Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Đền sòng và tín ngưỡng thờ mẫu liễu hạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.24 KB, 62 trang )

Trờng đại học vinh
Khoa lịch sử
= = = = == = =

Lê xuân sơn

Khoá luận tốt nghiệp đại học

đền sòng (bỉm sơn thanh hoá) và tín ngỡng thờ mẫu liễu hạnh
----------------chuyên ngành: Lịch sử văn hoá
Lớp: 43E3

Giáo viên hớng dẫn: Th.S. Hoàng Quốc tuấn

Vinh 5 2007

1


Lời cảm ơn
Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thiện luận văn này bản thân tôi nhận
đợc sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của thầy giáo hớng dẫn: ThS.GVC. Hoàng
Quốc Tuấn cùng các thầy cô giáo trong khoa lịch sử, các cô các chú trong th
viện trờng Đại Học Vinh, ban quản lý khu di tích Đền Sòng, th viện tỉnh
Thanh Hoá Viện bảo tàng, bảo tồn di tích danh thắng Thanh Hoá, phòng văn
hoá thông tin Thị xã Bỉm Sơn
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu
của thầy giáo hớng dẫn ThS.GVC. Hoàng Quốc Tuấn và quý các thầy cô,
bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2007


Sinh viên

Lê Xuân Sơn

2


A.Dẫn luận
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua một chặng thời gian dài hơn bốn thế kỉ từ chuyện Giáng Tiên
Liễu Hạnh ra đời (1557), cho đến nay có rất nhiều quan niệm, lý giải đánh giá
khác nhau, nhiều ngời cho rằng đây là chuyện không có thật nên các đền,
chùa thờ cúng Liễu Hạnh cần phải xem xét lại. Tuy nhiên bên cạnh những ý
kiến đó đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa
học về sự ra đời tồn tại của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Để đánh giá đích thực câu
chuyện Liễu Hạnh ra đời cách đây gần 450 năm, rất cần phải cẩn thận soi xét
đến hoàn cảnh lịch sử của nó, trên cơ sở đó tìm ra đợc giá trị đích thực của cốt
chuyện ấy,và của nhân vật Liễu Hạnh,vì sao lại đợc nhân dân ta suy tôn ngỡng
mộ.
Trong tâm thức của ngời dân Việt Nam Liễu Hạnh đợc xếp vào một trong
bốn vị Tứ thánh Bất Tử. Đó không phải là ý muốn của một ai, của một thời đại
lịch sử nào mà là sản phẩm trong quá trình sàng lọc của tín ngỡng dân gian.
Hơn bốn thế kỷ nay cộng đồng ngời Việt đã tôn thờ Thánh Mẫu, đặc biệt
ngày nay Mẫu Liễu có mặt ở tất cả mọi cơ sở sinh hoạt văn hoá tín ngỡng từ
Bắc đến Nam. Trong hầu khắp các đền, chùa, phủ đều có điện phối thờ hoặc
có hẳn điện riêng để thờ Mẫu Liễu Hạnh.Đền Sòng là một trong những trung
tâm sinh hoạt văn hoá tâm linh của Thanh Hoá nói riêng và khách thập phơng
trong cả nớc nói chung, nơi đây thờ tiên chúa Liễu Hạnh bậc Mẫu nghi
thiện hạ, một trong bốn vị thánh bất tử của tín ngỡng Việt Nam.
Nghiên cứu về Đền Sòng và tín ngỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh không đơn

thuần là làm sáng tỏ về những giá lịch sử văn hoá, tín ngỡng, lễ tục, kiến
trúc, thờ mẫu,mà từ đó giúp chúng ta hiểu đợc giá trị đạo lý truyền thống
qua đó góp phần vào việc giữ gìn bảo lu những giá trị lịch sử - văn hoá này.
Hiện nay trên vùng đất Bỉm Sơn vẫn còn lu giữ nhiều quần thể di tích danh
thắng (nh: đình, đền, chùa, phủ) có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu
nghiên cứu về lịch sử văn hoá. Đền Sòng Bỉm Sơn Thanh Hoá là một
trong những cụm di tích nh vậy. Từ những lý do trên mà chúng tôi chọn đề tài:
Đền Sòng(Bỉm Sơn- Thanh Hoá) và tín ngỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh cho
khoá luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá khứ và cả hiện tại, tín ngỡng về Mẫu đã in đậm trong tâm thức
của ngời Việt. Yếu tố văn hoá tâm linh, mang tính h ảo, rất trừu tợng, nhng lại

3


rất thiêng liêng gần gủi với cuộc sống con ngời. Chính vì lẽ đó mà Đền Sòng
đợc coi là trung tâm sinh hoạt văn hoá tâm linh, tín ngỡng, tôn giáo. Cụm di
tích danh thắng Bỉm Sơn đã trở thành chỗ dựa về mặt tinh thần của ngời dân
nơi đây. Đây cũng là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu khoa
học.
Đối với khu di tích lịch sử văn hoá Đền Sòng đã có nhiều bài viết đợc
đăng tải trên các ấn phẩm của địa phơng và trung ơng xuất bản. Đặc biệt đã có
nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nớc. Với những
bài viết về Đền Sòng có:
- Đền Sòng với huyền thoại Liễu Hạnh công chúa của tác giả Đặng Anh
nhà xuất bản Thanh Hoá 2004. Cuốn sách nh lời giới thiệu du lịch về một địa
danh nổi tiếng của khu di tích thắng cảnh Bỉm Sơn từ Đền Sòng đến đèo Ba
Dội.
Hồ sơ khảo sát và lí lịch cụm di tích và thắng cảnh Bỉm Sơn Thị xã Bỉm sơn

