Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN nâng cao hứng thú học tập bộ môn sinh học của học sinh thông qua tổ chức tốt các tiết thực hàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.82 KB, 16 trang )

1. Đặt vấn đề
Theo quan điểm giáo dục hiện đại, dạy học là một quá trình tương tác, trong
đó “học” là một hoạt động trung tâm. Và người học – đối tượng của hoạt động “dạy”,
đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” – được cuốn hút vào các hoạt động học tập
do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa
rõ, chưa có chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp
đặt.
Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) để học sinh chủ động, tích
cực, sáng tạo trong học tập là một vấn đề cần thiết và không thể thiếu được. Bởi chỉ
có đổi mới PPDH chúng ta mới góp phần khắc phục những biểu hiện trì trệ nghiêm
trọng trong giáo dục hiện nay; chỉ có đổi mới PPDH chúng ta mới góp phần quan
trọng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo và chỉ có đổi mới PPDH chúng ta mới
tham gia được vào “sân chơi” quốc tế trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và
tiếp cận phương pháp giáo dục mới theo quan điểm giáo dục hiện đại.
Kết hợp tốt học đi đôi với hành, học tập gắn liền với lao động sản xuất, thực
nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội, áp dụng những phương
pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tư duy sáng tạo”. Để
có được điều đó cần đến vai trò rất quan trọng của người thầy. Thầy phải là người có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có lòng nhiệt tình, tâm huyết nghề
nghiệp, bên cạnh đó thầy phải biết vận phù hợp các PPDH với từng kiểu bài, từng nội
dung kiến thức để giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức lí thuyết vào thực hành và
thực tiễn cuộc sống.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, khoa học mở luôn luôn mới, kiến thức
sinh học chủ yếu được hình thành bằng phương pháp quan sát, mô tả, tìm tòi thực
nghiệm. Mỗi một tiết học, một kiểu bài lên lớp đòi hỏi phải có những phương pháp
khác nhau, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của bài, làm sao để phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Thực hành - Thí nghiệm là một trong những phương pháp quan trọng để tổ
chức học sinh nghiên cứu các hiện tượng sinh học. Đây là mô hình đại diện cho hiện
thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của học sinh, là cầu nối
giữa lí thuyết và thực tiễn.


1


Quan sát và thí nghiệm đòi hỏi phải có những thiết bị dạy học như tranh ảnh,
mô hình, các mẫu vật tự nhiên và các phương tiện thiết bị phục vụ cho việc tiến hành
các thí nghiệm. Quan sát và thí nghiệm không chỉ cho phép HS lĩnh hội tri thức một
cách sâu sắc, vững chắc mà còn tạo cho các em một động lực bên trong, thúc đẩy các
em thêm hăng say học tập.
Tuy nhiên, dạy Thực hành - Thí nghiệm trong chương trình sinh học là một
vấn đề rất khó, để dạy thành công một bài thực hành đòi hỏi người giáo viên phải tìm
tòi, nghiên cứu phương pháp phù hợp và qua thử nghiệm mới có thể thành công. Tuy
nhiên khả năng thành công của mỗi tiết dạy còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Ở nhiều trường THPT, các bài thực hành trong sách giáo khoa thường ít được
giáo viên chú trọng quan tâm, chủ yếu cho HS tự nghiên cứu sách giáo khoa hoặc
quan sát đoạn phim thực hành có sẵn trên mạng, .... Trong những năm gần đây, kiến
thức phần thực hành đã được đưa vào nội dung của thi học sinh giỏi các cấp. Tuy
nhiên, nhiều học sinh còn lúng túng, kĩ năng thực hành chưa thành thạo, chưa phát
huy được hết năng lực của mình và chưa tạo được sự say mê, hứng thú trong trong
học tập bộ môn Sinh học của học sinh.
Là giáo viên đã từng tham gia bồi dưỡng đội tuyển HGS Quốc gia chuyên đề
thực hành, qua thực tế giảng dạy thực hành môn Sinh học ở trường THPT tôi xin đưa
ra một số kinh nghiệm để bạn bè, đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến
để việc dạy Thực hành - Thí nghiệm thành công và giúp học sinh nhận thức, vận
dụng tốt kiến thức vào thực hành và thực tế cuộc sống. Do đó, tôi đi sâu vào việc
nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hứng thú học tập bộ môn Sinh học của học sinh
thông qua tổ chức tốt các tiết thực hành trên lớp”
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Thực hành - Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và đến thực tiễn, giúp hoc
sinh đào sâu, mở rộng những kiến thức đã học. Hệ thống hóa được kiến thức, biến

kiến thức thành vốn riêng của mình.
Quan sát và thí nghiệm đã tạo khả năng cho các em học sinh phát hiện và khai
thác các sự kiện, hiện tượng mới, xác định những quy luật mới, rút ra những kết luận
khoa học và tìm cách vận dụng vào thực tiễn.
2


