Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài nghị luận tư tưởng đạo lí tại trung tâm GDTX văn bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.78 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
TRUNG TÂM GDTX VĂN BÀN

ĐỀ TÀI NCKHSPƯD
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢNG DẠY KIỂU BÀI NGHỊ LUẬN
TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ
TẠI TRUNG TÂM GDTX VĂN BÀN

Họ tên: Hoàng Thị Kim Cúc
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Tổ chuyên môn: Khoa học xã hội
Đơn vị: Trung tâm GDTX Văn Bàn – Lào Cai

Văn Bàn, ngày 20 tháng 4 năm 2014


Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài
Dạy học môn Ngữ văn trong trong nhà trường THPT không chỉ là việc

giúp cho học sinh nắm được kiến thức của tác phẩm văn học mà quan trọng hơn
là giúp học sinh biết vận dụng kiến thức tổng hợp của liên môn vào cảm thụ,
nhận xét, đánh giá, phân tích và bình luận những áng văn hay; rèn cho học sinh
khả năng tự mình đi vào thẩm thấu thế giới của văn chương.Từ đó, tiếp tục rèn
luyện kĩ năng lập luận hành văn trong sáng, mạch lạc, kĩ năng đặt câu dùng từ
đúng, trúng, có thần, có sức gợi để viết được những bài nghị luận văn học có giá
trị.
Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn chương trình chỉnh lí sách giáo khoa hiện


hành phân môn làm văn có nhiều đổi mới về nội dung kiến thức, khung chương
trình. Đặc biệt là đáp ứng việc đổi mới cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT năm
2014, Nghị luận xã hội là một trong những nội dung quan trọng trong cấu trúc
đề thi đổi mới đó. Và như vậy trong dạng đề nghị luận xã hội không thể không
nói tới kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
Tuy nhiên từ trước tới nay, tại Trung tâm GDTX Văn Bàn rất ít giáo viên
giảng dạy kiểu bài tư tưởng đạo lí thành công vì vốn dạy làm văn đã khó, giáo
viên còn lúng túng trong việc sử dụng các kĩ thuật, phương pháp dạy học, nhiều
học viên thì khó khăn trong nhận diện đề và kĩ năng làm bài. Điều đó làm cho
hiệu quả giảng dạy kiểu bài nghị luận xã hội nói chung, nghị luận về một tư
tưởng, đạo lí nói riêng còn thấp.
Trăn trở trước những đều đó, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài Một số
biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng
đạo lí tại Trung tâm GDTX Văn Bàn. Chọn đề tài này người viết nhằm đóng
góp chút công sức nhỏ bé của mình đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí.

2


II.

Mục đích nghiên cứu.

- Đề tài nhằm giúp học viên rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh và khả năng
vận dụng kết hợp các thao tác lập luận trong bài văn nghị luận. Từ đó giúp học
viên nhận diện kiểu đề và nắm được cách làm bài kiểu bài nghị luận về một tư
tưởng, đạo lí một các dễ dàng và hiệu quả hơn.
- Đề tài nhằm đề xuất một số cách thức nâng cao hiệu quả giờ học nghị luận tư
tưởng, đạo lí tại Trung tâm GDTX Văn Bàn.

III. Đối tượng nghiên cứu
- Học viên lớp 12A1 và 12A3 tại Trung tâm GDTX Văn Bàn
- Từ quá trình nghiên cứu, kiểm chứng thực tế tại trung tâm GDTX Văn Bàn,
đề tài hướng tới đối tượng nghiên cứu: Một số cách thức tổ chức nâng cao
hiệu quả giảng dạy kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí tại Trung tâm
GDTX Văn Bàn .
IV. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu
- Một số vấn đề lí luận về phương pháp, cách thức dạy học Ngữ văn, đặc biệt là
phương pháp dạy học Làm văn.
- Một số vấn đề phương pháp, cách thức về cách làm bài nghị luận về một tư
tưởng đạo lí.
- Thực trạng giảng dạy Làm văn nói chung và kiểu bài nghị luận tư tưởng, đạo lí
nói riêng tại Trung tâm GDTX Văn Bàn.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài nghị luận về
một tư tưởng, đạo lí tại Trung tâm GDTX Văn Bàn.
V.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng hợp một số vấn đề về lí luận liên quan đến nội dung của đề tài: phương
pháp dạy học, đặc điểm loại hình kiểu bài làm văn, một số thuật ngữ văn học liên
quan, tâm lí lứa tuổi, lôgic học...
- Tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong giảng dạy Làm văn nói chung và
kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí nói riêng đối với cả giáo viên và học
viên tại Trung tâm GDTX Văn Bàn.

3


- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giờ dạy học kiểu bài
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí tại đơn vị.
VI. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.

Dựa trên thông tin từ những tài liệu đã có, sử dụng các thao tác tư duy như
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa… để rút ra những kết luận khoa học. Phương
pháp này sử dụng để thu thập thông tin, tư liệu nhằm nghiên cứu, xây dựng cơ sở
lí thuyết của đề tài, tìm kiếm các biện pháp nâng cao hiệu quả kiểu bài nghị luận
về một tư tưởng đạo lí.
- Phương pháp nghiên cứu, điều tra, khảo sát thực tiễn
Tiến hành điều tra, khảo sát bằng quan sát, phỏng vấn nhằm tìm hiểu đặc
điểm tâm lí, tư duy, những năng lực đặc biệt liên quan đến những vấn đề dạy và
học của giáo viên và học viên trong quá trình dạy học kiểu bài nghị luận về một
tư tưởng, đạo lí tại Trung tâm GDTX Văn Bàn. Phương pháp này được sử dụng
để tìm kiếm tư liệu phục vụ cho việc xác định mục đích, lí do chọn đề tài, xây
dựng cơ sở lí thuyết nền tảng vững chắc cho việc đề xuất hệ thống các biện pháp
góp phần nâng cao hiệu quả của giảng dạy kiểu bài nghị luận về một tư tưởng
đạo lí.
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân loại.
Từ các số liệu thu thập được trong quá trình khảo sát, điều tra, tiến hành
so sánh để rút ra các kết luận khoa học làm tiền đề lí luận cho đề tài cũng như so
sánh kết quả đã đạt được với những hạn chế thực tế đã xảy ra trước đó nhằm
chứng minh cho tính khả thi của đề tài.
VII. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được người viết tiến hành nghiên cứu trong năm học 2013 – 2014
tức là từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 4 năm 2014.