Thanh Hoá của UBND thị xã Bỉm Sơn, 1998, đã mô tả vai trò và vị trí của
ngôi đền trên vùng đất Bỉm Sơn.
- Những tài liệu có liên quan đến Đền Sòng ở tỉnh Thanh Hoá của
A.LagrèZe- công sứ tỉnh Thanh Hoá thời Pháp(t liệu Đền Sòng, 1986). Đây là
ngời nớc ngoài đầu tiên viết về Đền Sòng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Tống Kim Chung trong cuốn Liễu Hạnh và Đền Sòng của UBND thị xã
Bỉm Sơn, 1994, tác giả đã giới thiệu về sự tích Liễu Hạnh công chúa và sự ra
đời của Đền Sòng.
Bên cạnh những tác phẩm viết về Đền Sòng còn có nhiều bài viết về công
chúa Liễu Hạnh, nhân vật đợc thờ tự chính ở Đền Sòng nh: Truyền Kỳ Tân
Phả của Đoàn Thị Điểm NXB Giáo Dục,1962.
Đáng chú ý hơn là một số cuốn đợc xuất bản nghiên cứu sâu hơn về tín ngỡng thờ Mẫu nh: Cuốn Tiếp cận văn hoá dân dã Việt Nam của Nguyễn
Minh San, NXB Văn Hoá Dân tộc.1994,tác giả đã hệ thống đợc các loại hình
sinh hoạt tín ngỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, đồng thời đa ra những quan điểm
nhận xét đánh giá về nền văn hoá dân dã Việt Nam; Văn hoá tâm linh của
Nguyễn Đăng Duy NXB Hà Nội.1996, cuốn sách đã trình bày nhận thức lí
luận về văn hoá tâm linh đợc thể hiện trong mọi mặt của đời sống và tâm linh
thể hiện trong tín ngỡng , tôn giáo ở Việt Nam.
Do cách tiếp cận,các tác phẩm này đã có cách đánh gía và nhìn nhận có
phần khách quan hơn và đã phần nào lí giải đợc tín ngỡng thờ Mẫu ở nớc ta.

4


Tất cả những tài liệu trên đã đề cập ở những khía cạnh khác nhau về ngôi Đền
Sòng và công chúa Liễu Hạnh. Tuy nhiên vẫn cha có tài liệu nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống về khu di tích lịch sử - văn hoá Sòng Sơn. Do
vậy trong đề tài này tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ hệ thống hoá, tổng hợp, sắp
xếp lại những vấn đề đợc công bố ở trên các sách báo, tạp chí, nhằm có cái
nhìn mới hơn về Đền Sòng và tín ngỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá.


5


3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Để tìm hiểu thêm về Đền Sòng và công chúa Liễu Hạnh trong sinh hoạt văn
hoá tín ngỡng Việt Nam, chúng tôi chọn đề tài Đền Sòng và tín ngỡng thờ
Mẫu Liễu Hạnh. Trong đề tài này chúng tôi đặt ra những nội dung sau
- Đền Sòng Bỉm Sơn Thanh Hóa
- Các dạng thức sinh hoạt tín ngỡng và đối tợng thờ tự ở Đền Sòng.
- Lế hội Đền Sòng xa và nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu sâu về
tín ngỡng thờ Mẫu rộng rãi trong cả nớc mà mục đích chỉ nhằm tìm hiểu tín
ngỡng thở Mẫu ở Đền Sòng ở Bỉm Sơn Thanh Hoá. Với những tài liệu có đợc cha phải là nhiều do việc thu thập tài liệu gặp nhiều khó khăn, do trình độ
còn hạn chế nên trong thời gian ngắn cha nắm bắt đợc những nguôn thông tin
t liệu cần thiết, nhất là những nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học về
Đền Sòng và Mẫu Liễu Hạnh, đặc biệt là khi nghiên cứu về tín ngỡng thờ Mẫu
có phần nhạy cảm, phức tạp. Là một sinh viên, lại lần đầu tiên nghiên cứu một đề
tài lớn nh vậy nên trong cách viết, cách đánh giá vấn đề còn nhiều thiếu sót tôi rất
mong đợc sự đóng góp ý kiến của các quý thầy cô, các bạn quan tâm đến vấn đề
này.
4. Nhiệm vụ khoá luận
Trong đề tài này chúng tôi tiến hành giải quyết các nhiệm vụ sau.
- Với Đền Sòng Bỉm Sơn- Thanh Hoá, ở đây đợc trình bày khái quát về đặc
điểm tự nhiên, dân c và sự ra đời, cùng với kiểu dáng kiến trúc, hệ thống thờ
tự ở Đền Sòng. Qua đó thấy đợc cơ sở, nền tảng của di tích.
- Tìm hiểu về nội dung tín ngỡng thờ Mẫu, về Liễu Hạnh công chúa trong
huyền thoại và lịch sử, để thấy đợc nét đặc trng của việc thờ tự Thánh Mẫu

thấy đợc vị trí nhân vật Liễu Hạnh trong đời sống văn hoá tâm linh của cộng
đồng ngời Việt. Qua đó còn hiểu thêm về nhữnh giá trị văn hoá của lễ hội Đền
Sòng xa và nay.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Trớc hết đây là một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội là một trong
mảng của nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên mỗi loại đề tài bao giờ cũng đặt ra
những vấn đề cụ thể của nó do vậy phơng pháp chúng tôi dùng để nghiên cứu
cũng phải tuỳ thuộc vào vấn đề đặt ra. Với t cách là một ngời nghiên cứu lịch

6


sử văn hoá, tôi đã sử dụng phơng pháp Logic, phơng pháp điền giả, chọn lọc
và phân tích những nội dung trong các tác phẩm đã nghiên cứu, cùng với lời
kể của những ngời gắn bó với ngôi đền ở địa phơng.
Ngoài ra tài liệu bằng hiện vật, tranh ảnh, điền giải thực tế là những liệu
cần thiết làm rõ cho sự ra đời và tồn tại của Đền Sòng.
6. Bố cục khóa luận
Khoá luận gồm 3 phần:
A. Dẫn luận
1.
Lý do chọn đền tài
2.
Lịch s nghiên cứu vấn đề
3.
Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.