Thông qua quan sát, thí nghiệm, bằng các thao tác tư duy phân tích, tổng hợp,
trừu tượng hóa và khái quát hóa giúp các em xây dựng các khái niệm. Bằng cách đó
các em nắm kiến thức một cách vững chắc và giúp cho tư duy phát triển.
Qua nghiên cứu tôi muốn nêu lên vấn đề là làm thế nào để việc dạy Thực hành
- Thí nghiệm đạt hiệu quả cao, giúp HS thoát khỏi những khó khăn vướng mắc khi
làm thực hành và cảm thấy yêu thích giờ thực hành cũng như bộ môn qua các giờ
thực hành. Đề tài nghiên cứu các bài thực hành trong chương trình Sinh học THPT,
đặc biệt tập trung đi sâu vào các bài thực hành trong chương trình lớp 10 cơ bản; sử
dụng để giảng dạy cho học sinh các lớp cơ bản và học sinh các khối chuyên Sinh,
học sinh trong đội tuyển học sinh giỏi.
2.2. Thực trạng dạy thực hành thí nghiệm ở các trường THPT hiện nay
Thực hành Sinh học là một trong những khâu rất quan trọng trong việc dạy bộ
môn Sinh học. Nhưng hiện nay, việc thực hành Sinh học còn rất nhiều bất cập và hạn
chế. Từ điều kiện thực tế, chúng tôi nhận thấy việc dạy và học thực hành Sinh học ở
trường phổ thông chưa thực sự được quan tâm sâu sắc và cũng còn gặp nhiều khó
khăn. Trang thiết bị và đồ dùng thí nghiệm thiếu hoặc chưa đảm bảo chất lượng,
cũng với sự nhận thức chưa đúng đắn của giáo viên đã làm cho việc dạy thực hành
Sinh học ở trường THPT không được diễn ra thường xuyên. Những bài thực hành
với những thí nghiệm phức tạp, tốn kém, mất nhiều thời gian cùng với năng lực sử
dụng, khai thác, tổ chức học sinh, nhận thức của giáo viên còn hạn chế đã khiến cho
hiệu quả sử dụng thực hành thí nghiệm trong nhà trường hiện nay chưa cao.
Hiện nay hầu hết các bài thực hành thí nghiệm sinh học ở THPT trong chương
trình và SGK được bố trí ở cuối mỗi chương chỉ mang tính chất củng cố minh họa

cho các kiến thức lý thuyết đã được trình bày trong các bài học của chương trình
dưới hình thức phần lớn là “bày sẵn” từng bước cho HS. Hơn nữa số tiết thực hành
quy định trong chương trình và SGK cũng còn rất hạn chế.
Do chương trình có sự phân phối ở một số bài chưa phù hợp với thực tế, tình
hình của địa phương nên rất khó khăn cho giáo viên và học sinh tổ chức tiến hành
thực hành. Có thể việc dạy thực hành vẫn được tiến hành đều đặn theo đúng nội dung
chương trình nhưng nhiều khi chỉ làm qua loa, đại khái một cách đối phó nên không
có hiệu quả cao.
3


2.3. Các biện pháp đã tiến hành để nâng cao chất lượng dạy thực hành
Từ thực tế trên về việc dạy các bài thực hành Sinh học ở trường phổ thông, tôi
nhận thấy việc đổi mới phương pháp dạy bài thực hành là một việc rất cần thiết trong
quá trình giảng dạy bộ môn Sinh học.
2.3.1. Phân loại bài thực hành
Trước hết, giáo viên dạy thực hành cần phân loại được dạng bài thực hành để
đưa ra cách thức tổ chức các khâu thực hành cho phù hợp. Căn cứ vào nội dung và
tính chất của các hoạt động thực hành, có thể chia thành loại bài thực hành quan sát
và thực hành củng cố.
*Loại bài thực hành quan sát là loại bài thực hành giúp học sinh phát hiện
kiến thức mới, được tiến hành đối với các nội dung mà học sinh chưa biết. Loại bài
này thường được thực hiện trong các giờ lên lớp bài lí thuyết kiểu thực hành mà hiện
nay được chuyển thành các tiết thực hành những nội dung kiến thức về đặc điểm
hình thái, cấu tạo ngoài.
Trong thực hành quan sát, GV đóng vai trò hướng dẫn từng bước các thao tác
thực hành, hướng dẫn đến đâu học sinh làm theo đến đó và thực hiện theo từng nội
dung riêng biệt, sau mỗi nội dung, hướng dẫn học sinh rút ra kết luận khoa học. Loại
bài này có ưu điểm rèn luyện cho học sinh lối tư duy khoa học, đi từ thực nghiệm
khái quát rút ra kết luận khoa học.

