủ nhiệm khi tiến hành làm công tác cá
biệt với HS kém như trường hợp của HS Dỗn Đình Trưỡng học lớp 11A1 năm
học 2010 - 2011. Trong những năm trước Trường học kém và em phải thi lại để
lên lớp, trong các giờ học em không chăm chú, thường xuyên nghỉ học đi chơi
điện tử. Khi trong lớp tiến hành kiểm tra, em cảm thấy mình khơng được tự tin,
tất cả sự chú ý của em đều nhằm vào việc làm sao để có thể chép bài của bạn
mà thầy giáo không thấy. Phần lớn các giáo viên bộ môn đều cho rằng HS
Trường khơng có năng lực mà lại lười biếng. Với vai trò là giáo viên chủ nhiệm
khi quan sát tơi thấy Trường có năng lực bình thường và có sự phát triển chung

khơng phải là kém. Điều này được thể hiện qua cách nói có văn hóa của em,
qua sự hứng thú của em đối với thể thao và đối với việc đọc sách báo ở thư viện.
Nhưng Trường chưa có thái độ đúng đắn đối với việc học tập, em thiếu các kỹ
năng và kỹ xảo lao động độc lập, sự chú ý có chủ định ở em chưa được phát
triển cũng như thiếu một vài phẩm chất cần thiết cho hoạt động lao động.
Khi đến thăm gia đình Trường, tơi càng tin tưởng vào sự đúng đắn về
những kết luận của mình hơn. Trường là đứa con trai độc nhất nên rất được
chiều chuộng trong gia đình. Cha hoặc mẹ đã làm tất cả, Trường khơng tự lực
làm cái gì cả. Từ những ngày đầu học tập, cha mẹ đã giúp em trong những khó
khăn nhỏ nhặt nhất. Một sự bảo trợ quá ư tỉ mỉ như vậy đã làm giảm ý chí, năng
lực và sáng kiến của em và chẳng bao lâu em đã không để ý đến việc lúc nào
cần phải ngồi chuẩn bị bài vở, vì rằng tất cả những cái đó đã được mẹ em làm
hộ.
13


Tôi đã phải làm việc nhiều để thay đổi cách giáo dục Trường trong gia
đình. Trước hết cần phải thuyết phục cha mẹ về sự sai lầm của các hành động
của họ, sau đó cùng với họ xác định các biện pháp giáo dục tiếp tục Trường. Họ
đã xây dựng hệ thống giáo dục cho Trường những thói quen, kỹ năng, động cơ
và tình cảm cần thiết cho việc học tập. Ví dụ, tơi và cha mẹ đã địi hỏi Trường
phải hoàn toàn tự lực thực hiện tốt các bài tập về nhà. Khi bài có thiếu sót nhỏ,
hoặc làm cẩu thả, hoặc chưa hoàn thiện, họ động viên em phải làm lại hoặc sửa
đúng. Mỗi một bài làm tốt đều được thưởng, và điều này gây cho em lòng tin
tưởng vào sức lực của mình và tạo ra cảm xúc tốt. Việc tổ chức các bài tập bổ
sung nằm mục đích dạy cho em các học đã có ảnh hưởng lớn lao đến việc hành
thành các kỹ năng, kỹ xảo, đến việc giáo dục nhiều phẩm chất cần thiết để học
tập tốt. Kết quả của công việc rất tinh tế, bền bỉ và hết sức chú ý của tôi và của
gia đình đã làm cho em Trường có được sự hào hứng học tập và thích thú lao
động nói chung và kết quả học tập về các bộ môn đã được nâng lên một cách rõ