Phơng pháp nghiên cứu


B. Nội dung
Có 3 chơng
Chơng 1: Đền Sòng Bỉm Sơn Thanh Hoá
Chơng 2: Các đối tợng thờ tự ở Đền Sòng.
Chơng 3: Lễ hội Đền Sòng xa và nay
C. Kết luận
Tài liệu tham khảo

B. Nội dung
Chơng I:
Đền Sòng Bỉm Sơn Thanh Hoá
1.1. Đặc điểm tự nhiên, tên gọi và dân c Bỉm Sơn.
1.1.1.Vị trí địa lý .
Thị xã Bỉm Sơn nằm trên vùng địa đầu tỉnh Thanh và của cả miền
Trung, cách Thành phố Thanh Hoá 34km về phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội
120 Km về phía Nam. Với diện tích tự nhiên 6.681 ha, thị xã Bỉm Sơn thuộc
khu vực toạ độ địa lý từ 20 o2 đến 20o9 với vĩ Bắc từ 105o1730 đến 105o56
kinh đông. Phía Bắc giáp thị xã Tam Điệp (Ninh Bình), phía Tây Nam giáp với
huyện Hà Trung, phía Đông giáp với huyện Nga Sơn. Tính theo trục giao
thông quốc lộ 1A, chiều từ Bắc vào Nam thì đầu thị xã là núi, cuối thị xã là
sông với Dốc Xây (phía Bắc) và lầu Tống Giang (phía Nam) là hai điểm mút.

7


Bỉm Sơn là vùng có địa hình thấp dần từ Tây sang Đông và rất phức tạp,
vừa mang đặc điểm của vùng bán sơn địa, vừa mang đặc điểm của vùng chiêm
trũng. Vị trí địa lý và đặc điểm địa hình nh trên đã làm cho thị xã Bỉm Sơn
chịu ảnh hởng của 3 vùng khí hậu xen kẻ là Tây Bắc - Đông, bắc bắc bộ và
cận bắc trung bộ.

Là một bộ phận cấu thành nên tỉnh Thanh Hoá nơi Trời đúc khí thiêng,
nớc nhà gây phúc tốt (Lời vua Thiệu Trị), một trọng trấn () nơi xuất phát
tinh hoa của trời đất () nơi hội tụ vơng khí của non sông, chung đúc nhiều
bậc anh hùng, là vùng đất nổi tiếng khắp thiên hạ (Lời Phan Huy Chú). Bỉm
Sơn có vị thế quan trong quá trình bảo vệ và phát triển đất nớc, nhất là các
cuộc khởi nghĩa chống xâm lợc từ phơng Bắc trong lịch sử, vùng Tam Điệp
Bỉm Sơn là yết hầu của tuyến giao thông huyết mạch Bắc Nam, có vị trí
chiến lợc và địa hình hiểm trở thuận lợi về quân sự, là bàn đạp để tiến công, là
điểm thế chốt chặn và là hậu cứ khi phòng ngự.
Do có vị thế lợi hại Bỉm Sơn đã nhiều lần đợc chọn làm căn cứ, nơi diễn
ra nhiều trận đánh quan trọng trong công cuộc chống ngoại xâm cũng nh bảo
toàn an ninh quốc gia. Năm 978 980 Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối
của Nguyễn Bặc, Đình Điền ở vùng sông Tống, lên ngôi vua đặt tên nớc là Đại
Cồ Việt, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 (1284 1285) để tránh thế giặc mạnh Hng Đạo Vơng -Trần Quốc Tuấn đã đem 2 vua
Trần vào vùng Hà Trung, Nga Sơn (Thanh Hoá ) để bảo toàn đầu não, tháng 5
1285 từ vùng đất này Hng Đạo Vơng tiến quân ra Bắc quét sạch quân
Nguyên Mông .Thế kỷ XV, nghĩa quân Lam Sơn đã chọn vùng đất Bỉm Sơn
làm nơi tập kết lực lợng, trung chuyển quân lơng tiến đánh quân xâm lợc nhà
Minh, vây hãm thành Đông Quang, khiến cho quân thù phải khốn đốn và hàng
phục. Trong lần Bắc tiến thứ 2 của quân Tây Sơn (năm Đinh Mùi 1787) việc vợt qua núi Tam Điệp đợc ghi nhận nh một thắng lợi lớn của đội quân áo vải
này .
Bên cạnh những giá trị thiên nhiên đó thì theo truyền thuyết của ngời
dân Bỉm Sơn nơi đây đã diễn ra cuộc chiến đấu giữa triều đình phong kiến
với công chúa Liễu Hạnh, nó thể hiện cuộc đấu tranh giữa một bên là triều
đình phong kiến thối nát với một bên là quần chúng nhân dân đòi quyền tự do,
bình đẳng.
Nhận rõ vị trí hiểm yếu của Bỉm Sơn trớc Cách mạng tháng tám
1945, thực dân Pháp đã đặt đồn binh ở làng Bỉm vừa để trấn áp phong trào