*Loại bài thực hành củng cố, minh hoạ là loại bài thực hành được thực hiện
khi học sinh đã có vốn kiến thức lí thuyết nhằm giúp học sinh củng cố và kiểm chứng
những kiến thức đã học. Loại bài này có tác dụng giúp học sinh khắc sâu kiến thức,
có lòng tin vào những điều đã học.
2.3.2. Cách tổ chức dạy học bài thực hành
*Bước 1: Chuẩn bị - là bước quyết định sự thành công của bài giảng
- Chuẩn bị của học sinh: Mẫu vật, phương tiện thực hành; trả lời các câu hỏi
chuẩn bị liên quan đến bài nội dung bài thực hành và nghiên cứu trước quy trình
thực hành.
- Chuẩn bị của giáo viên:
+ Giáo án xác định rõ mục tiêu, các nội dung cần tiến hành trong giờ thực
hành, cách hướng dẫn các thao tác thực hành khi thiết kế giáo án.
4


+ Mẫu vật, dụng cụ thực hành đủ cho học sinh làm việc (có thể giao cho HS
chuẩn bị nhưng phải kiểm tra), dự kiến chia nhóm HS.
+ Câu hỏi chuẩn bị liên quan đến nội dung bài thực hành; bài tập - báo cáo
thực hành và các câu hỏi liên hệ, mở rộng.
*Bước 2: Tiến hành giờ thực hành
- Ổn định tổ chức lớp: Bố trí chỗ ngồi, phân phát dụng cụ và vật mẫu, kiểm tra
sự chuẩn bị của học sinh.
- GV giới thiệu mục tiêu của bài thực hành, hướng dẫn các thao tác thực hành:
+ GV nêu mục tiêu thí nghiệm (hoặc hướng dẫn học sinh phát biểu mục tiêu
thực hành), phải đảm bảo mỗi HS nhận thức rõ mục tiêu làm thí nghiệm để làm gì?
+ GV hướng dẫn HS cách tiến hành thí nghiệm, phải đảm bảo mỗi HS nhận
thức rõ làm thí nghiệm như thế nào? Bằng cách nào? Học sinh có thể tự đọc quy trình
thí nghiệm (nếu có sẵn trong bài thực hành) hoặc giáo viên giới thiệu cho học sinh.
Sau đó học sinh tự kiểm tra các loại hóa chất thiết bị, mẫu vật xem có đáp ứng được
với yêu cầu bài thực hành hay không.

*Chú ý: Giáo viên cần phải đặc biệt lưu ý cho học sinh những thao tác quan
trọng có thể quyết định trực tiếp đến kết quả thí nghiệm hoặc để cho học sinh tự làm,
nếu không thành công được cần giải thích nguyên nhân vì sao, …
Các thí nghiệm sinh học có thể là thí nghiệm định tính hay định lượng. Các thí
nghiệm định tính thì không nên quá tiết kiệm nguyên liệu, sẽ khó quan sát kết quả.
Các thí nghiệm định lượng thì cần chính xác hàm lượng các chất làm thí nghiệm mới
có kết quả. Ví dụ: khi làm thí nghiệm tách chiết ADN, nếu cho ít dịch lọc hay ít chất
tẩy rửa hoặc quá ít nước cốt dứa thì sẽ rất khó có kết quả khả quan.
- Học sinh tiến hành thực hành - đây là hoạt động chủ yếu của giờ thực hành.
+ Học sinh tự tiến hành thí nghiệm theo quy trình đã cho để thu thập số liệu.
Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên thường xuyên theo dõi sự làm việc của
các nhóm.
+ HS mô tả kết quả thí nghiệm quan sát thấy trong quá trình làm thí nghiệm.
Sau đó xử lý số liệu và viết báo cáo thí nghiệm nộp cho giáo viên. Cuối buổi giáo
viên có thể đưa ra các tình huống khác với thí nghiệm để học sinh suy ngẫm và tìm
cách lý giải.
*Bước 3: Tổng kết, đánh giá thực hành
5


+ Giải thích các hiện tượng quan sát được: đây là giai đoạn có nhiều thuận
lợi để tổ chức HS học theo phương pháp tích cực. GV có thể dùng hệ thống câu
hỏi dẫn dắt theo kiểu nêu vấn đề giúp HS tự giải thích các kết quả.
+ Rút ra kết luận cần thiết: GV yêu cầu HS căn cứ vào mục tiêu ban đầu
trước khi làm thí nghiệm để đánh giá công việc đã làm.
+ Nhận xét công việc chuẩn bị và tiến hành thực hành của học sinh.
+ Thu báo cáo tường trình.
+ Thu dọn dụng cụ, mẫu vật và vệ sinh phòng học.
2.3.3. Những điều cần lưu ý khi dạy thực hành
- Đối với môn sinh học việc chuẩn bị tốt đồ dùng, mẫu vật cho 1 tiết thực hành