rệt, cuối năm học lớp 11 em đạt được danh hiệu HSTT.
- Từ kết quả điều tra, nghiên cứu, tôi đã đi đến kết luận rằng, cơng tác với
học sinh kém địi hỏi mỗi thầy giáo, giáo viên chủ nhiệm phải có nghệ thuật sư
phạm và trong mỗi trường hợp cụ thể phải biết cách đi đến học sinh để giúp các
em học tập tốt hơn và góp phần phát triển những tính cách tốt cần thiết cho cuộc
sống và lao động. Kết quả của công tác cá biệt với học sinh học kém tùy thuộc
vào việc sử dụng khéo léo sức mạnh giáo dục của tập thể, của tổ chức đoàn và
đội, của phụ huynh và giáo viên.
3. Tạo niềm tin đối với học sinh:
Người GVCN phải tự xây dựng cho mình một biện pháp riêng để xây
dựng niềm tin cho bản thân học sinh, chuyển hóa ý nghĩ tiêu cực của các em học
sinh yếu rằng “mình khơng thể học tốt mơn học đó” sang ý nghĩ tích cực rằng
“mình có thể học tốt mơn học đó”, từ đó xây dựng cho học sinh niềm tin vào bản
thân mình, xây dựng động cơ học tập cho các em hướng đến việc học sinh có thể
tự hoạch định mục tiêu, kế hoạch, phương pháp học tập của bản thân mình. Việc
xây dựng niềm tin cho học sinh có thể bắt đầu từ 2 nội dung sau đây:
14


3.1. Chuyển hóa ý nghĩ tiêu cực thành ý nghĩa tích cực.
- Đối với những HS yếu, kém khi làm bài kiểm tra hay bài tập bị điểm
kém thì ln có nhiều lý do biện hộ cho điểm kém đó, đại loại như sau:
Khi giáo viên hỏi: Vì sao em khơng học bài cũ ở nhà?
Thì câu trả lời của HS như sau:
+ Em có học bài ở nhà nhưng khi thầy đặt câu hỏi, em quên nên không
trả lời được.
+ Em có học bài ở nhà nhưng câu hỏi của thầy không nằm trong phần
nội dung em học, nên em khơng trả lời được.
+ Em có học bài ở nhà nhưng thầy, cơ nêu câu hỏi khó nên em khơng trả
lời được…

GVCN hỏi: Vì sao em khơng làm bài tập về nhà ở SGK?
HS trả lời:
+ Bài tập ở SGK khó, em làm khơng được.
+ Ở nhà em có làm nhưng khi lên bảng em quên công thức nên không làm
được.
+ Thầy dạy em không hiểu nên không làm được bài tập ở nhà…
GVCN hỏi: Vì sao em khơng thích học mơn Tốn?
HS trả lời:
+ Mơn tốn khó, em khơng làm được nên em ghét nó.
+ Con ghét thầy tốn, giọng thầy giảng khó nghe, khi lên bảng thầy tồn
tra những bài tập khó…
+ Em khơng biết học tốn để làm gì? Nó chẳng liên quan gì đến cuộc
sống của em.
+ Em khơng biết gì về mơn Tốn cả, nhìn vào em rối tung rối mù lên em
chẳng biết gì cả, em ghét nó, học chỉ mất thời gian thơi.
Khi phụ huynh hỏi vì sao con bị điểm kiểm tra bài miệng kém, hoặc điểm
kiểm tra bài 45 phút kém.
Học sinh trả lời:

15


+ Thầy giảng bài con không hiểu nên con trả lời khơng được, giọng thầy
nói khó nghe.
+ Con có học bài nhưng do thầy ghét con nên nêu câu hỏi khó, con khơng
trả lời
+ Con có học bài nhưng do thầy ghét con nên nêu câu hỏi khó, con khơng
trả lời được…
+ Con có ơn bài nhưng đề thầy ra khó nên con khơng làm được…
- HS sẽ tìm ra hàng trăm lí do để biện hộ cho các điểm kém của mình khi

GVCN hay PHHS hỏi đến. Vậy làm sao để tạo cho các em một niềm tin trong
học tập, để làm được điều đó, thì người GVCN hay PHHS phải chuyển hóa
những ý nghĩ tiêu cực của HS sang ý nghĩa tích cực như:

Em đã làm bài tập xong chưa, thầy biết thầy bộ môn đã cho em nhiều bài
tập; mới đầu em làm sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng nhiều lần, quen dần em sẽ
làm tốt hơn và nhanh hơn, thầy tin nếu cố gắng em sẽ làm được…
+ “Thầy toàn ra đề bài kiểm tra cực khó”.
GVCN: Thầy đồng ý là bài kiểm tra thầy bộ mơn ra khá phức tạp vì đó là
để cho tất cả những câu hỏi trong kỳ thi học kỳ sẽ dễ dàng hơn đối với em.
+“Em ghét thầy toán, thầy cứ đặt câu hỏi khó cho em”.