8



Cách mạng trong vùng, vừa để bảo vệ khu lăng tẩm nhà Nguyễn ở trong Già
Miêu Ngoại thuộc phủ Hà Trung.
Với thiên nhiên tơi đẹp và giàu di tích văn hoá trong đó có những di tích
nổi tiếng. Bỉm Sơn có nhiều tiềm năng để phát triển ngành du lịch đa dạng.
Trải qua những biến động của địa chất, vùng núi đá của Bỉm Sơn đã để lại
những hang động kỳ thú nh: Động Tam Giao, Động Đào Nguyên Đặc biệt
núi Tam Điệp sừng sững nh bức tờng thành không chỉ nổi tiếng trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm mà còn nổi tiếng về cảnh đẹp thiên nhiên làm nao lòng
các tao nhân mặc khách, nơi chứa đựng những địa danh ăn sâu vào tâm thức
của ngời dân xứ Thanh và cả nớc.
1.1.2. Tên gọi thị xã Bỉm Sơn.
Thị xã Bỉm Sơn Thanh Hoá chỉ mới ra đời cách đây vài chục năm do
yêu cầu phát triển công nghiệp. ở đây đã xây dựng nhà máy Xi măng lớn nhất
cả nớc. Thị xã này đợc cấu thành bởi một phần đất của huyện Hà Trung cũ,
mà hạt nhân hành chính đầu tiên là thị trấn Nông trờng ở huyện này.
Tên gọi Bỉm Sơn chính thức chỉ mới có từ thời Pháp thuộc khi có đờng
xe lửa đi qua và tên gọi này là tên gọi của nhà ga, một đồn lính chứ không
phải là tên gọi của một làng hay một xã. Phần đất Bỉm Sơn thời ấy cũng thuộc
địa phận của xã Hà Dơng Hà Trung bấy giờ.
Khi cha có ga hay đồn lính Bỉm Sơn thì ngời tứ phơng trong cả nớc biết
đến vùng này chỉ nhờ cái tên của khu đền Đức Thánh Mẫu lớn nhất xứ Thanh
đó là đền Sòng.
Về mặt địa lý so với các địa phơng khác thì Bỉm Sơn rất thuận lợi về vị
trí giông thông đi lại. ở đây có đờng xe lửa và quốc lộ 1A chạy qua. Toàn bộ
hệ thống đờng chính trong thị xã đợc đổ bê tông. Nếu dùng ô tô hay xe máy
thì chỉ trong một ngày là đến hết đợc các điểm di tích chính ở Bỉm Sơn một
cảnh dễ dàng .
1.1.3. Đặc điểm dân c Bỉm Sơn

Thị xã Bỉm Sơn mới thành lập song quá trình hình thành các đơn vị
chính ở đây đã diễn ra trong một thời gian khá dài, gắn liền với sự hội tụ của
dân c và có sự chi phối của những diễn biến trong lịch sử dân tộc.
Cùng với những biến đổi của cả về hành chính, Bỉm Sơn dần dần trở
thành nơi hội tụ dân c. Dân c Bỉm Sơn đã xuất hiện từ lâu nhng nhanh nhất và
nhiều nhất là từ sau khi hoà bình lập lại ở Miền Bắc (1954) đặc biệt là từ khi

9


xây dựng nhà máy xi măng vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX tạo nên sự
đông
đảo về số lợng, đa dạng về thành phần, phong phú về nguồn gốc dân c.
Hiện nay cha có một công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ về sự
xuất hiện của những c dân đầu tiên ở Bỉm Sơn. Tuy nhiên, là một khu vực nằm
trong vùng đợc khẳng định là một trong những cái nôi của ngời Việt cổ,
không xa các di tích Cồn Cổ Ngựa (thuộc Hà Trung) di chỉ Quỳ Chữ (xã
Hoằng Quỳ Hoằng Hoá) thuộc các nền văn hoá Đa Bút và Đông Sơn.
Trong quá trình lao động sáng tạo, họ trở thành chủ nhân của các làng xã mà
tên gọi còn đến ngày nay. Tuy nhiên trớc Cách mạng tháng Tám c dân ở vùng
Bỉm Sơn không nhiều. Tác động giữa các cuộc chiến tranh giữa nhà Lê và nhà
Mạc giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài, sự trả thù của thực dân Pháp sau khởi
nghĩa Ba Đình thất bại, cùng với bệnh dịch, thiên tai làm dân số nơi đây
không tăng đợc là bao.
Cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, c dân ở Bỉm
Sơn tăng nhanh, chủ yếu là tăng dân số cơ học. Ngoài những gia đình đi sơ tán
lần lợt trở về quê làm ăn sinh sống, một số hộ từ Ninh Bình, Hà Nam cũng vào
xã Hà Dơng Hà Lan lập nghiệp ở xung quanh khu vực nhà ga. Một số hộ
làm nghề đánh cá ở sông Tống (Thuỷ Cơ) cũng lên bờ sinh sống từ những năm
1960, nhằm khai thác tiềm năng đất đai Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá có chủ trơng xây dựng vùng kinh tế mới ở đây, đa một số gia đình ở nơi đất chật ngời

đông đến định c.
Cùng với việc tăng nhanh về số lợng, chất lợng dân c ở Bỉm Sơn cũng
tăng lên rõ rệt. Từ chỗ thành phần chủ yếu là nông dân, ngày này Bỉm Sơn là
nơi quần tụ của đủ mọi thành phần, giai cấp, trong đó công nhân, nông dân, tri
thức là lực lợng nòng cốt. Bỉm Sơn ngày nay cũng là mảnh đất giàu trí tuệ của
một đội ngũ đông đảo các nhà trí thức, các kỹ s thợ lành nghềcó nguồn gốc
từ mọi miền đất nớc. Có thể nói Bỉm Sơn là nơi thể hiện rõ nét những đặc
điểm về sự phát triển của dân c của một đô thị công nghiệp sinh ra trong công
cuộc công nghiệp hoá đất nớc. Tiềm năng về con ngời cũng chính là một
nguồn lực quý giá để Bỉm Sơn vững bớc đi lên.
1.2. Sự ra đời của đền Sòng
1.2.1.Nguồn gốc, tên gọi Đền Sòng
1.2.1.1. Nguồn gốc:

10


Về việc xây dựng Đền Sòng cho đến nay vẫn cha có tài liệu nào viết cụ
thể. Theo Le Breton ngời Pháp thì ngôi Đền Sòng còn gọi là Sùng Sơn, đền
này đợc dựng vào thời vua Cảnh Hng thuộc triều Lê Hiến Tông (1740 - 1786)
ngay tại nơi công chúa Liễu Hạnh tái hiện xuống trần.
Ngoài ra việc xác định rõ ngày tháng năm nào, ai là ngời công đức bỏ
của làm đền thì còn là một ẩn số.
Tơng truyền, có một ông lão cầm chiếc gậy tre khô cắm xuống đất ở
làng Cổ Đam mà khấn rằng: nếu gậy tre này tơi tốt thì xây đền thờ Liễu
Hạnh công chúa. Quả nhiên lời tuyên phán đó trở thành mầu nhiệm, gậy tre
trở nên xanh tốt bám rễ, đâm chồi tán lá tốt tơi lạ thờng. Ngời đời cho là điều
lạ, linh ứng thiêng liêng mới bảo nhau lập nên đền thờ này. Đó là ngày 26
02 âm lịch ngày hiển linh hiển thánh của Miếu Liễu Hạnh. Lúc sơ khai
diện tích ngôi đền còn bị hạn chế nhng rồi dần dà ngời ta mở rộng thêm.

Sở dĩ Đền Sòng đợc xây dựng cũng theo tơng truyền là vì: Sau khi hoá
kiếp lần thứ hai trở về trời, nữ chúa Vân Hơng không sao quên đợc thời kỳ ở
trần thế. Mặc dù đã làm đầy đủ trách nhiệm của vua cha giao phó, nàng vẫn
luôn luôn sầu muộn, u t vì nhớ đến mối tình của nàng với Đào Lang ngời
chồng thứ nhất ở địa giới.
Trớc tình cảnh đó Ngọc Hoàng đã rũ lòng thơng cho phép nàng đợc hạ
giới mỗi khi nàng muốn, vì vậy cho nên thỉnh thoảng nàng xuống hạ giới. Khi
thì dới dạng một nữ hoàng lộng lẫy, lúc thì một cô gái nông thôn nết na thuỳ
mị, lúc này nàng thờng xuyên xuất hiện ở trần thế và tiếng tăm của nàng ngày
càng lan rộng, đến nổi quyền uy siêu phàm của nàng trở nên có sức mạnh,
phép tắc huyền diệu của nàng thì vô kể khiến cho đông đảo quần chúng khâm
phục, nàng giúp đỡ ngời, che chở cho những ngời làm điều thiện nhng lại hay
trừng phạt gây hoạ cho những ngời làm điều ác. Sự nghiêm khắc của nàng đối
với kẻ ác gây ra sợ hãi cho nhân dân, do vậy nhiều nơi cũng đã lập đền thờ
nàng để cầu nàng bớt cơn thịnh nộ. Mặt khác nàng có thói quen thờng xuyên
đi mây về gió từ những nơi có phong cảnh hữu tình, nàng đi khắp trăm núi
nghìn sông về đến Sòng Sơn thì cho rằng nơi đây là cảnh đẹp, ngời a, nàng
mới chọn làm nơi trì cửu, xui dân dựng đền thờ này rồi đem các thủ tục của
nàng về ở đó, họ đều là các tiên, thế là bà đã tạo dựng đợc một giang sơn
riêng, bất chấp pháp luật của Nhà nớc để rồi ngôi đền đợc dựng nên ở vùng
núi Sòng. Cho nên dân gian gọi là đền Sòng.
1.2.1.2. Vấn đề tên gọi

11


Nói đến Bỉm Sơn là nói đến địa danh có nhiều yếu tố gắn liền với các sự
kiện lịch sử quan trọng của đất nớc, điều đó đợc thể hiện bằng các tên gọi
khác nhau liên quan đến các sự kiện lịch sử :
- Đèo Ba Dội và đờng thiên lý nơi đại quan Quang Trung đi qua.

- Đồi Ông (ở trung tâm thị xã) tơng truyền là trung tâm chỉ huy của Ngô
Văn Sở và Ngô Thị Nhậm.
- Làng Gạo và ngôi đình ở đó tơng truyền là nơi kho lơng của nghĩa
quân
và tớng Tây Sơn gặp gỡ các bô lão trong làng để khích lệ động viên sự đóng
góp
ủng hộ của nhân dân.
- Khe Phơng ( dòng suối chảy từ Ba Dội xuống) tơng truyền là nơi công
chúa Ngọc Hân thờng rửa chân (?) và quân sỹ tắm.
- Núi Tam Điệp vì nó có ba ngọn núi cao liền kề nhau.
- Nói chung qua khảo sát ở Bỉm Sơn Tam Điệp hầu nh địa danh di
tích nào cũng có những truyền thuyết liên quan đến một hiện tợng, một sự
kiện lịch sử đã đợc diễn ra ở nơi đây. Do vậy sự ra đời của ngôi đền mang tên
là Sòng Sơn cũng gắn liền với một truyền thuyết lịch sử? Đó là nơi hiển linh
của vị thánh mẫu Liễu Hạnh, ngôi đền đợc xây dựng trên núi Sòng. Do vậy
gọi là Sòng Sơn, đền Sòng nằm ở nơi chế ngự con đờng thiên lý Bắc Nam.
Đền Sòng Sơn ngày nay, trớc đây đợc gọi là đền Sòng Trâm và địa giới
làng Cổ Đam xã Hà Dơng huyện Hà Trung. Phủ Tống Sơn, nay là đền Sòng
Sơn thuộc đờng Bắc Sơn thị xã Bỉm Sơn. Đền Sòng Sơn đi vào tâm thức tâm
linh của ngời dân ta từ xa tới nay với tên gọi trìu mến thiện cảm là Đền Sòng.
Đền Sòng đợc xây dựng ở vị trí tơng đối trung tâm của một bổn địa
rộng rãi ở về phía Nam dãy núi Tam Điệp với cảnh vật thiên nhiên xa, nơi đây
là non xanh lạ lùng vừa hùng vĩ, vừa u tịch lại có con đờng thiên lý đi qua. Do
vậy dọc theo quốc lộ 1A hớng tới Hà Nội vào Thanh Hoá khách du lịch không
khỏi ngạc nhiên trớc phong cảnh hữu tình, khi càng gần đến địa giới xứ
Thanh. Từ đồng bằng bắc bộ nơi mà chân trời và mặt biển hoà lại với nhau nh
một dải lụa khổng lồ thì tới đây ta bắt gặp ngay một vùng gò đống nhấp nhô
nối tiếp trùng trùng và sừng sững những dãy núi đá vôi nh một Vịnh Hạ
Long trên cạn.
Chính nơi Sơn cảnh hữu tình đó vừa kỳ vĩ vừa hùng tráng vừa u tịch, dễ