là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của bài học. Trước khi vào tiết học,
học sinh cần có sự chuẩn bị trước về mục đích yêu cầu bài thực hành, các kiến thức
cần thiết đối với bài thực hành và các bước tiến hành thí nghiệm. Khi tiến hành biểu
diễn thí nghiệm, giáo viên phải đặt vấn đề rõ ràng, giải thích cụ thể mục đích, yêu
cầu, ý nghĩa của thí nghiệm .
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh ghi chép vào vở những hiện tượng xảy
ra trong quá trình thực hành thí nghiệm. Những tài liệu ghi chép được trong quá trình
quan sát là rất cần thiết để học sinh có các dữ kiện làm cơ sở giải thích, khái quát rút
ra những kết luận đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của bài đồng thời trả lời các câu hỏi và
bài tập đề ra. Các câu hỏi và bài tập này phải được giáo viên nêu ra từ trước khi tiến
hành thí nghiệm. Yêu cầu của các câu hỏi này phải phù hợp với chủ đề của bài học
để khi tìm lời giải đáp giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu bản chất của hiện tượng.
- Đối với 1 tiết thực hành, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức cho học
sinh hoạt động giúp học sinh tự tìm ra kết luận và ghi nhớ được kiến thức. Học sinh
là trung tâm của mọi hoạt động, sau khi đã nhận được mục đích, yêu cầu của tiết thực
hành học sinh lập tức hoạt động nhóm để tiến hành các thí nghiệm tìm tòi dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
- Thí nghiệm phải đơn giản, vừa sức học sinh tránh những thí nghiệm quá
phức tạp, tránh những yêu cầu quá trừu tượng. Hơn nữa thời gian cho thí nghiệm
phải hợp lí để đảm bảo thu được kết quả thật sát thực tiễn.

6


- Thí nghiệm nghiên cứu nhất thiết phải có phần đối chứng để kiểm tra kết quả
thí nghiệm, giúp học sinh tìm được mối quan hệ nhân quả của các hiện tượng xảy ra
trong thí nghiệm.
- Phải đảm bảo tính sư phạm, tính khoa học của việc biểu diễn thí nghiệm như:
Nơi bối trí thí nghiệm phải đủ ánh sáng, cả lớp phải quan sát rõ được, các thao tác thí
nghiệm phải thành thạo, bảo đảm thí nghiệm thành công, dự đoán trước những thắc

mắc của học sinh có thể đưa ra khi quan sát thí nghiệm, lường trước những thất bại
có thể xảy ra để giải thích cho học sinh rõ nguyên nhân, tránh làm mất lòng tin đối
với học sinh .
- Trong dạy học sinh học có thể có những thí nghiệm dài ngày nên có thể bố trí
ở vườn trường. Có loại thí nghiệm chỉ đòi hỏi thời gian ngắn có thể thực hiện ngay
tại lớp.
- Đối với thí nghiệm diễn tả cùng một bản chất hay cùng một quy luật trong
những điều kiện khác nhau, giáo viên nên biểu diễn song song để cho hiệu quả cao
hơn hình thức biểu diễn lần lượt từng thí nghiệm .
- Sau mỗi bài thực hành, cần cho học sinh viết thu hoạch để ghi nhớ lại những
kiến thức của bài thực hành và ứng dụng vào thực tiễn đời sống cho hiệu quả. Giáo
viên đánh giá kết quả tiết học qua bài thu hoạch của học sinh. Tùy từng đối tượng
học sinh, giáo viên sẽ đưa ra các câu hỏi đánh giá, mở rộng vấn đề, …
2.3.4. Một số bài thực hành áp dụng trong chương trình Sinh học lớp 10
Tôi đã tiến hành một số bài dạy thực hành theo phương pháp trên tại trường
THPT Chuyên Lào Cai và bước đầu đã thu được những kết quả tích cực, xin được
chia sẻ, trao đổi cùng với các bạn đồng nghiệp tham khảo và đóng góp ý kiến.
Bài 12: THỰC HÀNH THÍ NGHIỆM CO VÀ PHẢN CO NGUYÊN SINH
Đây là bài thực hành mang tính chất thực nghiệm, thí nghiệm được thực hiện
ngay trong tiết học, giáo viên phải yêu cầu học sinh lưu ý chuẩn bị một số kiến thức
trước tiết thực hành. Sau tiết thực hành giáo viên nên đưa ra một số câu hỏi ứng dụng
thực tiễn, mở rộng và học sinh viết thu hoạch.
*Một số kiến thức học sinh cần chuẩn bị trước tiết thực hành:
1. Thẩm thấu là gì? Phân biệt các loại môi trường ưu trương, nhược trương
và đẳng trương?
7


- Thẩm thấu là cách vận chuyển nước thụ động, đó là sự khuếch tán của các
phân tử nước qua màng bán thấm chọn lọc. Mỗi tế bào đều chứa dung dịch nội bào

