Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích, chứng minh tính nghề nghiệp của quản lý kinh doanh và đề xuất các giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.84 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐH KD&CN HÀ
NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌC
LỚP QTKD 10.02
BÀI KIỂM TRA
MÔN: KHOA HỌC QUẢN LÝ
Họ và tên học viên: TRẦN ĐỨC MINH
Mã số học viên: 1500344
Lớp: Cao học QTKD 10.02

Đề bài: Căn cứ các thuyết quản lý, các nguyên tắc, các phương pháp
quản lý và liên hệ thực tiễn doanh nghiệp (trong và ngoài nước), hãy phân
tích, chứng minh tính nghề nghiệp của quản lý kinh doanh và đề xuất các
giải pháp. Vận dụng có hiệu quả vào các Doanh nghiệp nước ta hiện nay.
Trả lời:
Trong thời đại xã hội phát triển mạnh như hiện nay vai trò của công tác
quản lý là rất quan trọng, nó quyết định sự thành công hay thất bại của cả một
đất nước nói chung và từng tổ chức doanh nghiệp nói riêng. Phương pháp
quản lý khoa học và công cụ quản lý phù hợp, tiên tiến sẽ bảo đảm sự tồn tại,
hoạt động và phát triển bình thường của đời sống kinh tế xã hội nói chung và
với các doanh nghiệp nói riêng. Có công cụ phù hợp và tiến tiến nhưng không
có phương pháp quản lý khoa học thì chắc chắn không thể thành công.
Hiện nay sự nhận thức của hầu hết mọi người về vai trò của công tác
quản lý cho tới nay hầu hết đều thông qua cảm nhận về thực tế. Vì vậy muốn
nâng cao nhận thức về vai trò của quản lý, một mặt cần nâng cao nhận thức
thực tế, mặt khác cần nâng cao nhận thức lý luận. Có như vậy ta mới có thể


nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về vai trò của quản lý, làm cơ sở để hiểu biết
về quản lý, thực hành quản lý và nâng cao trình độ quản lý.
Qua phân tích thực tế về những nguyên nhân thất bại trong hoạt động


kinh doanh của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp, chúng ta thấy được nguyên
nhân cơ bản vẫn là do công tác quản lý, giám sát yếu kém hoặc là thiếu kinh
nghiệm, trình độ trong quản lý đồng thời không có công cụ quản lý tiên tiến
phù hợp. Từ đó dẫn đến buông lỏng quản lý, tham nhũng, lãng phí. Việt Nam
chúng ta hiện nay được đánh giá là một quốc gia đang bắt đầu phát triển và
chỉ cần nhìn vào một chỉ tiêu cơ bản là năng suất lao động đã cho ta thấy ngay
sự lãng phí không thể tưởng tượng được về các nguồn nhân lực và vật lực do
phương pháp quản lý và công cụ quản lý yếu kém không phù hợp. Chúng ta
thấy rằng hiện nay các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường
cạnh tranh khốc liệt với những biến đổi nhanh chóng về khoa học công nghệ
thì nếu không có phương pháp quản lý khoa học kết hợp với công cụ quản lý
phù hợp tiến tiến sẽ thất bại và tụt hậu.
Các doanh nghiệp hiện đang phải hoạt động trong một môi trường cạnh
tranh khốc liệt của kinh tế thị trường với những biến đổi nhanh chóng về khoa
học công nghệ, những đạo luật mới, các thỏa thuận song phương, đa phương,
cam kết thương mại quốc tế (WTO, TPP...) nó chi phối và đòi hỏi phải có
những phương pháp quản lý khoa học phù hợp trên từng lĩnh vực cụ thể. Hoạt
động sản xuất kinh doanh trong những điều kiện như vậy đòi hỏi những người
quản lý ở các doanh nghiệp phải hiểu biết rõ về các vấn đề kinh tế và nắm
được phương pháp quản lý doanh nghiệp sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao
nhất.
I. Các khái niệm cơ bản:
1. Quản lý là gì?


Quản lý là quá trình thực hiện các tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý để phối hợp hoạt động của các cá nhân và tập thể nhằm đạt các
mục tiêu đã đề ra của tổ chức. Quản lý là quá trình làm việc với người khác
và thông qua người khác để thực hiện các mục tiêu của tổ chức trong môi
trường luôn biến động.