4


Phần thứ hai: NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lý luận của đề tài.
I. 1. Một số vấn đề về lô gíc học và tâm lí lứa tuổi
I.1.1. Lí thuyết về lô gíc học

Lôgíc học là một môn khoa học nghiên cứu về tư duy con người, các quy
tắc hoạt động, các qui luật và hình thức của tư duy nhằm nhận thức đúng đắn thế
giới khách quan. Phép suy luận lôgíc là hình thức cơ bản nhất của tư duy nhằm
phản ánh chân thật hiện thực khách quan.
Vì vậy việc coi lô gíc học là một trong những tiền đề của việc làm văn là
hoàn toàn có cơ sở. “Lí luận và tư duy lôgíc là đặc trưng nổi bật của văn nghị
luận” , “Nghị luận là vận dụng tư duy và ngôn ngữ. Khoa học về tư duy là lôgíc
học, khoa học về ngôn ngữ là ngôn ngữ học. Song không nhất thiết phải giỏi
lôgíc mới suy nghĩ đúng và phải thạo ngôn ngữ mới nói viết tốt… Tuy vậy, cũng
cần biết qua một vài thao tác chính của văn nghị luận” Bởi vậy gắn với tư duy
lôgíc là nguyên tắc nổi bật của bộ môn làm văn. Tư duy sắc sảo sẽ giúp người
viết phân tích thấu đáo, cặn kẽ và khái quát đầy đủ, chính xác đồng thời thể hiện
khả năng làm chủ, kiến giải và xử lí vấn đề của mình.
I.1.2. Về tâm lí học lứa tuổi
Mục đích của việc dạy học không chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức
khoa học mà còn phát triển năng lực tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho học
sinh bởi “phương pháp dạy học hiện đại không phải là đưa cho học sinh đáp số
mà phải chỉ cho học sinh con đường ngắn nhất đến đáp số”. Nếu chỉ cung cấp
cho học sinh kiến thức về văn học thì chưa đủ mà cần thiết phải kết hợp rèn rũa
kĩ năng vận dụng thực hành cho học viên. Vấn đề là dạy học phải đáp ứng nhu
cầu học sinh và chú trọng đến tính vừa sức đối với lứa tuổi học viên GDTX.
Với đặc điểm học viên Trung tâm GDTX Văn Bàn lứa tuổi rất đa dạng
khoảng từ 18 đến 48 tuổi, lứa tuổi này không đồng đều như học sinh Trường
THPT( tuổi từ 16 đến 18 tuổi). Hơn nữa đa phần học viên GDTX không chỉ có
nhiều tuổi, họ vừa học vừa làm, tư duy trí tuệ không còn là giai đoạn tốt nhất để
dành cho việc học và nhiều học viên yếu, kém. Cũng từ đó mà việc tiếp cận, đọc
5


hiểu cảm nhận và tiếp thu một tác phẩm văn học đã khó việc vận dụng kĩ năng

thực hành lại càng khó hơn vì đặc điểm của kiểu bài nghị luận tư tưởng đạo lí
đòi hỏi cần phải có không chỉ kiến thức xã hội phong phú mà còn cần phải biết
vận dụng khéo léo kĩ năng làm bài khi đánh giá nhận định một tư tưởng, đạo lí
nào đó.
I.2. Một số khái niệm liên quan
- Phân môn Làm văn: Là một trong ba phân môn của môn Ngữ văn (gồm ba
phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn). Là môn học kết tinh đầy đủ
nguyên lí “Học kết hợp với hành”. Môn học hày vừa có tác dụng bồi dưỡng các
năng lực: Cảm thụ, diễn đạt, suy luận... vừa rèn luyện nhân cách ứng xử, cách
đánh giá và nhìn nhân vấn đề từ đó giải quyết vấn đề của học viên thông qua tư
duy lô gic.
- Biện pháp: Là cách thức tổ chức tìm hiểu, khám phá một vấn đề nào đó nhằm
đưa tới một hiệu quả nào đó hoặc rút ra được một bài học nào đó.
- Biện pháp nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài nghị luận về một tư tưởng
đạo lí: là cách thức tổ chức dạy học, cách thức tác động hai chiều người giáo
viên đến học sinh và ngược lại nhằm tìm ra các cách thức làm chất lượng của
giờ học nghị luận về một tư tưởng đạo lí.. Từ đó giúp đó học sinh chủ động,
sáng tạo trong quá trình vận dụng, tích hợp các kĩ năng làm bài nghị luận về
một tư tưởng đạo lí.
- Tư tưởng đạo lí:Là những ý kiến, nhận định, quan điểm, câu châm ngôn,
danh ngôn, ... mang tính khái quát nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho con
người.
- Đề văn nghị luận xã hội: Là những yêu cầu của người ra đề đối với người viết
về những vấn đề chính trị, xã hội, tư tưởng đạo lí,... Viết bài văn này thực chất
là trình bày những tư tưởng, quan điểm của người viết về vấn đề cần nghị luận
trước sự việc, hiện tượng....diễn ra trong đời sống.
I.3 Một số vấn đề chung về đề văn nghị luận xã hội và nghị luận về một tư
tưởng, đạo lí.
III.3.1. Đề văn nghị luận xã hội.
6



Đề văn nghị luận xã hội là đề yều cầu trình bày những hiểu biết những
lĩnh vực trong đời sống xã hội, tư tưởng đạo lí. Viết bài này tức là người ra đề
muốn “kiểm tra” sự hiểu biết của người viết về vấn đề mà đề bài yêu cầu, từ đó
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Ví dụ:
- Suy nghĩ của anh/chị về hiện tượng ô nhiễm môi trường hiện nay?
- Suy nghĩ của anh/ chị về câu nói sau: “Mất tiền bạc mất it, mất danh dự mất
nhiều, mất niềm tin là mất tất cả”.
Yêu cầu về hình thức, phạm vi tư liệu không phải lúc nào cũng được nêu
trong đề. Đối với dạng đề mở, người viết phải tự xác định phương thức biểu đạt
chính, phạm vi sử dụng tư liệu phục vụ cho yêu cầu của đề.
III.3.2. Các loại đề văn nghị luận xã hội
Căn cứ vào đề tài bàn luận Kiểu bài nghị luận xã hội có có thể chia đề văn
nghị luận xã hội thành 3 loại như sau:
- Nghị luận về một hiện tượng trong đời sống: Đối tượng của kiểu bài này là
những hiện tượng xảy ra trong đời sống, đặc biệt là các hiện tượng liên quan đến
giới trẻ. Trong những hiện tượng đời sống đó có hiện tượng tích cực, có hiện
tượng tiêu cực đến con người. Đối với loại bài này giúp cho học sinh có ý thức
quan tâm và có thái độ đúng đắn trước các hiện tượng đang xảy ra xung quanh.
Ví dụ: Suy nghĩ của anh/chị về hiện tượng nghiện Game oline trong giới
trẻ.
- Nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học: Đối tượng kiểu bài
này là ý nghĩa xã hội nào đó đặt ra trong tác phẩm văn học. Giải quyết đề văn
này, học sinh có cơ hội được bộc lộ năng lực đọc – hiểu tác phẩm, những hiểu
biết, những kiến thức về xã hội.
Ví dụ: Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, cụ Mết
nói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo mác!”. Phải chăng đó là chân
lí của đời sống.

- Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí: Đối tượng của kiểu bài này là một ý kiến,
một quan điểm về tư tưởng, đạo lí. Viết bài văn nghị luận về đề tài này học sinh
7


có điều kiện bộc lộ quan điểm và tự rèn luyện nâng cao phẩm chất tư tưởng, đạo
đức,... của mình.
Ví dụ:
+ Quan niệm của anh/chị về cho và nhận
+ Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau: Thất bại là mẹ thành công
Riêng đối với đề tư tưởng đạo lí được chia thành hai dạng: Dạng đề trong
đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp và dạng đề tư tưởng được nói
tới một cách gian tiếp.
Với cách phân loại như trên và phạm vi đề tài, người viết đang hướng tới
kiểu bài thứ ba là Nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Để có thể giảng dạy hiệu quả
kiểu bài này giáo viên cần thiết phải có cách thức tổ chức phù hợp theo yêu cầu
của bài nghị luận xã hội nói chung và đặc điểm của bài nghị luận về một tư
tưởng đạo lí nói riêng mà cần chú trọng tới tính phù hợp với đối tượng đặc điểm
học viên của Trung tâm GDTX.
Từ những vấn đề lí luận đó cho thấy, để giảng dạy hiệu quả Nghị luận về
một tư tưởng đạo lí giáo viên kiến thức cần thiết không chỉ là kiến thức đa dạng
về đời sống xã hội phục vụ cho bài giảng mà còn nhiều kiến thức khác liên quan
đến phương pháp, cách thức tổ chức tổ chức dạy học.
Chương II: Thực trạng của đề tài
II.1. Về chương trình, cấu trúc đề thi
- Về cấu trúc đề thi:
Năm 2014 là năm đầu tiên Bộ Giáo dục và đào tạo đã quyết định đổi mới
cấu trúc đề thi tốt nghiệp với nhiều phương án được đưa ra. Tuy nhiên phương
án khả thi hơn cả là đề thi gồm 2 phần (Phần I: Đọc hiểu; phần II: Nghị luận văn
học hoặc nghị luận xã hội).

Phương án này được thay thế cho cấu trúc đề trước đây là cấu trúc đề thi
tốt nghiệp Bổ túc THPT ghi đề thi gồm 03 câu (Theo cuốn cấu trúc đề thi môn
Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Ngoại ngữ năm 2009 – NXB Giáo dục do Nguyễn An
Ninh chủ biên, môn Ngữ văn quy định):

8


+ Câu 1 (2,0 điểm): Tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm
văn học Việt Nam và tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài.
+ Câu 2 (3,0 điểm): Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận
xã hội.
+ Câu 3 (5,0 điểm): Vận dụng kĩ năng đọc hiểu và kiến thức văn học biết bài văn
nghị luận văn học.
Từ cấu trúc đề thi mới cho thấy nghị luận xã hội là một phần rất quan
trọng mà trong đó cần vận dụng kĩ năng làm bài nhuần nhuyễn với kiến thức đa
dạng, phong phú mà chính học sinh qua trải nghiệm mà có được để tích hợp vào
bài viết của mình. Bên cạnh kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống thì
không thể không kể đến kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
- Về chương trình: Theo phân phối chương trình GDTX cấp THPT (do Sở Giáo
dục và đào tạo Lào Cai biên soạn ) môn Ngữ văn thực hiện từ năm học 2011 –
2012 thì tới lớp 12 nghị luận xã hội mới chính thức được đưa thành bài học và
hướng dẫn cách thức làm bài, cụ thể như sau:
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống: 02 tiết (Trong đó 01 tiết lí thuyết, 01
tiết thực hành)
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lí: 02 tiết (Trong đó 01 tiết lí thuyết, 01 tiết thực
hành)
- Nghị luận về một vấn đề bàn về văn học: 0 tiết
Từ số tiết ít ỏi đó cho thấy, bài học nghị luận xã hội rất quan trọng nhưng
số tiết được giảng dạy rất ít mà trong các đề thi, bài kiểm tra luôn có những câu

hỏi, đề bài về nghị luận xã hội và trong đó không thể không nói tới nghị luận về
một tư tưởng, đạo lí.
Có được mỗi điểm số là sự cố gắng nỗ lực học tập rèn luyện và tích lũy
vốn sống không ngừng của học viên. Tuy nhiên yêu cầu của cấu trúc đề thi tốt
nghiệp và thi Đại học, Cao đẳng luôn có mà số tiết được học và luyện tập lại rất
ít.Như vậy vấn đề đặt ra là cần có một phương pháp, cách thức dạy và học nâng
cao hiệu quả giờ học nghi luận xã hội mà phạm vi đề tài đang hướng tới kiểu bài
nghị luận về một tư tưởng đạo lí nhằm làm cho học viên có thể nắm được cách
9


thức tiếp cận và giải quyết một vấn đề tư tưởng, đạo lí một cách theo trình tự
khoa học và hiệu quả. Hơn thế nữa khi học viên đã hiểu và làm tốt bài tức là sẽ
giúp người học có khả năng tư duy tổng hợp,tư duy sáng tạo, lô gic... Từ đó học
viên tự được giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho bản thân mình.
II.2. Thực trạng của việc dạy học Nghị luận tư tưởng đạo lí ở Trung
tâm GDTX Văn Bàn.
II.2.1.Thực trạng dạy học Nghị luận xã hội tại Trung tâm GDTX Văn
Bàn.
Nhà giáo Đỗ Kim Hồi, một giáo viên giảng dạy lâu năm, có uy tín ở thủ
đô cũng nhận xét: “Ai đã quan tâm đến tình hình học văn trong các trường
THPT đều thừa nhận rằng Tập làm văn đang là một trong những vấn đề nhức
nhối nhất. Rõ ràng là phân môn này đang đứng trước một sự nghịch thường. Cái
phân môn chắc chắn phải coi là có lịch sử lâu đời trong các môn học, cái phân
môn đáng lẽ phải tích luỹ được nhiều kinh nghiệm nhất nhưng thành quả hoá ra
lại ít ỏi và mong manh cũng vào bậc nhất. Và trong bộ môn Văn, những nguyên
tắc dạy học văn đúng đắn như gắn văn học với đời sống, phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo của học sinh… tưởng đâu phải tìm mảnh đất gieo trồng thích
hợp nhất nơi Tập làm văn thì mới chỉ được bàn luận và thực hiện nhiều trong
các khu vực giảng văn. Lại nữa tập làm văn, cái phân môn kết tinh đầy đủ hơn

cả nguyên lí học đi đôi với hành và phân môn bộc lộ rõ nét hơn cả nhân cách
học sinh thì cũng lại là phân môn đang chịu bạc bẽo…” [67,213].
Về phía giáo viên, xem thường giờ Làm văn. Hiện tượng học vẹt, giờ lên
lớp đơn điệu, giáo viên vẫn nặng về giảng giải còn học sinh thụ động ngồi nghe
và ghi chép vẫn là phổ biến. Giáo viên thường coi nhẹ, ngại dạy Làm văn vì
“khó, khô, khổ”. trong đó có nghị luận xã hội, thậm chí còn có hiện tượng giáo
viên quá sa đà vào giảng dạy tác phẩm văn học, đôi khi còn lấn sang giờ học của
làm văn. Chính điều này người dạy đã khiến cho học sinh không có điều kiện
được tèn luyện kĩ năng làm bài Làn văn nói chung và nghị luận xã hội nói riêng
và quan trọng hơn là học viên không có điều kiện được thực hành vận dụng kiến
thức, kĩ năng tổng hợp vào viết bài văn, khi đó giáo viên cũng không biết học
viên nắm được bài đến đâu và như thế nào.
10