có áp suất thẩm thấu nhất định và màng tế bào chất có tính thấm nước nên các phân
tử nước có thể đi vào hay đi ra khỏi tế bào.
- Dung dịch ưu trương là dung dịch có nồng độ chất tan cao hơn so với dịch
nội bào nên áp suất thẩm thấu cao hơn và có sức hút dung môi nước lớn hơn.
- Dung dịch nhược trương là dung dịch có nồng độ các chất tan thấp hơn nên
áp suất thẩm thấu thấp hơn và sức hút nước kém hơn
- Dung dịch đẳng trương là dung dịch có nồng độ chất tan bằng với dung dịch
trong tế bào nên áp suất thẩm thấu bằng nhau và do đó sức hút nước cân bằng với
dung dịch tế bào.
2. Điều gì sẽ xảy ra nếu ta đặt tế bào thực vật vào dung dịch ưu trương, nhược
trương và đẳng trương?
- Khi đặt tế bào thực vật trong dung dịch ưu trương thì tế bào bị mất nước và
khối tế bào chất bị co lại, nhăn nhúm và tách ra khỏi thành tế bào (co nguyên sinh).
- Khi đặt tế bào trong dung dịch nhược trương thì do nồng độ dịch bào cao
hơn nên đã hút nước từ ngoài vào làm nguyên sinh chất trương phồng trở lại như lúc
đầu, đó là hiện tượng phản co nguyên sinh.
- Đặt tế bào vào dung dịch đẳng trương thì không có hiện tượng gì xảy ra.
*Một số câu hỏi củng cố, mở rộng:
1. Tại sao phải thấm bớt nước ở tiêu bản? Nếu không thấm bớt nước sẽ gặp
phải khó khăn gì?
2. Tại sao không nên dùng dung dịch đường hoặc muối có nồng độ quá cao?
3. Hiện tượng co nguyên sinh và phản co nguyên sinh có xảy ra ở tế bào
động vật không? Giải thích.
4. Khi trồng cây thì môi trường đất phù hợp nhất là loại môi trường dung
dịch đất có tính trương như thế nào?
*Các lưu ý khi dạy bài thực hành này:
1. Đây là bài thực hành đầu tiên trong chương trình sinh học lớp 10 nên giáo
viên trước khi hướng dẫn các em tiến hành các thí nghiệm trong bài cần phải hướng
dẫn các em các thao tác cơ bản sử dụng kính hiển vi và thao tác làm tiêu bản.
Qui trình sử dụng và bảo quản kính hiển vi:

8


- Kỹ thuật lấy ánh sáng: Nếu là kính hiển vi dùng nguồn sáng ngoài thì cần
điều chỉnh gương chiếu sáng; nếu là kính hiển vi dùng điện thì hướng dẫn các em
vị trí công tắc và nút điều chỉnh cường độ ánh sáng
- Đặt và cố định tiêu bản trên bàn kính sao cho mẫu vật nằm đúng trung tâm,
dùng kẹp giữ tiêu bản.
- Quan sát: mắt nhìn vào thị kính (nếu là kính 2 mắt thì cần phải quan sát
bằng cả 2 mắt), dùng tay điều chỉnh ốc sơ cấp (ốc to) sao cho quan sát thấy rõ vật
cần quan sát. Lưu ý, không để cho tiêu bản chạm vào vật kính (có thể dùng ốc
hãm, hoặc chỉnh ốc sơ cấp cho vật kính xuống gần chạm vào tiêu bản thì dừng lại
rồi bắt đầu vừa quan sát vừa chỉnh vật kính lên cho tới khi quan sát rõ mẫu vật).
Dể nhìn rõ nhất hình ảnh của mẫu vật co thể điều chỉnh ốc vi cấp (ốc nhỏ).
- Sau khi sử dụng cần lau kính bằng khăn sạch rồi chụp bao nilon hay cho vào
hộp bảo quản. Luôn bê kính bằng 2 tay (một tay cầm, một tay đỡ phía dưới)
Cách làm tiêu bản tế bào thực vật:
- Dùng kim mũi mác bóc một lớp tế bào biểu bì hành. Để thí nghiệm quan sát
được rõ cần tách lớp biểu bì càng mỏng càng tốt, nếu không tách được mỏng thì
các lớp tế bào chồng lên nhau rất khó quan sát.
- Đặt miếng biểu bì trên lam kính đã nhỏ sẵn một giọt nước, đậy lamen và
quan sát cấu trúc tế bào. Lưu ý học sinh kỹ thuật đậy lamen để tiêu bản không bị
lẫn nhiều bọt khí và vị trí của mẫu ở vị trí trung tâm của lam kính.
2. Giáo viên có thể mở rộng vấn đề bằng cách yêu cầu HS làm thí nghiệm đối
chứng như sau:
Giết chết tế bào bằng cách hơ lam kính trên ngọn lửa đèn cồn và lặp lại thí
nghiệm, sau đó quan sát, nhận xét và giải thích hiện tượng. So sánh kết quả thí
nghiệm trong 2 trường hợp mẫu không xử lý nhiệt và đã qua xử lý nhiệt. Từ kết
quả so sánh yêu cầu học sinh rút ra kết luận về đặc điểm sống của tế bào.
3. GV nên thử làm trước thí nghiệm để xác định nồng độ dung dịch muối

hoặc đường thích hợp.
Bài 15: THỰC HÀNH MỘT SỐ THÍ NGHIỆM VỀ ENZIM
Đây là bài thực hành mang tính chất thực nghiệm, thí nghiệm được thực hiện
trong tiết thực hành nên các nội dung thực hành không phải lúc nào cũng có thể tiến
hành thành công; vì vậy giáo viên có thể chuẩn bị thí nghiệm trước bằng cách ghi lại
hình ảnh kết quả tiến hành thí nghiệm mà giáo viên đã làm trước đó. Nếu gặp trường
9