Quản lý là yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp các hoạt động của các
cá nhân. Ta biết rằng để tạo ra sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của đời sống và
phát triển kinh tế,nhất thiết phải tiến hành phân công lao động và hiệp tác sản
xuất. Sự xuất hiện của quản lý như là kết quả tất nhiên của việc chuyển các
quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành các quá trình lao
động phải có sự phối hợp. Sản xuất và tiêu thụ mang tính tự cấp, tự túc do
một cá nhân thực hiện không đòi hỏi quản lý. Ở một trình độ cao hơn, khi sản
xuất và kinh doanh mang tính xã hội rõ nét và ngày càng sâu rộng hơn,khi đó
quản lý là điều không thể thiếu. Theo C.Mác, “Bất cứ lao động xã hội hay lao
động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có
một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân”. Do đó, quản lý là
thuộc tính tự nhiên, tất yếu khách quan của mọi quá trình lao động xã hội, bất
kể trong hình thái kinh tế xã hội nào, nếu không thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ quản lý, không thể thực hiện được các quá trình hợp tác lao động,
sản xuất, không khai thác sử dụng được các yếu tố của lao động sản xuất có
hiệu quả.
Quản lý có khả năng sáng tạo to lớn. Điều đó có nghĩa là cùng với các
điều kiện về con người và về vật chất kĩ thuật như nhau nhưng tổ chức quản
lý có thể khai thác khác nhau, đem lại hiệu quả kinh tế khác nhau. Có thể nói
quản lý tốt chính là biết sử dụng có hiệu quả những cái đã có để tạo nên
những cái chưa có trong xã hội. Vì vậy quản lý chính là yếu tố quyết định
nhất cho sự phát triển của một quốc gia và các tổ chức trong đó. Trong thực tế


có những nước rất khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên,nhưng với những
chính sách kinh tế và quản lý khoa học, hiện đại đã gặt hái được thành công to
lớn trong phát triển kinh tế như Nhật Bản, Hàn Quốc ... và điển hình hiện nay
là Singapore. Quản lý ngày nay đã trở thành yếu tố cơ bản hàng đầu của một
nền sản xuất và kinh tế hiện đại. Đối với sản xuất và kinh tế hiện đại, quản lý
đóng vai trò quyết định của sự thành công. Có những yếu tố sau đây làm tăng

vai trò của quản lý đòi hỏi quản lý và thích ứng trong các nền sản xuất và
kinh tế hiện đại, đó là:
- Đặc điểm và quy mô sản xuất hiện đại đòi hỏi quản lý phải được nâng
cao tương ứng với nền kinh tế.
- Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội ngày càng cao đòi hỏi quản lý
phải có phương pháp thích hợp.
- Ngoài các yếu tố nêu trên cần phải kể tới nhiều yếu tố khác về kinh tế
và xã hội cũng đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý. Đó là sự
phát triển dân số và nguồn lao động cả về quy mô và cơ cấu; Sự biến động
của thị trường trong nước và quốc tế; Yêu cầu bảo vệ và năng cao chất lượng
của môi trường sinh thái và môi trường trong xã hội trong phát triển.
2. Quản lý là khoa học
Khoa học là tập hợp các tri thức được hệ thống hoá nhằm phản ánh một
cách khách quan các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên, trong xã hội và
con người, giải thích các mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng đó cùng
với sự vận động của chúng, giải thích nguyên nhân hay nguồn gốc của các sự
vận động đó và dự báo xu thế vận động và phát triển.
Quản lý là một lĩnh vực hoạt động khoa học kinh tế xã hội phức tạp và
có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Những công
trình nghiên cứu ban đầu có tính khoa học về quản lý còn khá non trẻ so với
nhiều ngành khác, mới chỉ có độ tuổi gần 100 năm nay. Điều này nói nên