khiến vứt bỏ bụi trần, dễ khiến lòng ngời trầm t mặt tởng để rồi một học giả

12


ngời Pháp khi tới đây cũng phải trầm trồ bộc lộ cảm xúc khi bớc vào địa đầu
xứ Thanh: Cho nên ngời An Nam đã kiến lập những thánh đờng ở đây để thờ
nữ thần Vân Hơng, mà ngời ta gọi là bà chúa Liễu Hạnh hoặc thông thờng chỉ
gọi là bà Thánh Mẫu, một trong những đền hay còn gọi là thánh đờng đầu tiên
đó ở ngay biên giới giữa Trung kỳ và Bắc kỳ nhng thuộc về địa hạt Thanh
Hoá, ngời ta gọi tên là Đền Sòng Trâm Đền Sòng Sơn Đền Sòng xa tới
nay thờ bà Liễu Hạnh.
Một đôi dòng ghi chép trên cũng đủ thấy Đền Sòng đã đợc các học giả,
các nhà văn hoá trong và ngoài nớc quan tâm nh thế nào, mặt khác nó có giá
trị về văn hoá, về tâm linh ảnh hởng đến cuộc sống của con ngời trong và
ngoài nớc.
1.2.1.3. Quá trình trùng tu
Mặc dù cho đến nay vẫn cha có nhà nghiên cứu nào đa ra bằng chứng
chính xác về năm tháng xây dựng ngôi Đền Sòng tuy nhiên trong quá trình tồn
tại, ngôi đền đã nhiều lần đợc tu sửa: Trớc đây ở triều vua Lê Cảnh Hng năm
thứ 33(1772) có bà Hoàng Thái Hậu đi qua Đền Sòng thấy cảnh sắc tuyệt mỹ
lại mến mộ ngời xa, bà bỏ ra 50 lạng bạc cho dân tu sửa đền và xây một chiếc
cầu bằng đá hình vòm bắc qua con suối nhở ở bên trái đền mà hiện nay vẫn
đang còn lại dấu vết. Nơi chiếc cầu bắc qua con suối hàng năm vào ngày lễ
hội ngời ta đứng đấy mà ngắm đàn cá thần dới suối bơi lợn.
- Trải qua những cuộc chiến tranh loạn lạc, ngôi đền nhiều lần bị phá đi
rồi dựng lại:
+ Năm 1939 quan Bố Chánh Thanh Hoá là Tôn Thất Toại tổ chứ trùng
tu lại ngôi đền khang trang bề thế.Chính trong quá trình trùng tu ngôi đền mà
ngời ta đã phát hiện ra cuốn sách bằng đồng.

Cuốn sách có tờ bằng đồng đợc tìm thấy ở Đền Sòng ngày 12-41939.Khi những ngời thợ đào móng ở đoạn giữa cây bên trái và bức bình
phong gần đấy họ đã phát hiện đợc cái tráp trong đó đựng một cuốn sách có tờ
bằng đồng đề niên hiệu Vĩnh Tộ(1619-1929) đời vua Lê Thần Tông[28-1]
Cuốn sách gồm năm tờ,trên tờ đầu viết thay đề mục Niêm sử giám gia đình
họ Lê , thuộc làng Vân Cát, huyện Thiên Bản.
+ 1993 Bộ văn hoá thông tin ra quýêt định số 57/QĐ công nhận khi di
tích lịch sử và thắng cảnh Bỉm Sơn trong đó có đền Sòng.
+ Năm 1994 Bộ văn hoá thông tin cấp tiền để trùng tu sửa chữa

13


+ Thán 5 năm 1998 đợc phép trùng tu tái tạo đền Sòng Sơn với nguồn
vốn do kêu gọi phát tâm công đức.
+ 13 7 1998 khởi công xây dựng đền Sòng. Công ty đầu t và xây
dựng thơng mại đã bỏ tiền trớc để xây dựng đền. Đến 31 12 1998 đã
xây dựng xong phần nhà đền, theo đúng thiết kế của Công ty tôn tạo di tích
TW Bộ văn hoá thông tin với số tiền gần 1 tỷ đồng.
Hiện nay di tích đền Sòng đã cơ bản hoàn thành và đón khách thập phơng, đồng thời tiếp nhận sự hảo tâm công đức của các tổ chức, cá nhân xa, gần
để từng bớc tu bổ sửa sang làm cho di tích ngày càng khang trang đẹp hơn,
đáp ứng đợc lòng mong mỏi đông đảo nhân dân hớng về cõi thiện.
1.2.1.4. Đặc điểm và kiến trúc điêu khắc Đền Sòng xa và nay.
Từ khi xây dựng đền Sòng có hớng Tây Bắc, phía trớc đền có một cái
hồ tự nhiên hình bán nguyệt, quanh năm nớc trong xanh không bao giờ cạn
hồ cá thần. Hồ có mạch nớc ngầm chảy từ Dốc Xây theo chân núi qua hang
động đa nớc về đây. Từ hồ cá thần có hai khe nớc nhỏ chảy xuôi lợn vòng
quanh tạo nên khu đất trớc đền dờng nh một hòn đảo có hình tròn. Hai khe
này đợc hợp với nhau về phía trái thành một dòng nớc lợn quanh co về phía
tháp tạo nên chín cái giếng xoắn ốc ở đó ngời ta dựng một cái đền nhỏ tục gọi
là đền Chín Giếng.