hợp làm thí nghiệm trên lớp mà không thành công giáo viên có thể cho học sinh quan
sát qua đoạn phim có sẵn để thấy được kết quả thí nghiệm. Đoạn băng ghi đó cũng có
thể sử dụng trình chiếu kết hợp với việc hướng dẫn thực tế của giáo viên trên lớp
trong trường hợp lớp đông, tất cả học sinh không thể nhìn thực tế các thao tác mà
giáo viên hướng dẫn tiến hành thực tế trên lớp. Điều này giúp cho tiết thực hành
thành công hơn, và tất cả học sinh của lớp sẽ tập trung hơn và hứng thú hơn với tiết
thực hành.
* Một số kiến thức học sinh cần chuẩn bị trước tiết thực hành:
1. Enzim là gì? Cơ chế hoạt động của enzim?
- Khái niệm: Là chất xúc tác sinh học được tổng hợp trong tế bào sống làm
tăng tốc độ phản ứng mà không bị biến đổi sau phản ứng.
- Cơ chế hoạt động của enzim
+ Enzim + Cơ chất  phức hợp enzim - cơ chất. Sau đó bằng nhiều cách khác
nhau, enzim tương tác với cơ chất để tạo ra sản phẩm.
+ Mỗi enzim chỉ xúc tác với một phản ứng.
2. Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến hoạt tính của enzim?
- Nhiệt độ: mỗi enzim có một nhiệt độ tối ưu, tại đó enzim có hoạt tính tối đa,
phản ứng xảy ra nhanh nhất.
- Độ pH: mỗi enzim cần một pH thích hợp ...
- Nồng độ cơ chất: Với một lượng enzim xác định nếu tăng dần lượng cơ chất
trong dung dịch thì thoạt đầu hoạt tính enzim tăng dần nhưng đến lúc nào đó thì sự

gia tăng về nồng độ cơ chất cũng không làm tăng hoạt tính của enzim.
- Nồng độ enzim: Với một lượng cơ chất xác định nồng độ enzim càng cao thì
tốc độ phản ứng xảy ra càng nhanh.
- Chất ức chế hoặc hoạt hóa enzim: một số chất hóa học ức chế hoạt động của
enzim nên tế bào khi cần ức chế thì tạo ra chất ức chế đặc hiệu cho enzim đó. Một số
chất khác khi liên kết với enzim lại làm tăng hoạt tính của enzim.
*Một số câu hỏi củng cố, mở rộng:
1. Tại sao với lát khoai tây sống ở nhiệt độ phòng thí nghiệm và lát khoai tây
chín lại có sự khác nhau về lượng khí thoát ra?

10


2. Cơ chất của enzim catalaza là gì? Sản phẩm tạo thành sau phản ứng do
enzim này xúc tác là gì?
3. Tại sao có sự khác nhau về hoạt tính enzim giữa các lát khoai để ở nhiệt độ
phòng thí nghiệm và ở trong tủ lạnh?
4. Cho nước rửa chén bát vào dịc nghiền tế bào nhằm mục đích gì?Giải thích?
5. Dùng enzim trong quả dứa trong thí nghiệm này nhàm mục đích gì? Giải
thích?
6. Có thể tiến hành thí nghiệm với một enzim khác thay thí nghiệm với enzim
catalaza được không?
7. Thử thiết kế các thí nghiệm để chứng minh ảnh hưởng của các nhân tố khác
ngoài nhân tố nhiệt độ ảnh hưởng đến hoạt tính của enzim?
*Các lưu ý khi dạy bài thực hành này:
1. Đây là một thí nghiệm rất khó thành công, đòi hỏi phải có những thao tác
chuẩn xác và thật cẩn thận như: khi cho thêm dung dịch nước rửa chén vào dịch
nghiền phải khuấy thật nhẹ tránh nổi bọt. Khi rót cồn vào ống nghiệm để chiết rút
AND phải rót nghiêng theo thành ống thật nhẹ nhàng… Những thao tác này GV cần
thực hiện trước khi lên lớp.

2. Khi làm thí nghiệm tách chiết ADN, nếu cho ít dịch lọc hay ít chất tẩy rửa
hoặc quá ít nước cốt dứa thì sẽ rất khó có kết quả khả quan.
3. Thí nghiệm tách chiết ADN mất tương đối nhiều thời gian, vì vậy trong quá
trình làm 2 thí nghiệm thì tiến hành thí nghiệm tách ADN trước, trong khi chờ kết
quả thì tiến hành thí nghiệm với catalaza.
Bài 20: QUAN SÁT CÁC KÌ NGUYÊN PHÂN TRÊN TIÊU BẢN RỄ HÀNH
* Một số kiến thức học sinh cần chuẩn bị trước tiết thực hành:
1. Quá trình phân chia nhân gồm những kì nào? Đặc điểm của NST, thoi vô
sắc, màng nhân qua các kì ?
- Kỳ đầu: các NST kép sau khi nhân đôi ở kỳ trung gian dần được co xoắn.
Màng nhân dần tiêu biến, thoi phân bào xuất hiện.
- Kỳ giữa: các NST kép co xoắn cực đại và tập trung thành 1 hàng ở mặt phẳng
xích đạo. Thoi phân bào được đính ở 2 phía của NST tại tâm động.
11