quản lý đã trở nên một đối tượng nghiên cứu khoa học được quan tâm xem
xét và chắc chắn sẽ còn tiếp tục được đẩy mạnh. Việc tiến hành các hoạt động
quản lý trong thực tế, trong những điều kiện cụ thể được xem vừa là khoa học
vừa là nghệ thuật. Trong bối cảch kinh tế xã hội của thế giới hiện đại ngày
nay, công tác quản lý trên hầu hết các lĩnh vực đòi hỏi cán bộ quản lý phải có
được một trình độ đào tạo nhất định.
Trong khoa học và trong thực tế người ta thường đề cập đến chức năng

của một cơ cấu hoặc bộ máy, chức năng của một doanh nghiệp và chức năng
của một phòng ban trong doanh nghiệp. Tóm lại chúng ta có thể hiểu chức
năng là tập hợp những hoạt động hay hành động cùng loại của một hệ thống
hoặc một bộ phận trong hệ thống. Như vậy, khi nghiên cứu cơ cấu của bất kì
hệ thống nào, chúng ta không thể không đề cập đến phân loại các chức năng
của hệ thống đó. Nói cách khác, phân loại chức năng là điều kiện tiền đề để
tạo ra một cơ cấu có hiệu quả của hệ thống. Việc phân loại các chức năng
quản lý doanh nghiệp dựa vào những căn cứ sau:
* Căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động quản lý:
- Chức năng Marketing .
- Chức năng hậu cần cho sản xuất.
- Chức năng sản xuất.
- Chức năng tài chính kế toán.
- Chức năng tổ chức lao động tiền lương.
- Chức năng hành chính bảo vệ.
* Căn cứ vào quá trình quản lý:
- Chức năng kế hoạch hoá.
- Chức năng tổ chức.
- Chức năng lãnh đạo.
- Chức năng kiểm tra.


2.Tính nghề nghiệp
Thực tiễn tại các doanh nghiệp ở Việt Nam quản lý thường được hiểu là
giám đốc doanh nghiệp. Theo quan điểm truyền thống trước kia thì chỉ có
Nhà nước mới có quyền thành lập doanh nghiệp và những doanh nghiệp được
thành lập ra đều là doanh nghiệp nhà nước. Nhưng trong giai đoạn đổi mới từ
Đại hội VI... của Đảng đến nay việc đa dạng hóa các thành phần kinh tế vận
hành theo kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước được thực hiện theo
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo được những thành công

vang dội và thu được nhiều thành tựu rực rỡ, nó tạo ra và thức đẩy sự cạnh
tranh bình đẳng và thúc đẩy sự phát triển chung của toàn xã hội. Vì vậy, khái
niệm giám đốc doanh nghiệp không chỉ được giới hạn trong phạm vi doanh
nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên trong cấu trúc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam hiện nay, kinh tế nhà nước là chủ đạo dẫn dắt sự phát
triển của nền kinh tế, do vậy khái niệm doanh nghiệp nhà nước vẫn được coi
là đại diện. Theo khái niệm này thì “Giám đốc doanh nghiệp nhà nước vừa là
người đại diện cho nhà Nước,vừa là đại diện cho tập thể những ngời lao động,
quản lý doanh nghiệp theo chế độ một thủ trởng, có quyền quyết định việc
điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp”.
Do vậy tính nghề nghiệp của quản lý kinh doanh đó có thể coi là một
hoạt động được hinh thành từ sự phân công chuyên môn hóa do một số ngời
được đào tạo đảm nhận. Vậy tính nghề nghiệp của quản lý là: là một chức
năng đặc biệt hình thành từ sự phân công chuyên môn hóa lao động xã hội
,hoạt động quản lý kinh doanh phải do một số ngời đào tạo ,có kinh nghiệm
và làm việc chuyên nghiệp thực hiện.
II.Các yếu tố cần thiết để quản lý có tính nghề nghiệp
1.Năng khiếu quản lý và ý chí làm giàu


Có một điều chắc chắn rằng ,con ngời ta ai cũng mong muốn ,cũng hy
vọng giàu sang . Song, mong muốn và hy vọng giàu sang với khát vọng làm
giàu là hai phạm trù khác nhau. Trớc hết , mong muốn và hy vọng giàu
sang ,đó là nguyện vọng chính đáng ,sẵn có ở tất cả mọi ngời .Nhng khát
vọng làm giàu thì không phải ai cũng có. Khác với hy vọng ,mong muốn ,khát
vọng là một thứ mong muốn đến cháy bỏng ,là động lực nội tâm luôn luôn
day dứt ,thúc đẩy con ngời phải đạt tới .Những ngời có khát vọng làm giàu là
những ngời không bao giờ chấp nhận và thỏa mãn với hiện tại ,cho dù so với
xung quanh họ đã khấm khá hơn.