Bên cạnh hồ cá thần có một núi đất thấp tròn, ngời ta gọi là núi Ngọc
Bích, vì nó gần hồ nớc xanh. Núi Ngọc Bích là tiền án phong cho ngôi đền.
Phía trái (trớc đền) có dãy đất thấp thoải về phía Bắc. Hai dãy núi tả hữu nhô
cao hẵn lên ở gần hòn núi ngọc Bích và Hồ cá thần tạo nên bức tranh thiên
nhiên, lỡng long, ngậm thuỷ. Có ngời nói lỡng long giao thuỷ tụ, Bích ngọc
sáng trời mây.
Căn cứ cấu trúc trớc đây và những tài liệu còn lại, ta biết ngôi đền thờ
Liễu Hạnh đã có từ lâu đời, xây dựng có nhiều nét độc đáo. Đền xây dựng
theo kiểu chữ Tam đền có 3 cung điện liên tiếp, cung điện chính tẩm có ba
gian, gian giữa có tợng Mẫu uy nghi đặt trong khảm sơn son thiếp vàng. Cung
đệ nhị có 5 gian, mỗi gian có 10 pho tợng lớn đặt bên bệ thờ. Cung đệ tam
(tiền đờng) cũng xây 5 gian, gian giữ có một pho tợng duy nhất. Đồ thờ cả ba
cung có cả yếu tố Thần, Phật, Mẫu. Phía ngoài cung tiền đờng có hai pho tợng
hộ pháp.
Phía trớc đền (nơi gò đất nh đảo nhỏ, cũng có ngôi đền 5 gian thờ đức
ông. ở cửa con đờng vào còn có ngôi đền nhỏ tục gọi là đền quan giám).

14


* Kiến trúc điêu khắc xa và nay
Trải qua hàng trăm năm kể từ khi xây dựng đến nay Đền Sòng đã nhiều
lần đợc tu sửa, ban đầu chỉ là một ngôi đền nhỏ đợc nhân dân trong vùng dựng
lên bằng tranh, tre, nứa, kè. Còn ngày nay ngôi đền đã đợc xây dựng khang
trang mà ở ngoài thờ Mẫu Liễu Hạnh là chủ yếu còn đa vào thờ một số nhân
vật, tín ngỡng khác do vậy nó đã đáp ứng đợc nguyện vọng đông đảo của ngời
dân Bỉm Sơn nói riêng và nhân dân cả nớc nói chung.
1.2.1.5. Hệ thống thờ tự ở Đền Sòng.
Đền sòng nơi thờ Liễu Hạnh, với một quần thể kiến trúc điện thờ
duy nhất vừa đơn sơ, vừa dân dã nhng rất qui mô.

ở đền Sòng phụng thờ đạo ( Tam Phủ) một thứ đạo nội sinh? mà
trong tâm ngỡng mộ và tôn thờ là Mẫu Liễu Hạnh Vì Mẫu là một vị nữ
thần có nguồn gốc từ xã hội loài ngời, rất gần gủi thân thiết với mọi tầng lớp
nhân dân, đặc biệt đã đáp ứng kịp thời những nhu cầu của muôn mặt đời thờng. Đây là đặc tính tuyệt vời chỉ có ở mẫu Liễu Hạnh chứ không bao giờ có ở
các Mẫu: Mẫu đệ nhất thiên tiên Mẫu đệ nhị thợng ngàn Mẫu đệ tam
thuỷ cung.
Việc thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Đền Sòng nói riêng và ở các phủ đền nơi
khác nói chung đã đẩy tục thờ mẫu lên một trình độ cao hơn và hoàn thiện
hơn. Nó góp phần không nhỏ trong việc đáp ứng nhu cầu tâm linh cũng nh
duy trì tín ngỡng dân gian của toàn thể nhân dân lao động;
Cách bài trí phụng thờ hiện nay ở Đền Sòng sau khi đợc xây dựng lại
vào năm 1998 đã có thay đổi đôi chút. Mặc dù vậy ngôi đền mới đã cố gắng
khôi phục gần nh nguyên vẹn kiểu dáng xa uy nghi, đờng bệ và linh thiêng,
trong đền cấu trúc gồm ba cung.
- Cung đệ nhất: Đây là cung thâm nghiêng, u tịch rất ít khi đợc mở cửa,
trừ những ngày lễ rớc thánh mẫu hàng năm vào tháng hai âm lịch. Gian chính
giữa có tợng thờ thánh mẫu đợc trang hoàng lộng lẫy nh một thiếu nữ yêu kiều
diễm lệ. Hai bên là hai đệ tử thân tín Quế Nơng và Thị Nơng đã cùng thánh
mẫu giáng trần lần thứ ba, hai gian bên thờ Mẫu Thoải và Mẫu thợng Ngàn.
- Cung đệ nhị. Nơi đây thờ ngọc hoàng vua cha của Thánh Mẫu và các
quan.
- Cung đệ tam: Thờ các quan, các ông hoàng và các đệ tử trong đó nổi
bật là hai ông hoàng Bơ (Ba) và Hoàng Bảy đồng thời ở đây lại thờ cả đức