Về phía học viên, nhìn chung có xu hướng không coi trọng môn văn, học
cốt chỉ để thi tốt nghiệp hoặc có học viên lại cho rằng không cần rèn luyện,
không cần có kiến thức vẫn có thể làm bài tốt....Đa số các em chỉ tập trung học
các môn khoa học tự nhiên: Toán , Lý, Hoá,… Đặc biệt các em không hứng thú
và tập trung trong giờ học Làm văn, nên chỉ học một cách khiên cưỡng, thậm chí
dùng giờ học này để học các môn khác hoặc làm việc riêng vì thế kết quả học
tập môn này không cao. Mặt khác, phần lớn các em học viên Trung tâm GDTX
Văn Bàn chưa đảm bảo được mặt bằng kiến thức ở các cấp học trước, không
đồng đều về lứa tuổi. Cho nên giáo viên rất khó áp dụng phương pháp giảng dạy
mới để phát huy tính tích cực, chủ động học viên trong các giờ học nghị luận
văn học, đặc biệt là nghị luận xã hội.
II. 2.2. Thực trạng dạy học Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí tại Trung
tâm GDTX Văn Bàn.
* Thực trạng dạy học kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lí tại Trung
tâm GDTX Văn Bàn.

Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là kiểu bài cũng cùng chung số phận với
cách nghĩ và cách làm đối với giờ học Làm văn. Nhiều giáo viên giảng dạy qua
loa, về lí thuyết, giao cho học viên một đề thật dài, thật khó yêu cầu học viên
làm sau đó là chữa. Đôi khi giáo viên còn máy móc trong đánh giá, nhận xét bài
làm của học viên mà quên đi rằng: Với nghị luận xã hội nói chung nghị luận về
một tư tưởng đạo lí nói riêng học viên được bày tỏ ý kiến, bộc lộ quan điểm của
mình miễn sao là phù hợp, tích cực...
Tại trung tâm GDTX Văn Bàn không phải mới đây mà từ nhiều năm qua
việc thiết kế và dạy học giờ nghị luận về một tư tưởng đạo lí còn gặp nhiều khó
khăn về phía cả giáo viên và học viên dẫn đến việc giảng dạy giờ học này không
đạt được hiệu quả cao.
- Về phía giáo viên.
Trong nhiều năm qua mặc dù cũng đã cố gắng đổi mới thiết kế, giảng dạy
nhưng giờ dạy Làm văn vẫn không mấy hiệu quả. Cứ giáo viên nào khi thi chọn

11


giáo viên dạy giỏi bốc thăm vào bài làm văn trong đó có nghị luận về một tư
tưởng thì “gay go”, cảm thấy mất tự tin vì kiểu bài này rất khó thành công.
Trong các hoạt động thảo luận nhóm sinh hoạt chuyên môn cách thức dạy
cũng đã được đề cập song do nhiều yếu tố đặc điểm bài học, đối tượng học viên
cụ thể cho từng của từng lớp... giờ học này cũng không mấy khi đạt hiệu quả
như mong muốn.
Với bản thân giáo viên phần vì kiến thức xã hội nghèo nàn, phần vì thấy
bài dạy khó đôi khi chỉ dạy qua loa, đại khái, giờ học trở nên nhạt nhẽo, cũng từ
đó gây mất hứng thú học tập cho học viên.Nguyên nhân của hiện tượng này là
do giáo viên chưa có được “con đường” đi đúng đắn, chưa tìm thấy một cách
thức, phương pháp tốt để có một giờ giảng dạy nghị luận về một tư tưởng đạo lí
đạt hiệu quả cao.

- Về phía học viên.
Tại trung tâm GDTX Văn Bàn có khoảng 95 % học viên là người dân tộc
thiểu số, sinh sống ở những bản làng vùng sâu vùng xa, có những nơi đặc biệt
khó khăn, trình độ dân trí thấp. Có nhưng học viên “đọc chưa thông, viết chưa
thạo” vẫn đi học là một nỗ lực lớn của học viên. Nhưng cũng chính các em chưa
thành thạo nói, viết việc nắm được kiến thức cơ bản của cách làm bài nghị luận
cũng đã là một việc cố gắng không ngừng.
Việc làm bài tốt nghị luận về tư tưởng, đạo lí là một thách thức lớn đối
với phần lớn học viên trong khi kiểu bài này vừa yêu cầu cần giải thích được
các khái niệm, thuật ngữ mà cần có kiến thức đa dạng của đời sống với tư duy lô
gíc... Không đáp ứng được yêu câu đó cho nên giờ học nghị luận tư tưởng đạo lí
thường “ngán ngẩm” đối với học viên, không phát huy được tính tích cực của
học viên.
* Bảng phân tích số liệu kết quả dạy học kiểu bài Nghị luận về một tư
tưởng đạo lí (khi chưa áp dụng đề tài). Khi giáo viên ra đề bài như sau:

12


“Đường tuy gần không đi không bao giờ đến, việc tuy nhỏ không làm
không bao giờ nên”- Tuân Tử.
Anh/chị hãy viết một bài văn không quá (400 từ) trình bày suy nghĩ về ý
kiến trên.
Kết quả thu được ở 02 lớp 12A1 và 12A3 cụ thể như sau:
Lớp