16


GVCN: Thầy biết là em khơng ưa thầy tốn vì thầy đưa ra nhiều bài tập
và câu hỏi khó cho em. Rất có thể đó là vì thầy nghĩ em có tiềm năng học tốt và
tiến bộ nhanh hơn một số bạn khác.
+ Hay khi phụ huynh hỏi vì sao điểm mơn Tốn cịn kém. HS “ Học Tốn
để làm gì? Nó chẳng liên quan gì đến cuộc sống của con.”, “ Bố đồng ý là đa
số những công thức tốn học thì khơng hữu ích lắm. Bên cạnh đó việc học mơn
tốn sẽ giúp não bộ được rèn luyện để trở nên nhạy bén hơn và thông minh hơn,
giúp con giải quyết được vấn đề trong cuộc sống”.
+ “Học với hành, chỉ phí thời gian.”, “Bố đồng ý là việc học phí thời
gian nếu con khơng biết tại sao con phải học, hay nếu con học chỉ vì bố mẹ.
Đồng thời, nếu con đạt được mục tiêu vươn tới thành công, việc học sẽ mang lại
cơ hội giúp con có được những gì con muốn”.
+ “Việc học thật nhàm chán”. “Bố đồng ý và việc học nhàm chán và đó
là lí do tại sao chúng ta phải tìm cách làm việc học trở nên vui vẻ và thú vị”…
- Thừa nhận ý kiến của các em là tiền đề cho bước chuyển hóa ý nghĩ tiêu

cực sang ý nghĩ tích cực. Khi chúng ta cơng nhận quan điểm của con cái, chúng
sẽ ở trong tâm thế thoải mái và để chấp nhận đề nghị của chúng ta hơn.
- Tôi hy vọng phương pháp chuyển hóa ý nghĩ tích cực là một công cụ
hiệu quả mà mỗi giáo viên hay phụ huynh chúng ta vận dụng để tác động một
cách tích cực đến suy nghĩ của HS hay con cái của chúng ta.
3.2. Mười bước thành công trong học tập
- Tạo niềm tin cho học sinh thông qua việc cho các em thấy “thành công
tuy xa nhưng không phải là không thể đi đến” và GVCN dạy cho học sinh xây
dựng mục tiêu, kế hoạch, phương cách học tập để có thể đạt được mục tiêu mà
mình đưa ra. Có thể hướng dẫn các em theo các bước sau đây:
Bước 1: Niềm tin tích cực
Điểm gặp gỡ đầu tiên của tất cả học sinh xuất sắc là chúng có một cơ sở
niềm tin tích cực. Chúng tin rằng chúng có thể và xứng đáng đạt được điểm
tuyệt đối. niềm tin tích cực truyền cảm hứng mạnh mẽ cho chúng trong học tập.
Nếu giả sử chúng có sơ xuất hay khơng đạt được những gì đề ra, chúng khơng
17


bỏ cuộc mà trái lại sẽ học hỏi từ sai lầm của mình và làm lại cho đến khi thành
cơng.
Bước 2: Đề ra mục tiêu phấn đấu cụ thể, rõ ràng
Yếu tố thứ hai phân biệt những học sinh giỏi này với những em còn lại là
chúng hướng đến các mục tiêu cụ thể, rõ ràng và trên tất cả, chúng biếtmình
muốn gì trong cuộc sống. Các mục tiêu trong tương lai của chúng mang lại cho
chúng nguồng động lực lớn thúc đẩy bản thân chúng có tinh thần và thái độ học
tập chăm chỉ, trong khi những em khác bị phân tán vào những việc khác ngoài
chuyện học tập. Chúng đặt ra những mốc cụ thể như đạt toàn điểm 10 trong kỳ
thi và làm hết sức mình để đạt được điều đó. Chúng coi điểm số cao như một
phương tiện giúp mình đạt được mong muốn trong cuộc sống.
Trong khi đó, những học sinh trung bình dễ dàng bị phân tâm và thiếu hẳn