Tóm lại , khát vọng làm giàu là một trong những tố chất cực kỳ quan
trọng của ngời quản lý (hay ông chủ) .Tất cả những ai mong nuốn trở thành
ông chủ ,không bao giờ đợc phép chôn mình trong nỗi nghèo túng ,thiếu
thốn :không bao giờ đợc chấp nhận và thỏa mãn với những gì đã có,mà phải
luôn vơn lên để giàu sang hơn .Và cái mong muốn đó ,phải đợc coi nh một
mệnh lệnh của trái tim ,phải theo đuổi đến cùng với tất cả năng lực ,thiện
chí ,cố gắng.Đó là một thứ ám ảnh ,day dứt cả đời ngời. Bên cạnh ý chí làm
giàu thì yếu tố :năng khiếu quản lý cũng rất quan trọng…Đó có thể là khả
năng bẩm sinh hoặc khi sống và tiếp xúc nhiều với môi trờng kinh doanh thì
con ngời cũng dần có khẳ năng đó.Nhng nếu là một nhà quản lý tốt thì đó là
cả một quá trình phấn đấu lâu dài.Trong cuốn “Những nhà quản lý đơng đại”
có nói tới trờng hợp của BillGates(tỉ phú ngời Mỹ).Khi mới 17 tuổi ,ông đã
nung nấu ý tởng thành lập một công ty tin học riêng do mình làm chủ…Với
bản quyền là phiên bản “hệ điều hành Windown” ông đã trở thành “BOSS”
thực sự khi mới bớc qua tuổi 20 .Và cho đến bây giờ tập đoàn Microsoft do
Billgates đứng đầu vẫn đang là một trong những tập đoàn lớn nhất thế giới.
Điều đó khẳng định rằng năng khiếu quản lý và ý chí làm giàu của ông khi
còn rất trẻ.
2.Phải có nền tảng kiến thức vững chắc
Ai cũng biết nhiệt tình cộng với ngu dốt là đại phá hoại ,vì thế không
một nghề nào trên đời lại không cần đến kiến thức .Là nhà quản lý lại cần
phải có. Kiến thức của ngời quản lý trớc hết phải là kiến thức tổng quát ở tầm
vĩ mô ,để xác định đầu t vào đâu ,lĩnh vực nào ,khi nào là thuận lợi ,hiệu quả
nhất .Điều này được thể hiện rất rõ qua các doanh nhân nớc ngoài đầu t vào
Việt Nam .Họ không thể không nghiên cứu chính sách mở cửa của Việt
Nam.Họ cần phải biết tình hình kinh tế ,chính trị ,xã hội thế nào? Ngành
nào ,khu vực nào đợc u tiên ,u đãi :ở đâu năng động thoáng đãng ,ở đâu có thể
làm ăn yên ổn lâu dài …
Tuy nhiên ngoài kiến thức tổng quát ngời quản lý còn phải có kiến thức
chuyên môn. Một nhà quản lý nếu không biết nghề của mình ,công việc của