Sĩ số

Số HV Kết quả thu được
làm bài


0 - <3

3 - <5

5 - <7

7 - <8

8 - 10

12A1

28

28

11

9

07

01

0

12A3

50


47

14

18

09

04

02

Tổng số

75

25

27

16

05

02

Tỉ lệ %

100%


33.3 %

36.0 %

21.3 %

6.7 %

2.7 %

Chia ra

Dưới TB chiếm Từ TB trở lên chiếm
69.3 %

30.7%

Từ bảng số liệu cho thấy rằng kết quả thu được số bài khá, giỏi rất ít (7
bài – 9.4 %) và tổng số bài từ trung bình trở lên chỉ có 23/75 bài ( chiếm 30.7%)
còn khi điểm dưới TB lại rất nhiều: 52/75 bài (69.3 %). Trong đó chia ra điểm từ
0 - < 3 là 25/75 bài (33.3%) và điểm từ 3- < 5 là 27/75 bài (36%).
Thông qua kết quả này cho thấy rằng hiệu quả giờ học chưa đạt yêu cầu
giáo viên chưa có một phương pháp, một cách thức tổ chức giờ học phù hợp với
đối tượng người học, học viên thì lúng túng trong việc triển khai luận điểm,
thậm chí không hiểu đề, không biết cách làm bài nên số bài yếu, kém mới chiếm
tỉ lệ cao như vậy (69.3 %).
Bản thân đã 7 năm được phân công giảng dạy chương trình lớp 12, trong
số năm đó có tới 5 năm có nhiều giờ dạy Làm văn không thành công, trong đó
phần nhiều có giờ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Qua nhiều lần khảo sát chất

lượng cho thấy kết quả là rất thấp, học viên không hiểu bài, giáo viên chưa cảm
thấy“nặng nề ” khi ra khỏi lớp sau mỗi giờ học Nghị luận về một tư tưởng, đạo
lí phần vì bản thân chưa có đủ kiến thức xã hội phần vì chưa biết nên làm như
thế nào cho học viên hiểu bài và có thể viết bài tốt khi gặp đề bài này.
13


Trăn trở trước thực trạng dạy học Nghị luận xã hội nói chung, Nghị luận
về một tư tưởng, đạo lí nói riêng, thiết nghĩ cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá
thực chất vấn đề. Từ đó thay đổi phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối
tượng học viên và nâng cao hiệu quả dạy học kiểu bài này. Trải qua thời gian
tìm hiểu, nghiên cứu và kiểm nghiệm thực tế giảng dạy, bản thân đã bước đầu
thấy hiệu quả giờ học có sự chuyển biến tích cực, thông qua đề tài người viết
muốn đề xuất một số cách thức dạy học nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.

Chương III:

14


MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY KIỂU BÀI
NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ TẠI TRUNG TÂM GDTX
VĂN BÀN.
Một trong những nguyên tắc quan trọng cần được chú ý trong giảng dạy Làm
văn là làm sao thông qua bài học tạo điều kiện cho học viên được thực sự được
bộc lộ ý kiến, quan điểm của mình trước những vấn đề xã hội.
Dạy học kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí cũng được tiến hành theo
trình tự giờ học nghị luận xã hội nói chung, đề tài không chủ đích đi sâu theo
tiến trình tổ chức giờ học mà chú trọng sự hướng dẫn của giáo viên đối với học

sinh từ quá trình tiếp cận được đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí đến việc
học viên được thực hành và giáo viên kiểm tra và chữa bài cho học viên. Tức là
tập trung đến cách thức nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài nghị luận
này phù hợp với đối tượng học viên Trung tâm GDTX.
III.1. Tìm hiểu đề, lập dàn ý
III.1.1. Tìm hiểu đề
Từ phương pháp chung bài văn nghị luận, tìm hiểu đề là thao tác đầu tiên
khi học viên tiếp cận với bất kì với đề thi nào. Đây là công việc rất quan trọng
nhằm xác định hướng giải quyết đề bài đồng thời nhận dạng kiểu bài, yêu cầu về
nội dung các thao tác lập luận cũng như phạm vi tư liệu của đề bài. Khi nhận
diện được kiểu đề học viên sẽ biết được cách làm bài theo đặc trưng từng kiểu
bài
Với đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường yêu cầu về nội dung làm
rõ một ý kiến, nhận định, quan điểm.... nào đó mà học viên cần nắm được ý
nghĩa của tư tưởng, đạo lí đó.
Sau đó xác định các thao tác lập luận cho bài viết của mình: Nghị luận tư
tưởng đạo lí có thể vận dụng khá linh hoạt các thao tác lập luận, tuy nhiên giải
thích, chứng minh và bình luận là ba thao tác lập luận chính được sử dụng trong
quá trình làm bài.

15


Tìm hiểu đề cần thiết phải xác định được phạm vi sử dụng tư liệu cho kiểu
bài này chủ yếu là trong đời sống xã hội (với một số đề bài cũng có thể sử dụng
trong văn học nhưng không nhiều).
Ví dụ 1: Viết một bài văn (không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của mình về
câu tục ngữ
“Người là hoa của đất”
Khi gặp đề như thế này học viên cần định hình ngay được: Đây là kiểu

bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí.
- Yêu cầu về nội dung: Con người là kết tinh vẻ đẹp tinh túy nhất.
- Yêu cầu sử dụng các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, bình
luận
- Yêu cầu về phạm vi tư liệu: Đời sống xã hội...
Đối với đặc thù đối tượng học viên có sự khác biệt về vùng miền, văn hóa
và lứa tuổi... giáo viên nhất thiết phải hướng dẫn tìm hiểu đề và xem đó là một
khâu quan trọng nhất là với những đề luyện tập đầu tiên. Thực tế việc làm này
đã được định hình trong quá trình tìm hiểu ngữ liệu khi học lí thuyết, tuy nhiên
nó chưa được gọi tên một cách rõ ràng và mạch lạc, học viên khó hình dung. Vì
thế khi bắt đầu luyện tập học viên cần nắm bắt được một cách chắc chắn và đó
là những thao tác đầu tiên khi nhận được đề bài.
Hơn nữa đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí luôn có bài học sâu sắc, ý
nghĩa đối với cuộc sống, với đa số học viên hiểu biết xã hội còn hạn chế nếu
giáo viên không hướng dẫn việc tìm hiểu đề thì việc việc hiểu trúng, hiểu đúng
đề bài thì sẽ rất khó khăn cho học sinh tiếp cận đúng đề. Và nếu không hiểu hết
các tầng hàm nghĩa của tư tưởng, đạo lí sẽ dẫn đến bài viết trở nên nông cạn, hời
hợt, thiếu sức thuyết phục.
III.1.2. Lập dàn ý
Sau khi tìm hiểu đề cũng như phương pháp chung của một bài văn nghị
luận giáo viên hướng dẫn học viên tìm dàn ý cơ bản cho bài viết nhằm tạo ra bộ
khung kiến thức cho ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài
* Với phần mở bài giáo viên định hướng cho học viên giới thiệu vấn đề
nghị luận. Ở phần này, với đối tượng học viên (với đặc điểm đã trình bày ở trên),
16


nên hướng dẫn học viên mở bài một cách trực tiếp, giới thiệu vào thẳng vấn đề
và thật sự ngắn gọn, trúng ý.
Ví dụ 2:

Cho đề bài sau: Suy nghĩ của anh/chị về câu tục ngữ Tây Ban Nha:
“Mẹ là trường học vĩ đại nhất của những người con”
Phần mở bài có thể có nhiều cách khác nhau nhưng cần nêu ngắn gọn
được hai ý sau:
- Vai trò quan trọng của mẹ đối với những người con.
- Dẫn chính xác câu tục ngữ.
* Đối với bài nghị luận về tư tưởng, đạo lí giáo viên cần đặc biệt chú
trọng vào phần hướng dẫn dàn ý phần thân bài. Vì đây là phần chính, phần lấy
điểm của học viên. Giáo viên hướng dẫn học viên theo tiến trình như sau:
Bước 1: Giải thích, từ ngữ quan trọng và nêu ý nghĩa của câu nói
Bước 2: Bình luận, chứng minh: Ý kiến đó đúng hay sai hoặc vừa có phần đúng
vừa có phần sai. Cần tìm ra những lí giải cơ bản cho nhận định đó học viên.
Bước 3: Thái độ và hành động:
- Đồng tình với những vấn đề xã hội có ý nghĩa tích cực
- Lên án, phê phán đối với những vấn đề tiêu cực.
- Liên hệ, rút ra bài học cho bản thân
Từ đề bài của Ví dụ 2 phần thân bài giáo viên cần hướng dẫn học viên
biết cách lập dàn ý theo các 3 bước cơ bản
+ Giải thích: Mẹ không chỉ là người sinh ra ta mà cao cả hơn là mẹ là mẹ
yêu thương, dưỡng dục ta từ khi ta bắt đầu biết nhận thức về thế giới xung
quanh đến khi trưởng thành. Trong gia đình, học từ mẹ là nhiều nhất, là
quan trọng nhất.
Ý nghĩa của câu nói là : Đề cao vai trò to lớn của người mẹ.
+ Bình luận, chứng minh:
/ Mẹ luôn bên ta dìu dắt, nâng bước cho ta, mẹ dạy ta từ những hành
động cử chỉ nhỏ nhất, lời ăn, tiếng nói....(dẫn chứng)

17



/ Mẹ truyền cho ta đời sống tinh thần: biết yêu thương, buồn, vui... (dẫn
chứng)
/Con là máu thịt của mẹ, với mẹ con là tất cả
/Vai trò của người là la vô cùng to lớn đối với con
/ Thật hạnh phúc khi những ai sinh đã có mẹ ở bên và đươc bên mẹ trong
những năm tháng trong cuộc đời.
/ Song thực tế cuộc sống vẫn có những người mẹ vì quá yêu thương mà lại
biến con minh thành một thứ “tầm gửi”, sống ích kỉ, dự dẫm vào người
khác....(dẫn chứng). Hoặc lại có những người con không biết kính trọng,
yêu thương mẹ của mình...
/ Trách nhiệm bổn phận của con cái đối với những người đã sinh thành ra
mình đặc biệt là mẹ....
* Kết bài là đánh giá khái quát ý nghĩa tư tưởng đạo lí được bàn tới.
Vẫn từ đề bài của ví dụ 2 kết bài cần khái quát khẳng định vai trò của
người mẹ, sự dạy dỗ của mẹ là trường học lớn nhất của mỗi con người.
Việc hướng dẫn học viên kĩ lưỡng lập dàn ý cho một đề bài cụ thể, ban đầu sẽ
mất khá nhiều thời gian vì khi mới được làm quen để tìm ra hướng giải quyết đề
bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí học viên còn lúng túng chưa biết nên làm
như thế nào và bắt đầu từ đâu. Để vừa có thể tiết kiệm được thời gian vừa có thể
giải quyết vấn đề nhanh gọn giáo viên cần có sử dụng các phương pháp, kĩ thuật
dạy học tích cực phù hợp với từng lớp, từng đối tượng nhằm huy nhiều học viên
tham gia cùng tìm hiểu đề và lập dàn ý. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp
dạy học tích cực: thảo luận nhóm, kĩ thuật khăn trải bàn, đắp bông tuyết.... nhằm
làm cho giờ học làm văn trở nên sinh sinh động, dễ hiểu hơn đối với học viên.
III.2. Hướng dẫn học viên viết bài nghị luận về một tu tưởng đạo lí.
Khi học viên đã hiểu được yêu cầu của đề bài và bước đầu đã có được những
luận điểm của bài viết, tức là học viên đã định hình được hướng đi của bài viết
của mình. Tuy nhiên phần việc quan trọng là lắp ráp hệ thống ý đó thành một
bài văn hoàn chỉnh. Để có thể thành thạo và nhuần nhuyễn ngay đối với học
sinh giỏi còn là một thách thức thì với đối tượng là học viên GDTX còn nhiều

18


hạn chế về kiến thức, kĩ năng điều đó lại càng khó khăn hơn, trong khi số tiết
quy định rất ít (02 tiết).
Từ sự eo hẹp về thời gian và đăc điểm đối tượng học học viên của Trung
tâm GDTX cần tìm ra một cách thức có thể phát huy tính tích cực của học viên
đồng thời nâng cao chất lượng giờ học cho bài học nghị luận về một tư tưởng
đạo lí. Xuất phát từ thực tế đó giáo viên đã chuyển thể quá trình viết bài văn
này thành yêu cầu học viên trả lời hệ thống câu hỏi ở phần thân bài của bài viết.
III.2.1. Phần mở bài: trực tiếp, ngắn ngọn.
Với phần mở bài và kết bài học viên có thể dễ dàng có thể nêu được và
đánh giá khái quát ý nghĩa vấn đề nghị luận vì phần này chưa yêu cầu nhiều đến
các kĩ năng phân tích, giải thích, bác bỏ hoặc bình luận...
Phần này giáo viên cần hướng dẫn học viên viết khoảng 3 – 4 câu (thậm chí
có thể là 2 – 3 câu) sao cho phần mở bài đúng, trúng yêu cầu là giới thiệu được
vấn đề cần nghị luận vì với học viên GDTX càng tinh giản, ngắn gọn bao nhiêu
càng tốt bấy nhiêu. Thực tế giảng dạy cho thấy, nếu đối tượng người học này
hướng dẫn mở bài dài, gián tiếp là thất bại.
Ví dụ 3: Với đề bài : Anh /chị hãy bàn luận về câu: Thất bại là mẹ thành
công.
Có thế mở bài như sau:
Trong cuộc sống không phải lúc nào ta làm một việc gì đó cũng thành công
ngay mà cũng có khi ta ta thất bại. Điều quan trọng là khi thất bại ta rút ra
được những bài học kinh nghiệm để tiếp tục đứng lên theo đuổi ước mơ của
mình. Nên mới có câu:
“Thất bại là mẹ của thành công”.
Bằng cách mở bài này đã cho thấy học viên dễ dàng định hình được cần làm
gì về hình thức và nội dung của của phần mở đầu của bài văn nghi luận về một
tư tưởng đạo lí.