động lực vươn lên, đơn giản vì chúng khơng có hướng đi cụ thể trong cuộc sống.
Chúng khơng biết rằng mình học để làm gì. Đa số những em này học vì bị cha
mẹ và thầy cô ép buộc phải học. Trả lời cho câu hỏi chúng muốn đạt kết quả như
thế nào, chúng thường đáp rằng “Tơi khơng biết”, “Điều đó phụ thuộc vào mức
độ khó của bài thi” hay “Tơi chỉ hy vọng mình thi đậu”.
Bước 3: Quản lý thời gian
Bước cần thiết tiếp theo là mà một học sinh “Điểm 10” thực hiện tốt là
biết cách ưu tiên cho những việc quan trọng và quản lý thời gian tốt để hoàn
thành những nhiệm vụ đề ra. Nếu không nắm được kỹ năng quản lý thời gian,
chúng sẽ bối rối không biết cách phân bổ thời gian cho những yêu cầu trong học
tập, hoạt động ngoại khóa, gia đình và giải trí. Chúng sẽ thường rơi vào trạng
thái hoang mang không biết phải làm cái gì trước cái gì sau, hoặc để nước đến
chân mới nhảy. Câu cửa miệng của những em này thường là “Mình sẽ làm việc
đó khi có thời gian” hay “Thôi cứ để đến mai hẵng hay”.
Bước 4: Đọc nhanh
Điều đầu tiên mà học sinh cần lên kế hoạch phải làm là đọc sách giáo
khoa và các tài liệu tham khảo khác. Các em cần luyện kỹ năng đọc nhanh, rút
ngắn thời gian đọc sách và đọc hiệu quả hơn.
18


a. Đọc phần tóm tắt trước
Với việc đọc phần tóm tắc trước, HS có một khái niệm rõ ràng hơn, một
cái nhìn tổng quan về các ý chính và các đơn vị kiến thức. Sau đó, khi đọc vào
nội dung chi tiết, các em có thể lĩnh hội và nắm bài được tốt hơn.
b. Đọc câu hỏi trước
Các em cần đọc câu hỏi trước khi đọc nội dung. Khi biết câu hỏi trước HS
có mục tiêu rõ ràng hơn khi đọc sách và có khái niệm sơ bộ về những thơng tin
chính cần nắm. Cách thức này sẽ gia tăng khả năng hiểu bài của người đọc lên
đáng kể.

c. Đọc với cây bút dẫn đường
Đọc sách với cây bút dẫn đường cho ánh mắt người đọc qua từng dòng
chữ, điều đó sẽ hiệu quả hơn trong việc nắm các ý chính.
d. Đọc một lúc từng cụm 5-7 từ
Mắt người có khả năng đọc được 5-7 từ trong một lúc. Làm cách này HS
có thể đọc sách với tốc độ tăng từ 5-7 lần (khoảng 1500 từ/ phút). Giúp cho việc
học của các em có hiệu quả hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian.
Bước 5: Lọc ra thơng tinh chính
Khi đọc sách chúng ta không cần phải nhớ tất cả các từ có trong bài, điều
quan trọng là các em cần xác định và thu tập những từ khóa có trong một đoạn
văn. Chỉ có khoảng 20% từ khóa chứa đựng thông tin cần thiết để đạt điểm 10,
nhờ vậy thời gian học và ôn bài giảm xuống đáng kể.
Bước 6: Ghi chú bằng cả não bộ
Chúng ta dùng cả não bộ vào việc sắp xếp các từ khóa và thơng tin vào
bảng ghi chú để ôn bài và ghi nhớ nhanh chóng. Bằng việc sử dụng cách ghi
chú: sơ đồ tư duy, đồ thị phát triển, sơ đồ khái niện, bảng tóm tắt chương….
Bước 7: Kĩ thuật ghi nhớ
Để ghi nhớ tốt bài học hoặc các công thức một cách chính xác, đầy đủ và
lâu dài thì cần gắn các bài học hay các công thức bằng các câu chuyện, bài thơ,
hay kí hiệu hay hình ảnh minh họa hay một cái tên viết tắc nào đó. Trong bước