mình thì chắc chắn không thể hoạch định đợc chiến lợc hành động ,không thể


tổ chức ,chỉ huy và kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp .Không thể nói có
chuyên môn nghiệp vụ mà không gắn liền với bằng cấp .Tiêu chuẩn này yêu
cầu các nhà quản lý phải tốt nghiệp ở một trờng chuyên đào tạo giám đốc.Tại
Mỹ ,một cán bộ quản lý tối thiểu phải học qua trình độ MBA(Master of
Business Administration) .Chứng chỉ MBA ở Hoa Kỳ đợc xem nh “Tấm hộ
chiếu để thành đạt trong đời”.Nhà trờng đầu tiên trên thế giới về thơng mại và
công nghiệp tại đại học Penxivania ra đời từ năm 1881 .Việc đào tạo và quản
lý tại Hoa kỳ thành công lớn những năm 60 đã dẫn tới việc thành lập cả một
thế hệ trờng kinh doanh khắp thế giới.Những trờng đã dựa trên mô hình trờng
kinh doanh Harvard ,kể cả các trờng của Anh ở London và Manchester.Tiêu
chuẩn để vào các trờng này là phảI có bằng tốt nghiệp đại học .Sau khi tốt
nghiệp ngời học sẽ đợc trang bị trình độ nghiệp vụ và quản lý xuất sắc.
Vì vậy bồi bổ kiến thức cho các nhà quản lý là điều rất quan trọng.
3.Tích lũy kinh nghiệm và tạo dựng ê-kíp giúp việc Kinh doanh
là một lĩnh vực hoạt động phong phú, đa dạng và phức tạp nên nhà quản
lý phải trang bị cho mình những kinh nghiệm cần thiết đợc rút ra từ những
cách làm của các doanh nghiệp thành đạt và thất bại.Từ đó tự đặt cho mình
một đờng đi đúng đắn. Song song với điều đó ,nhà quản lý phảI xây dựng đợc
một ê-kíp giúp việc tâm đầu ý hợp .Đây là ý nghĩa sống còn đối với mọi ông
chủ .Về nguyên tắc ,để xây dựng đợc một ê-kíp giúp việc có hiệu quả thì
những thành viên của nó phải thực sự cùng làm việc với nhau để cùng thực
hiện một công việc chung .Song điều đó không có nghĩa là chọn các thành
viên có cùng cá tính,cùng nhận thức ,cùng quan điểm vào một ê-kíp ,vì nếu
nh vậy thì mọi ngời sẽ dễ có cách nghĩ ,cách hành động giống nhau và điều
đó sẽ làm mất đi tính tích cực sáng tạo của ê-kíp ,cũng nh khả năng bổ sung
kiến thức và kinh nghiệm cho nhau giữa các thành viên .
Tại công ty tin học FPT ,các nhà quản lý đã tự tìm cho mình ê-kíp làm

việc hết sức năng động…Họ đợc tuyển chọn rất kỹ qua nhiều vòng thi để
được đứng trong hàng ngũ FPT .Họ đã từng là sinh viên đợc theo học chuyên
nghành tin của các trờng đại học danh tiếng ở Việt Nam ,trải qua rất nhiều áp
lực của các kỳ thi do trờng đặt ra ,nhng đến đây họ còn phảI tự chứng minh
rằng mình là ngời năng động .Sau khi đã có một ê-kíp tài năng , thì việc của
nhà quản lý bây giờ là áp dụng những kinh nghiệm của các công ty tin học
nổi tiếng trên thế giới : Microsoft (Hoa Kỳ) , PC world (Nhật Bản)…vào việc
tạo ra môi trờng làm việc thích hợp với mỗi tahnhf viên trong công ty ,để họ
có thể thoải mái mà làm việc ,không bị gò bó vào các nguyên tắc.
4.Là người có nhân cách và phẩm chất tốt
Đây có lẽ đợc coi là yếu tố quyết định ai là một nhà quản lý thực sự
hoàn thiện. Yếu tố đó gắn liền với ba chữ : “trí” , “tín” , “tâm”. Trí là trình độ
chuyên môn và sự giao tiếp của ngời quản lý. Nó bao gồm các yếu tố nh sự


am hiểu các lĩnh vực ,sự nhạy bén với những điều kiện ,môi trờng sản xuất
kinh doanh .Nắm chắc tình hình tàI chính ,giá cả ,sự biến động… Tín : trớc
hết là đối với những ngời lao động dưới quyền ,đồng thời tín với bạn hàng
trong nớc và thế giới .Ngày nay đã đến lúc các doanh nghiệp phải tự mình
thành thật với bạn hàng và ngay cả với chính mình ,không thể làm bừa ,làm
ẩu ,làm gian dối ,báo cáo sai.Lỡ hợp đồng ,mất tín nhiệm về phẩm chất ,quy
cách sản phẩm …sẽ dẫn đến mất khách ,đaặc biệt khách hàng nước ngoài ,đó
là con đờng tự sát trong cạnh tranh. Tâm : có nghĩa là tấm lòng ,sự nhiệt tình ,
tâm huyết với nghề nghiệp ,là sự thơng yêu ,bao dung ,độ lợng với đồng
nghiệp và cấp dới .Tâm còn có nghĩa là sự tận tụy với công việc ,với kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp ,không tham ô ,lãng phí ,thực
hiện dân chủ và công bằng xã hội trong tổ chức. Ngoài ra ,nhà quản lý còn
phải mang trong mình một phẩm chất chính trị tốt .Tiêu chuẩn này đợc thể
hiện ở hai điểm mấu chốt :
• Phải nắm và vận dụng đợc những quan điểm ,đờng lối đổi mới của