III.2.2. Phần thân bài:Trả lời câu hỏi.
Theo hướng dẫn chung cách làm bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí, phần
thân bài gồm ba luận điểm lớn, là phần trọng tâm kiến thức và yêu cầu vận dụng
19


đa dạng các thao tác lập luận và hiểu biết phong phú của đời sống vào bài viết.
Đồng thời, phần này cũng là phần khó khăn nhất đối với học viên vi không chỉ
yêu cầu đảm bảo được kiến thức mà còn cần tư duy lôgíc, lập luận chặt chẽ
thuyết phục người đọc...
- Giải thích: Nó là gì? Có ý nghĩa như thế nào?
- Bình luận, chứng minh:
+ Câu nói (ý kiến) đúng hay sai (hoặc vừa đúng vừa sai)? Vì sao?(nếu là
một ý kiến/ câu nói/ quan điểm )
+ Biểu hiện của nó như thế nào? Chứng minh
+ Đồng tình, trân trọng hay lên án, phê phán...? Chứng minh
- Là học sinh/ công dân phải làm gì trước những vấn đề đó?
Điều hạn chế của học viên khi viết bài thường chỉ giải thích, bình luận hời
hợt nông cạn, chưa thấu đáo, thậm chí hiểu sai lệch vấn đề cũng có khi biết kiểu
bài này được bộc lộ quan điểm của mình thì nói quá lên không có tác dụng giáo
dục của đề bài mà người ra đề hướng tới. Cũng có trường hợp học viên khi bình
luận chỉ đi theo một chiều (hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực) lại không biết nhìn
nhận đánh giá sự việc một cách đa chiều, đa diện. Vì đề nghị luận về một tư
tưởng, đạo lí có những vấn đề đúng, có vấn đề sai, cũng có những câu nói, ý kiến
vừa đúng vừa sai.
Việc đặt ra những câu hỏi mang tính công thức như vậy sẽ giúp cho học
viên dễ dàng trong quá trình triển khai các luận điểm trong phần thân bài. Trả lời
được các câu hỏi đó một cách tuần tự và đầy đủ chắc chắn bài viết của học viên
sẽ được cải thiện và nâng cao lên. Trong quá trình giảng dạy mặc dù giáo viên đã
cố gắng hướng dẫn học viên giải thích, bình luận... nhưng đa phần học viên cũng

khó hiểu khi tiếp cận với tên các thao tác lập luận đó.
Hơn nữa đối với phần đông học viên Trung tâm GDTX nhiều học viên
trung bình, yếu hay cán bộ xã đã có tuổi ...thường đặt mục tiêu trước mắt và
quan trọng nhất là đỗ Tốt nghiệp THPT sau đó có thể đi học nghề hoặc tiếp tục
hoạt động công tác xã hội tại địa phương. Thì giáo viên làm sao hướng dẫn và

20


lựa chọn phương pháp sao cho ngắn gọn, dễ hiểu nhất mà vẫn đạt yêu cầu là tốt
nhất và việc đặt ra câu hỏi là một cách thức tích cực và hiệu quả.
Ví dụ 4: Đề bài
Ích kỉ và vị tha anh/chị chọn lối sống nào?
Trong phần thân bài khi trả lời các câu hỏi như đã nêu giáo viên định
hướng cho học viên cho đề bài này như sau:
- Giải thích: Nó là gì? Ý nghĩa như thế nào?
+ Ích kỉ: là chỉ biết đến mình, luôn coi trọng lợi ích của bản thân mà
không quan tâm, coi trọng lợi ích của người khác.
+ Vị tha: là vì người khác, đề cao lợi ích của người khác hơn quyền lợi
của bản thân
+ Ích kỉ và vị tha là hai tích cách đối lập nhau nên hình thành những lối
sống khác nhau.
- Biểu hiện:
+ Lối sống ích kỉ: người có lối sống này chi chăm chút cho bản thân, đấu
tranh cho lợi ích của mình (ngay cả khi không xứng đáng, thậm chí dẫm
đạp lên quyền lợi của người khác bằng mọi thủ đoạn cốt là đạt được mục
đích của mình); Nếu người có lối sống này thường là người gây hại cho
người khác, thường bị coi thường và bị xa lánh, dễ trở nên cô đơn...; Đó
là lối sống nhỏ nhen tầm thường.
+ Lối sống vị tha: Thường biết quan tâm, chia sẻ với người khác, coi

trọng, đề cao lợi ích của bản thân mình (ngay cả khi lợi ích của người
khác có mâu thuẫn với lợi ích của bản thân); Đó là lối sống tốt đẹp, đáng
ca ngợi, trân trọng; Nhờ sống vị tha mà cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn,
con người xích lại gần nhau.
- Thái độ và hành động:
+ Ca ngợi những người có lối sống vị tha, phê phán những người ích kỉ;
Với người vị tha cần tránh lạm dụng lòng tốt của họ.
+Chọn lối sống vị tha, tuy nhiên lòng tốt cần được đặt đúng chỗ....

21


Với việc hướng dẫn học viên viết phần thân bài bằng việc trả lời các câu
hỏi để triển khai các luận điểm phần thân bài. Chắc chắn học viên sẽ cảm thấy
phần thân bài dễ dàng hơn và có thể đáp ứng những yêu cầu cơ bản nhất của
phần thân bài đặt ra. Và hiệu quả này đã được chứng minh tại Trung tâm GDTX
Văn Bàn.
III.2.3. Phần kết bài: Nêu cảm nghĩ và khái quát vấn đề.
Về phần kết bài giáo viên cần định hướng cho học viên nêu suy nghĩ và
khái quát ý nghĩa của đề bài đặt ra. Đồng thời cũng qua phần này cần nêu được
giá trị tư tưởng mà đề bài đề cập và nêu suy nghĩ của bản thân trước vấn đề đó.
Để có được một giờ giảng dạy nghị luận về một tư tưởng đạo lí đạt hiệu
quả, phát huy được tính tích cực của học viên tại Trung tâm GDTX Văn Bàn
nhiều năm qua người viết trăn trở và mạnh dạn tìm hiểu, nghiên cứu và kiểm
nghiệm. Có thể với học sinh THPT có những điều đề tài đề cập không còn mới
mẻ. Thậm chí với học sinh THPT tương đối đồng đều về lực học và lứa tuổi...
việc viết được một văn nghị luận xã hội nói chung và nghị luận về một tư tưởng,
đạo lí nói riêng có thể dễ dàng.
Nhưng với đối tượng học viên GDTX có những đặc thù riêng về trình độ
nhận thức, lứa tuổi... Người viết đã trăn trở và cố gắng tìm ra một số cách thức tổ

chức giảng dạy kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí như phần trình bày như
trên đã đem lại những chuyển biến tích cực, nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu
bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí tại trung tâm GDTX Văn Bàn.