19


này giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh xây dựng bản đồ tư duy để có thể
hệ thống, tóm tắt kiến thức tốt hơn, dễ nhớ hơn.
Bược 8: Ứng dụng kiến thức lí thuyết để giải các bài tập, câu hỏi
Hiếm khi nào những câu hỏi và đề thi ra giống hệt trong sách hoặc chỉ cần
bê nguyên si những kiến thức trong bài học vào làm là đạt điểm 10. Vì thế
những HS học vẹt chẳng mấy khi đạt điểm tuyệt đối. Chúng ta cũng biết rằng

mỗi đơn vị kiến thức có một số dạng câu hỏi và bài tập nhất định. Các em phải
là quen với tất cả các dạng câu hỏi và bài tập có thể ra thi (từ các đề thi cũ) và
các bước để đưa câu trả lời tốt nhất có thể.
Bước 9: Ơn bài
Các nghiên cứu khoa học cho thấy não bộ con người có khuynh hướng
qn đi 80% những gì được học trong vịng 24 giờ. Vì vậy ơng bà ta thường có
câu “văn ơn võ luyện” nghĩa là chúng ta phải ôn luyện thường xuyên nhưng việc
ôn luyện phải có phương pháp (bằng các bảng tóm tắt và sơ đồ hóa kiến thức),
chứ khơng phải đợi đến ngày mai thi thì hơm nay mới mang vở ra ơn thì q
muộn rồi.
Bước 10: Kĩ năng thi
Những HS học hành hiệu quả biết cách thư giãn trước giờ thi (vì bộ não
chúng ta cũng cần nghĩ ngơi khi đó khả năng tư duy và tái hiện được tốt hơn).
Khi làm bài thi chúng ta cần đọc kĩ đề thi, gạch chân những từ khóa quan trọng
của câu hỏi, biết cách trình bày bài ngắn gọn, xúc tích và quản lí thời gian hiệu
quả để hoàn thành bài thi tốt nhất.
4. GVCN lập kế hoạch cá biệt để giúp đỡ từng học sinh yếu kém tiến
bộ, cuối năm học có thể được lên lớp.
- Trên cơ sở quan sát những hiện tượng tương tự và công tác làm chủ
nhiệm trong nhiều năm, tôi đã đi đến một kết luận đúng đắn là lòng hăng say
học tập thường bị mất đi trước hết là do những thất bại đầu tiên, do những khó
khăn khơng khuất phục nổi trong khi lĩnh hội các môn học. Nếu như người giáo
viên không nhận thấy kịp thời, bỏ qua những thời điểm này, thì những sai sót sẽ
tích lũy đến mức độ trầm trọng, khi đó HS mất niềm tin vào khả năng nắm được
20


mơn học khó đối với họ. Vì vậy cần nghiên cứu kĩ những lỗ hổng trong kiến
thức HS, tạo cho các em niềm tin vào bản thân và sức lực của mình, giúp các em
khắc phục những khó khăn gặp phải. Trong một số trường hợp cần phải tiến

hành với các em những cuộc tọa đàm nhằm phát triển lòng ham thích đối với
kiến thức, đối với học tập và thu hút các em vào các nhóm nghiên cứu của các
môn học.
Tôi xin nêu ra một trường hợp của HS Trần Viễn Đông lớp 12A1 trường
THPT Số 2 Văn Bàn năm học 2011-2012:
Học sinh Đông khi học lớp 10 vốn là một học sinh có học lực khá, nhưng
khi lên lớp 11A1, em luôn ở trạng thái không muốn học, đối với nhiều môn học
em không làm bài tập về nhà và bị điểm kém. Bằng nhiều lí do khác nhau em
thường hay nghỉ học, trốn học, bỏ tiết có thái độ khơng tốt đối với giáo viên.
Qua tìm hiểu ngun nhân thì tơi được biết ở lớp 9 và lớp 10 em vẫn học
tốt nhưng khi vào đầu HK I của lớp 11 Mẹ em bị ốm một thời gian dài, em
thường xuyên phải nghỉ học đưa mẹ đi chữa bệnh, bố bỏ dơi 2 mẹ con, từ 2 lý
do trên em càng chán nản, thường xuyên nghỉ học đi chơi điện tử, lỗ hổng kiến
thức ngày càng lớn mà tự bản thân em không thể tự lấp đầy.
Năm lớp 12, khi đến lớp Đông đã không phải là một học sinh ngoan
ngoãn và ham hiểu biết như trước nữa: Em vi phạm kỉ luật, có thái độ thơ lỗ với
bạn bè, vô lễ với giáo viên, bỏ giờ bỏ lớp khơng có lí do. Khi nhận được những
điểm kém thoạt đầu chủ yếu là mơn tốn, cậu học trò giàu lòng tự ái này dần
dần đã lơ là các môn học khác. Những thất bại trong học tập đã làm em khơng
tin vào sức lực của mình nữa. Khi được gọi lên bảng, em thường tuyên bố với
giáo viên “em khơng biết gì hết”.
- Với vai trị GVCN tôi đã lập một kế hoạch cùng kết hợp với giáo viên
bộ môn xây dựng một hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, các bài tập căn bản
cùng hệ thống các công thức, đồng thời các GV bộ mơn đã tận tình hướng dẫn
cho em ơn tập lại các kiến thức và giải bài tập vào các buổi học phụ đạo ở
trường. Ở nhà mẹ em cũng nổ lực để hướng dẫn động viên giúp em học tập để
lấy lại căn bản. Cùng với sự nổ lực của nhà trường, gia đình và chính bản thân
21