- Kỳ sau: Hai cromatit tách nhau ra ở tâm động thành hai nhiễm sắc thể đơn di
chuyển trên thoi phân bào về 2 cực của tế bào.
- Kỳ cuối: NST dần dãn xoắn, màng nhân và nhân con xuất hiện.
2. Quá trình phân chia tế bào chất ở tế bào thực vật và tế bào động vật diễn ra
như thế nào? Giải thích vì sao có sự khác biệt đó?
- Ở động vật: phần giữa tế bào thắt lại chia thành 2 tế bào.
- Ở thực vật: hình thành vách ngăn phân chia tế bào thành 2 tế bào mới.
3. Vẽ hình mô tả diễn biến của tế bào qua các kì của quá trình nguyên phân?

*Một số câu hỏi mở rộng, liên hệ thực tiễn:
1. Trong quá trình làm tiêu bản rễ hành, để quan sát được các kì của nguyên
phân rõ ràng nhất cần cắt ở phần nào của rễ? Vì sao?
2. Thuốc nhuộm nào được sử dụng để nhuộm rễ hành? Trình bày các bước
tiến hành làm tiêu bản rễ hành?

3. Trong quá trình làm tiêu bản cần phải chú trọng thao tác nào? Vì sao?
*Các lưu ý khi dạy bài thực hành này:
1. Giáo viên có thể làm sẵn tiêu bản cho học sinh lên kính quan sát nhưng cách
làm này không rèn được cho học sinh kĩ năng làm tiêu bản và các thao tác thực hành
khác. Cách tốt nhất giáo viên nên chuẩn bị sẵn mẫu vật (rễ hành đã nhuộm), học sinh
tự cắt mẫu vật và làm tiêu bản sau đó lên kính quan sát, yêu cầu mỗi HS phải làm
được 1 tiêu bản đẹp, quan sát rõ.
12


2. Trước khi học sinh làm tiêu bản, giáo viên cần hướng dẫn HS cắt ở vị trí gần
chóp rễ để thu được các tế bào của mô phân sinh và hướng dẫn học sinh cách dàn đều
mẫu, ...
Bài 24: THỰC HÀNH LÊN MEN ÊTILIC VÀ LACTIC
*Một số kiến thức học sinh cần chuẩn bị trước tiết thực hành:
1. Phân tích cơ chế, bản chất của quá trình lên men?
Lên men bao gồm đường phân và các phản ứng tái sinh NAD + nhờ chuyển
electron từ NADH đến pyruvat hoặc các dẫn xuất của pyruvat. Sau đó NAD + có
thể dùng lại để oxi hóa đường nhờ đường phân từ đó sinh 2 ATP theo con đường
phophorin hóa mức cơ chất. Có nhiều kiểu lên men, chỉ khác nhau ở sản phẩm
cuối cùng, hai kiểu phổ biến là lên men etilic (lên men rượu) và lên men lactic.
2. Phân biệt lên men với các kiểu hô hấp khác?
Lên men là kiểu hô hấp khác với các kiểu hô hấp khác là sản phẩm tạo ra là
các hợp chất hữu cơ và năng lượng tạo ra rất ít.
*Một số câu hỏi củng cố, mở rộng:
1. Quan sát hiện tượng xảy ra, hoàn thành bảng sau:
Nhận xét

Ống nghiệm 1


Ống nghiệm 2

Ống nghiệm 3

2. Nếu ống nghiệm 2 là dung dịch đường 5 - 6 % và có bổ sung thêm dịch
nước ép hoa quả đã thanh trùng thì số lượng bọt khí có thể xuất hiện nhanh và nhiều
hơn. Giải thích.
3. Vi sinh vật được sử dụng trong thí nghiệm trên là nấm men. Ở điều kiện
hiếu khí nấm men hô hấp hiếu khí nhưng khi không có O 2 nấm men chuyển sang lên
men.
a. Giải thích hiện tượng trên.
b. So sánh hô hấp hiếu khí và lên men.
4. Viết sơ đồ các bước chính và so sánh lên men rượu etylic với lên men lactic.
5. Viết hợp chất được hình thành thay chữ X trong sơ đồ làm sữa chua:
VK lactic
Glucozo --------> X + Năng lượng (ít)
6. Bổ sung 1 hộp sữa chua vinamilk để làm gì? Nếu pha sữa với nước nóng
(khoảng trên 500C) có được không? Vì sao?
7. Vì sao sữa chua đang từ trạng thái lỏng trở thành sệt? Vì sao sữa chua là
loại thực phẩm rất bổ dưỡng?
13