22


Chương IV. Thể nghiệm đề tài.
IV.1. Cách thức thể nghiệm.
Thông qua việc tìm hiểu đối tượng học viên tại Trung tâm GDTX Văn
Bàn, tại các lớp trực tiếp giảng dạy (Lớp 12A1 và 12A3). Người viết đã phỏng
vấn, lắng nghe những thắc mắc, khó khăn của từng học viên trong trong cũng
như ngoài giờ học. Người viết đã nghiên cứu và thể nghiệm áp dụng một số cách
thức mới trong giờ học chính khóa và phụ đạo, ôn thi tốt nghiệp tại 2 lớp 12.
IV.2. Kết quả thể nghiệm.
Sau khi tiến hành dạy thử nghiệm và khảo sát tại 02 lớp 12A1 và 12A3 kết
quả thu được như sau:
Đề bài:
“Đường tuy gần không đi không bao giờ đến, việc tuy nhỏ không làm
không bao giờ nên”- Tuân Tử.
Anh/chị hãy viết một bài văn không quá (400 từ) trình bày suy nghĩ về ý
kiến trên.
Lớp

Sĩ số

Số HV

Kết quả thu được


làm bài

0 - <3

3 - <5

5 - <7

7 - <8

8 - 10

12A1

28

27

04

05

12

03

03

12A3


50

50

05

08

21

11

05

Tổng số

77

09

13

33

14

08

Tỉ lệ %


100%

11.7%

16.9%

42.8%

18.2%

10.4 %

Chia ra

Dưới TB chiếm

Từ TB trở lên chiếm

28.6 %

71.4 %

Nhìn vào bảng số liệu đã cho thấy những con số “biết nói” sau khi áp
dụng thể nghiệm đề tài.
- Lớp 12A1: Đây là lớp học viên học đúng độ tuổi, dù là nhiều học viên học lực
yếu
Nhưng với việc nắm chắc được các bước làm bài nghị luận về một tư tưởng đạo
lí. Kết quả thu được sau khi khảo sát đạt được kết quả có số bài trên TB là 18/27
23



( 66.7 % ) mà trước khi chưa áp dụng đề tài chỉ đạt kết quả thấp với số bài trên
TB là 8/28 (28,5 %).
- Lớp 12A3: Là lớp đối tượng học viên chủ yếu là cán bộ xã, nhiều học viên có
độ tuổi từ 35 – 54. Khi hướng dẫn học viên theo cách thức dễ nhớ như vậy cho
thấy, tinh thần học tập của học sinh thoải mái hơn, học viên hiểu bài và vận dụng
kĩ năng làm bài tự tin hơn. Với kết trước khi áp dụng đề tài có số bài trên TB chỉ
là: 15/47 (31.9 %), còn sau khi vận dụng đề tài vào hướng dẫn học viên thì kết
quả đã thay đổi theo chiều hướng tăng lên số bài trên TB là 37/50 (chiếm 74%).
- Tổng hợp, so sánh trước và sau khi áp dụng đề tài.
Thời điểm áp dụng ĐT

Tổng số HV

Dưới TB
52 bài

TRên TB
23 bài

Trước khi áp dụng ĐT

75

(69.3%)
22 bài

(30.7%)
55 bài


Sau khi áp dụng ĐT

77

(28.6 %)

(71.4 %)

Từ thực trạng chính giảng dạy bộ môn tại chính đơn vị mình, sau khi
nghiên cứu, tìm hiểu đối tượng và lựa chọn cách thức, áp dụng đế tài, kết quả thu
được là khả quan và đã có những chuyển biến tích cực. Từ bảng tổng hợp cho
thấy tỉ lệ đươi TB giảm từ 69.3 % xuống 28.6 % và tỉ lệ trên TB tăng từ 30.7 %
đến 71.4%. Điều đó chứng minh cho tính hiệu quả của đề tài.
Trong quá trình giảng dạy, thể nghiệm đề tài, người viết nhận thấy rằng
học viên ở lớp học viên đúng độ tuổi hay học viên có tuổi việc nhận diện và biết
cách làm bài một cách dễ dàng hơn rất nhiều. Và khi học sinh đã thấy đơn giản
hơn trong quá trình tiếp cận đề bài văn tức là việc lựa chọn cách thức hướng dẫn
học sinh là phù hợp với đối tượng học viên. Đồng thời người dạy cũng đã lựa
chọn được cách thức dạy học tích cực và hiệu quả.
Phần thứ 3: Kết luận và ý kiến đề xuất, kiến nghị
1. Ý nghĩa:
Đổi mới phương pháp dạy học là nội dung quan trọng luôn được đề cập
đến trong bất kì một cuộc hội thảo, cuộc sinh hoạt chuyên môn nào. Trước một
bài giảng giáo viên cần phải lựa chọn những cách thức tổ chức, phương pháp
24


dạy học tích cực sao cho phù hợp với đối tượng người học nhằm làm cho con
đường từ học sinh đến kiến thức ngắn nhất. Việc lựa chọn phương pháp chung
cho cả phân môn hay nhóm bài luôn được giáo viên chú trọng.

Song việc đi vào tìm hiểu chi tiết cụ thể cho từng kiểu, dạng bài thì nội
dung này chưa được bàn đến nhiều, đặc biệt là giảng dạy nghị luận xã hội nói
chung nghị luận về một tư tưởng, đạo lí nói riêng tại trung tâm GDTX với đối
tượng người học mang tính đặc thù về lứa tuổi, địa vị xã hội, trình độ nhận
thức...Tuy nhiên tất cả những điều đó không phải là “rào cản” để giáo viên
không thể vượt qua, bằng sự nghiêm túc trong nghiên cứu bồi dưỡng chuyên
môn đặc biệt là phương pháp cách thức giảng dạy kiểu bài nghị luận vể một tư
tưởng, đạo lí vẫn đạt được hiệu quả tốt.
Từ đó càng khẳng định rằng giảng dạy nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
không thể xem nhẹ mà cần được tìm hiểu nghiên cứu kĩ lưỡng, toàn diện của
giáo viên từ ý tưởng, bài soạn, chuẩn bị đến tiến trình tổ chức giờ học. Có làm
được như vậy mới đảm bảo đáp ứng yêu cầu của giờ học Làm văn nói chung và
nghị luận về một tư tưởng, đạo lí nói riêng
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí nói riêng nghị luận xã hội nói chung
không chỉ giúp học viên biết các làm một bài văn để đi làm bài kiểm tra, đi thi
tốt nghiệp mà còn rèn luyện kĩ năng phân tích, tổng hợp, bình luận…trước
những một vấn đề nào đó trong cuộc sống. Hơn thế nữa qua quá trình học kiểu
bài này học viên rèn khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện tư duy lô gíc…
Đặc biệt trước những vấn đề mà tư tưởng đạo lí đặt ra, người học được nhận xét,
đánh giá, bình luận người học được giáo dục kĩ năng sống, giá trị sống và có thể
tự dần hoàn thiện nhân cách của chính mình.
2. Kiến nghị, đề xuất:
* Đối với Sở giáo dục: Cần có nhiều đợt tập huấn về phương pháp dạy
học văn theo đặc trưng kiểu bài, trong đó có kiểu bài nghị luận xã hội nói
chung, nghị luận về một tư tưởng đạo lí nói riêng (tập huấn theo khối THPT
và GDTX).

25



×