HS nên dần dần các lỗ hổng trong kiến thức của em đã được lấp dần, giúp cho
em lấy lại được niền tin vào khả năng của mình. Trong kì I của lớp 12 Đông đã
là một HS khá, sau khi đỗ tốt nghiệp THPT em đã thi đỗ vào trường Cao đẳng
Luyện kim Thái nguyên, hiện chuẩn bị tốt nghiệp để đi làm.
- Việc GVCN không là công tác cá biệt ngay từ đầu và việc đưa em từ lớp
này lên lớp khác mà khơng có những kiến thức và kỉ năng cần thiết đã làm kìm
hãm sự phát triển của HS và gây ra nhiều khó khăn trong cơng tác dạy học.
Tóm lại, điều quan trọng là phải nghiên cứu và phân tích đầy đủ, kịp thời,
đặc điểm của từng khó khăn trong việc dạy và giáo dục những HS yếu, kém và
xây dựng cho được kế hoạch công tác cá biệt với từng em. Đối với những em
này cần tiến hành công tác cá biệt lâu dài, cần giao cho các em những bài tập
riêng.
5. Khắc phục hiện tượng “nghiện” Game.
- Có thể nói một trong những vấn đề bức xúc và gây đau đầu nhất hiện
nay là hiện tượng nghiện game trong giới trẻ, trong quá trình cơng tác chủ nhiệm
tơi đã khơng ít lần gặp phải những HS nghiện game bỏ bê công việc học hành,
cúp tiết trốn học….. Vậy chúng ta phải tìm hiểu vì sao con trẻ nghiện chơi
game?
- Game tạo ảo giác về việc làm chủ cuộc sống
Với những đòi hỏi ngày càng cao từ trường học, gia đình và xã hội, thiếu
niên ngày càng khơng khỏi có cảm giác mất đi khả năng làm chủ những gì xảy
ra xung quanh và trong chính bản thân chúng. Chỉ khi ngồi trước màn hình vi
tính, chúng mới có cảm giác dành lại khả năng kiểm sốt mọi thứ trên đời. vẫn
biết rằng đó chỉ là thế giới ảo, nhưng những cảm xúc mà chúng có khi say sưa
bấm nút hoặc di chuyển con trỏ là thật, vì các trị chơi ngày nay được các “phù
thủy game” thiết kế sống động như thật, thậm chí đối những bộ óc non nớt thì nó
cịn thật hơn cả cuộc sống ngồi kia, vì những nhà thiết kế đã khái quát hóa đời
sống, phóng chiếu nó với một độ rõ nét và sinh động cực lớn. Cuộc sống trong
các trò chơi mang lại cảm giác mạnh, khiến đứa trẻ, một khi rời màn hình, chỉ
thấy cuộc sống xung quanh mình tẻ nhạt, nhàm chán.