8. Có người cho là không có ”tay” muối dưa nên dưa dễ bị khú có đúng
không?
*Các lưu ý khi dạy bài thực hành này:
Đối với bài thực hành này, giáo viên nên cho học sinh tự làm các sản phẩm sữa
chua, dưa muối trước ở nhà. Trong quá trình làm, các em sẽ quay video và thuyết
trình các bước tiến hành, có thể cho học sinh làm theo nhóm hoặc cá nhân tùy điều
kiện cụ thể. Sau đó học sinh sẽ mang sản phẩm của mình đến lớp và chiếu đoạn

video, giáo viên và các nhóm khác đánh giá, nhận xét, cho điểm ...
Bài 28: THỰC HÀNH QUAN SÁT MỘT SỐ VI SINH VẬT
*Một số kiến thức học sinh cần chuẩn bị trước tiết thực hành:
1. Sưu tầm các tư liệu hình ảnh, cấu tạo của các nhóm vi sinh vật.
2. Thế nào là phương pháp nhuộm đơn? Tại sao phải nhuộm đơn để quan sát
hình thái của vi sinh vật?
*Một số câu hỏi củng cố, mở rộng:
1. Trong thí nghiệm nhuộm đơn để phát hiện vi sinh vật, nếu không làm thành
dịch huyền phù, dàn mỏng mà đem nhộm đơn luôn và lên kính quan sát có được
không? Vì sao?
2. Hong khô tiêu bản trên ngọn lửa đèn cồn như thế nào? Giải thích cách
làm?
3. Trong quá trình rửa tiêu bản vi sinh vật cần lưu điều gì?
4. Cách lấy tế bào nấm men để quan sát như thế nào? Giải thích?
5. Qua thực nghiệm em thấy dễ phát hiện loại tế bào vi sinh vật nhân thực hay
nhân sơ? Vì sao?
6. Mẹ thường nhắc con: ”Ăn kẹo xong phải súc miệng nhiều lần hoặc đánh
răng, nếu không rất dễ bị sâu răng”. Lời khuyên ấy dựa trên cơ sở khoa học nào?
7. Khi còn ở trong bụng mẹ, trong khoang miệng của đứa trẻ có vi sinh vật
không? Khi nào trong khoang miệng của đứa trẻ bắt đầu có vi sinh vật?
*Các lưu ý khi dạy bài thực hành này:

14


1. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách hong khô tiêu bản trên ngọn lửa đèn
cồn, nếu học sinh hơ tiêu bản không đúng cách (hơ quá sát ngọn lửa đèn cồn) thì tế
bào vi sinh vật sẽ bị biến dạng hình thái, kết quả quan sát không chính xác.
2. Trong quá trình rửa tiêu bản, cần hướng dẫn học sinh rửa nhẹ nhàng cho bớt
thuốc nhuộm dư thừa, tránh xả nước mạnh sẽ làm các vi sinh vật bị rửa trôi theo

dòng nước.
2.4. Hiệu quả của SKKN
Qua thực hiện phuơng pháp dạy thực hành trên, tôi so sánh với những cách
dạy thông thường đã làm đối với những năm trước, tôi thấy kết quả như sau:
- Học sinh ham thích giờ thực hành hơn, tập trung hơn, hiểu bài hơn.
- Phát huy được tính sáng tạo, chủ động của học sinh hơn.
- Kết quả thu hoạch của học sinh cao hơn
*Cụ thể: Qua khảo sát học sinh ở các lớp tôi trực tiếp tham gia giảng dạy trong
2 năm học 2012 – 2013 và 2013 – 2014, tính tỉ lệ trung bình tôi thu được kết quả các
giờ thực hành như sau:
Chỉ tiêu
Năm học 2012 - 2013
Sự ham thích giờ thực Thấp hơn

Năm học 2013 - 2014
Cao hơn

hành của học sinh
Tỉ lệ học sinh hiểu bài
70% - 80% học sinh
Thực hành do học sinh 60% các thí nghiệm

80% - 95% học sinh
80% các thí nghiệm

làm thực tế
Sáng tạo của học sinh
Thấp hơn
Thành công của các thí 65% - 75% thí nghiệm


Cao hơn
90% - 95% thí nghiệm

nghiệm thực hành
Kết quả của học sinh 20% trung bình

5% trung bình

qua bài thu hoạch

60% khá

65% khá

20% Giỏi

30% Giỏi

3. Kết luận
Đề tài được sử dụng cho mọi đối tượng học sinh, tùy theo mức độ nhận thức
và trình độ người học mà người dạy có thể vận dụng cho phù hợp, giúp học sinh phát
huy được tính tích cực, chủ động trong học tập, tạo ra sự say mê học hỏi, tìm tòi sáng

15


tạo; qua đó học sinh hiểu bài nhanh chóng, nắm vững kiến thức và tạo được hứng thú
trong học tập bộ môn Sinh học.
Qua thực tiễn giảng dạy của cá nhân, tôi nhận thấy đề tài có tác dụng rất thiết
thực. Tuy nhiên, đề tài chỉ được tiến hành nghiên cứu trong thời gian tương đối ngắn

nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý và tham gia của
đồng nghiệp để để có thể đưa ra một phương pháp dạy học tốt nhất, đặc biệt đối với
môn sinh học và các bài thực hành trong chương trình sinh học nhằm phát huy cao
nhất khả năng sáng tạo, phát triển tư duy khoa học, góp phân nâng cao hơn nữa hứng
thú học tập bộ môn Sinh học của học sinh.

16



×