Đảng ,nhà nớc trong từng thời kỳ.
• Tuân thủ luật pháp Nhà nớc quy định.. Hiện nay ở nớc ta có rất nhiều
các doanh nghiệp lớn nhỏ làm ăn ,buôn bán ,sản xuất kinh doanh…Họ không
những “ăn lên làm ra” ,thành đạt trong nhiều lĩnh vực ,mà giờ đây họ cũng rất
tích cực tham gia các hoạt động của xã hội. Điển hình là các phong trào “ủng
hộ những ngời bị nhiễm chất độ màu da cam” , “quỹ ủng hộ ngời
nghèo”….hay là gần đây nhất là việc các tổ chức kinh tế đã viện trợ không
hoàn lại hàng hóa ,thuốc men ,lơng thực…cho các nước Nam á và Đông Nam
á là nạn nhân của động đất và sóng thần vào cuối tháng 12 /2004 . Những
hành động cao đẹp đó không chỉ làm cho xã hội hoàn thiện hơn,mà còn giúp
cho việc củng cố thơng hiệu của các doanh nghiệp trên
thị trờng trong và ngoài nớc.
5.Phải là người có suy nghĩ khác và thật sự năng động
Để tổ chức quá trình kinh doanh có hiệu quả ,nhà quản lý cần tháo vát
và có óc sáng kiến .Chỉ khi đề xuất đợc những ý kiến mới, xác định đợc
phương hớng làm việc mới ,ngời quản lý mới đa tập thể của mình tiến lên
được .Tích cực thờng xuyên và tìm tòi cái mới trong hoạt động trí tuệ là
những yếutố không thể thiếu đợc của “ngời cầm quân”.Là ông chủ tức là nhà
kinh doanh ,mà kinh doanh lại đầy rẫy những rủi ro và mạo hiểm .Vì vậy
,muốn trở thành ông chủ phải thông minh ,phải có khẳ năng nhìn xa trông
rộng ,khẳ năng tiên đoán phân tích các tình huống để hoạch định cho mình
một bớc đi trong tơng lai. “Think different” đây là câu nói quen thuộc của nhà
bác học Anh- tanh .Hãy nghĩ khác : đó là thông điệp mà ông muốn gửi đến
thế hệ trẻ tương lai. . Nếu thực sự muốn có đợc suy nghĩ tốt thì đòi hỏi ngời
quản lý phải có óc quan sát ,tự tin ,sự tin tởng . óc quan sát là một thuộc tính


cơ bản của năng lực tổ chức ở ngời lãnh đạo .Đó là kỹ năng nắm đợc tình
hình chung .Với tầm nhìn bao quát đầy đủ ,toàn diện,thấy đựợc cả cái chi
tiết,cục bộ .Nhà quản lý cần có óc quan sát để nhận ra những cái to lớn ,cái

quan trọng ở một hiện tợng nhỏ ,nhằm định hướng một cách chính xác những
tình huống không có trong dự kiến sẽ xảy ra.Với óc quan sát ,nhà quản lý
nhanh chóng tìm ra nguyên nhân của những khó khăn và trí tuệ trong công
việc.
Tự tin là một trong những t chất hết sức cần thiết đối với con ngời nói
chung và “ông chủ” nói riêng .Đã hơn một lần ngời ta nói rằng “thất bại sẽ
đến với những ai nuôi sẵn ý tởng thất bại. Thành công sẽ đến với những ai tin
rằng mình sẽ thành công “ .Vì vậy ,những ai muốn trở thành ông chủ ,phải rèn
luyện đức tự tin .phải biến sự bi quan ,tự ti thành niềm tin ,thành ý chí sắt đá.



×