22


Chẳng phải vậy sao, chỉ cần chạm vào bàn phím, bạn có thể điều khiển
nhân vật trong trị chơi theo ý muốn và trí tưởng tượng của mình. Bạn cũng có
thể điều chỉnh kết quả trị chơi bằng cách lựa chọn hành động một cách thỏa
mái. Cảm giác làm chủ giả tạo này có sức hấp dẫn cực lớn, bạn có thể “sống”
trong thế giới tự tạo ra cho mình, nơi mà bạn có được cây đèn thần của Aladin,
bắt thần đèn làm cho mình bất cứ điều gì. Các trò chơi loại này đánh trúng vào
một điểm: con người nói chung thích cảm giác được làm chủ và cảm giác thấy
bất lực nếu mọi việc khơng theo ý mình.
Một lí do khác khiến đa số thiếu niên thích trị chơi điện tử là vì nó mang
lại kết quả tức thì. Chỉ trong một thời gian ngắn và chỉ một chút cố gắng không
thấm vào đâu so với cuộc sống thật chúng có thể trở thành một người “quan
trọng” hơn, “thành công” hơn và được nhiều game thủ khác nể sợ hơn. Một
trong những tác hại của trò chơi điện tử mà nhiều người chưa nhìn ra: nếu
nghiện game trong một thời gian dài, hệ thống thần kinh của bạn có thể chỉ phản
ứng lại với những phần thưởng tức thì, dễ dãi. Điều này có thể giúp lí giải tại sao
nhà trường và phụ huynh ngày nay gặp khó khăn trong việc động viên học sinh
học tập; vì khác với trò chơi học tập là một việc nhọc nhằn, địi hỏi một q
trìnhphấn đấu và nổ lực dài hơn trước khi đạt được phần thưởng.
- Game giúp chúng ta “thốt li” thực tế
Game đặc biệt có sức hấp dẫn với những HS có cảm giác lạc lõng trong
một lớp học, thiếu sự quan tâm yêu thương của cha mẹ hoạc bị bạn bè trong
trường bắt nạt, hoặc trong lớp ít bạn chơi chung, hay các bạn trong lớp hay chọc
ghẹo xem thường làm tổn thương về tinh thần và thể xác đối với HS. Trò chơi
trong thế giới ảo, trong khi đó mang lại cho những HS nạn nhân này cảm giác
chúng là người hùng thật sự, không những khơng để ai bắt nạt mà cịn oai phong
“cho đo ván” những nhân vật “khét tiếng” khác.
Trong cuộc trò chuyện với HS Nguyễn Văn Thiệu lớp 10A5 tôi chủ nhiệm

năm học 2013-2014, HS Thiệu thú nhận em rất buồn vì khơng có bạn cùng chơi
ở nhà cũng như ở lớp. Nhà em ở cách xa nhà những bạn khác nên từ nhỏ em cứ
ở nhà chơi một mình và khi lớn lên cũng thế, bố mẹ thường hay đi làm rẫy cả
23


ngày, thậm chí cả tháng. Khi đến lớpcác bạn khơng ai chơi với em và thường
hay bị bạn bè trêu đùa, bắt nạt, em rất buồn. Chỉ khi chìm đắm vào thế giới
game với những trò chơi hấp dẫn, biến hóa em mới có cảm giác tự do tự tại, có
thể trở thành người mà em muốn và làm chuyện mà em thích. Em có thể “giết”
bất cứ đối thủ nào nên được các game thủ khác nể sợ. Trong các tiệm game em
có nhiều bạn bè cùng chơi, có nhiều bạn hâm mộ và có thể ra oai, thể hiện đẳng
cấp với các bạn khác, rất nhiều bạn muốn được chơi với em để được chỉ các
tuyệt chiêu...
- Ngày càng có nhiều HS như Thiệu đi tìm niềm vui và sự khy khỏa
trong thế giới game, vì chỉ có ở đó, các em mới tạo được danh tính riêng, được
đánh giá cao đó là những điều mà những HS này tìm thấy trong gia đình hoặc
nhà trường. Một hiện tượng đáng lo ngại khác là ở một phương diện nào đó, một
số trị chơi kích thích tính hung hăng thiếu kiểm soát của trẻ và là tác nhân gián
tiếp gây ra các hành vi bạo lực ở trẻ vị thành niên.
- Vậy làm sao để giúp các em học sinh thốt khỏi tình trạng “nghiện
game”? Theo tơi cách tốt nhất là phải tạo cho HS có nhiều sân chơi, có nhiều
bạn cùng trang lứa cùng làm việc, luyện tập và trao đổi. Trong quá trình chủ
nhiệm, đối với những học sinh thường xuyên nghỉ học chơi game tôi thường cố
gắng phân cơng các em và các các nhóm làm việc, vui chơi: Cho vào đội bóng
đá của lớp để cùng tập luyện, phân công làm trại, báo tường, phân cơng chuẩn bị
cho các hoạt động ngoại khóa, đề nghị CMHS phân cho các em một số phần
việc trong gia đình … qua đó giảm bớt thời gian rảnh dỗi của các em, đưa các
em vào các nhóm làm việc để tự bản thân các em dần nhận thấy mình rất có ích
trong tập thể, dần dần hình thành trong các em thói quen học tập và lao động, từ

đó khơng cịn ham muốn chơi game nữa.
- Với vai trị là GVCN tơi đã phối hợp với đồn trường, GV dạy bộ mơn
thể dục, cùng gia đình HS để tìm giải pháp khắc phục. Tôi đưa HS Thiệu tham
gia vào đội tuyển bóng đá của lớp, vào những lúc rảnh rỗi ngồi giờ học tơi u
cầu gia đình đưa em Thiệu ra sân thể dục của trường để tập bóng đá cùng các
bạn cùng lớp. Việc làm này giúp em Thiệu lấp đầy các khoảng thời gian rãnh
24


rỗi, giúp cho em có thêm bạn cùng chơi, cùng trò chuyện, luyện tập, vui chơi
vận động về thể chất và tinh thần, đồng thời giúp em tiếp cận nhiều với thực tế
hơn và dần đẩy lùi thế giới ảo trong game. Việc là này cũng giúp gia đình và nhà
trường kiểm soát được thời gian học tập và rèn luyện của HS Thiệu.
Sau hơn hai tháng, dưới sự tích cực của thầy giáo bộ thể dục dạy bóng đá,
gia đình, các bạn cùng lớp, cùng khối và sự động viên an ủi từ phía GVCN, gia
đình và giáo viên bộ môn, với sự nổ lực của bản thân em Thiệu đã hịa nhập tốt
vào nhóm bạn cùng khối lớp, em đã đều đặn tham gia tập bóng và tư tưởng
“nghiện” game của em đã được đẩy lùi. Giờ đây hàng ngày Thiệu có nhiều việc
phải làm ngồi giờ học em phải luyện tập cho giải đá bóng cấp trường sắp đến,
tinh thần phấn khởi em tập trung nhiều hơn vào việc rèn luyện và học tập. Kết
quả học tập của em từ đó cũng được cải thiện rõ rệt, mỗi khi đến lớp em có
nhiểu bạn cùng học tập trao đổi về những bài học, bài toán, những trận đá bóng
của cả đội…..giúp em có nhiều động lực trong học tập.
6. Nâng cao hiệu quả phối hợp với gia đình và phụ hunh học sinh:
- Hiện nay ngành giáo dục đang thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục,
thực hiện những biện pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng kiến thức của HS
và phát triển toàn diện kiến thức đó thì GVCN và gia đình HS cần phải có cộng
tác chặt chẽ với nhau trong cơng tác giáo dục. Gia đình và các đồn thể xã hội
cần phải giúp đỡ tích cực cho nhà trường trong việc phải thực hiện quy chế giáo
dục THPT trong việc tổ chức thời gian nhàn rỗi của HS, tổ chức hoạt động của

các em trong thời gian ngoài giờ học và trong việc giáo dục HS theo địa cư. Gia
đình có thể có những tác động tốt hoặc xấu đối với HS. Với tư cách người làm
cha làm mẹ, hiểu rõ động lực trong học tập có một tầm quan trọng như thế nào
đối với HS. Nó giúp các em hiểu rõ đích đi tới, hồn thành từng mục tiêu đề ra
và nhờ thế thành công trong con đường học tập.
- Vấn đề là ở chỗ đối với một số bậc phụ huynh những kí ức và kinh
nghiệm về thời thơ ấu của chúng ta, cùng với cách dạy bảo của cha mẹ ta hình
như khơng liên quan, và càng khơng thể áp dụng vào việc dạy con trong bối
cảnh xã hội đang thay đổi từng ngày như hiện nay. Điều này càng trở nên khó
25


×