15


thánh Trần, phía ngoài sân chính của đền là tợng phật bà Quan Âm với dáng
điệu từ bi bác ái.
(Cửa vào cung và ở trong đền có những câu đối mới bằng chữ hán,

cúng tiến trong đợt xây lại đền).
Qua khảo sát thực tế ở Đền Sòng thấy lễ thức thờ phụng Thánh Mẫu ở
đây đợc cử hành theo hai cách.
+ Cách thứ nhất là lễ tự từ ngoài cửa phủ vào đến ban chúa (thậm chí
còn vào tới tận hậu cung để dâng hơng hoa nếu đợc phép của ban quản lý).
Tức là lễ từ Bát Bộ Sơn Trang vào Ban Đồng (cung đệ Tam) đến ban vua cha
Ngọc Hoàng (Cung đệ Nhị) đến Ban chúa vào hậu cung. Rồi sau đó ra lễ ở
Ban Cô, ban
Cậu và hoá vàng ở bên ngoài.
+ Cách thứ hai là lễ từ trong hậu cung Mẫu Liễu Hạnh lùi dần ra
ngoài cửa phủ. Tức là lễ từ:
Hậu Cung
Ban Chúa
Ban vua cha Ngọc Hoàng
Ban Đồng
Bát Sơn Trang
Ban cô, Ban cậu
Bể hoá vàng ở ngoài.
Nhìn chung ở Đền Sòng việc bài trí cũng dựa theo cách bố trí phổ biến
ở các đền, phủ thờ mẫu khác nh thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và có lẽ ngời dân khi
đến đây thể hiện tấm lòng hớng thiện của mình về với cội nguồn, họ cũng
muốn rằng ngoài Mẫu Liễu còn phải có họ hàng của Mẫu, quân quyền của
Mẫu. Vậy là ít nhiều xuất hiện cách bài trí, phụng thờ khác nhau. Nơi thì thờ
tam phủ, nơi thì thờ tứ phủ. Nhng suy cho cùng tất cả đều quy tụ về một niềm
tin bất diệt để vơn đến cái chân, thiện, mỹ ở cõi đời.

16


Chơng 2

Các đối tợng thờ tự ở đền sòng
2.1. Khái lợc về nội dung tín ngỡng thờ Mẫu ở Đền Sòng.
Trong quá khứ và cả hiện tại, trên đất nớc ta, tín ngỡng thờ Mẫu đã có
một địa bàn rộng lớn, đó là một thực tế không thể phủ nhận đợc.
Danh xng Mẫu là gốc từ Hán Việt, còn thuần việt là Mẹ. Nghĩa ban
đầu Mẫu hay Mẹ đều để chỉ ngời phụ nữ đã sinh ra một ngời nào đó. Từ Mẫu
và từ Mẹ còn bao hàm ý nghĩa tôn xng, tôn vinh, chẳng hạn nh Mẹ Âu Cơ,
Mẫu nghi thiên hạ và Mẫu Liễu Hạnh.
Cho đến nay, mặc dù nhiều nhà khoa học đã bỏ công ra nghiên cứu về
tín ngỡng Mẫu, nhng tục thờ Mẫu trên đất nớc ta cha biết đích xác có tự khi
nào. Song ngời ta tin Mẹ thần linh này đã xuất hiện từ buổi hồng hoang của
ngời Việt.
Bên cạnh các đền, phủ, điện gắn với các Thánh Mẫu, đã có mặt gần nh
ở khắp các chùa ở đất Bắc và một phần ở miền Trung miền Nam đã có điện
Mẫu riêng bên điện phật. Đôi khi cảnh sinh hoạt lại khá sầm uất lấn át cả việc thờ
Phật.
Có thể nói sự hỗn dung với tín ngỡng dân dã này là con đờng tất yếu
của Phật giáo Việt Nam.
Hầu hết các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian đều nhận xét rằng: Tục
thờ
Mẫu là một sinh hoạt t tởng rộng rãi của quần chúng lao động, chủ yếu là
nông dân, nó phản ánh đậm nét tâm hồn ngời Việt, nó có một sức sống mãnh
liệt, uyển chuyển, tự điều chỉnh để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử.
Một Mẫu quyền năng vô lợng (theo quan điểm bình dân) đã phân thân và hoá
thân thành các thần linh tối thợng nh: Quan Âm Bồ Tát, Maria
Bà mẹ văn hoá sớm nhất của ngời Việt đợc nhắc tới là Mẹ Âu Cơ ngời
đã sinh ra vua Hùng và là ông tổ của các tộc Việt. Tiếp theo Âu Cơ thời Bắc
thuộc là Mẹ vũ trụ đợc hội vào Man Nơng để rồi mối tình của một phật phái
có nhiều yếu tố mật, làm các thần mây, ma, sấm, chớp, đợc định hình ở dạng
nữ và truyền lại cho các đời sau: Đến thời lý hiện thân xuống đời thờng là ỷ

Lan phu nhân quan âm nữ. Đến thế kỷ XVI xuất hiện một Mẫu khá hoàn
thiện đó là Mẫu Liễu - Đức Mẫu Liễu Hạnh.

17


Thánh Mẫu Liễu Hạnh vừa là nhiên thần, vừa là nhân thần với đời sống
trần gian, với cha mẹ, với chồng con, chu du khắp nơi trừ ác ban lộc. Khiến
ngời đời vừa sợ vừa trọng.
Mẫu Liễu Hạnh với t cách là Mẫu Thợng Thiên luôn luôn đợc thờ ở vị
trí trung tâm, mặt trang phục màu đỏ. Dân gian cho rằng Mẫu Liễu còn có thể
hoá thân vào Mẫu Thợng Ngàn trông coi miền rừng núi. Tuy nhiên thánh mẫu
Liễu Hạnh lại mang trong mình những cá tính của con ngời đời thờng: Yêu và
ghét, từ thiện và độc ác. Mẫu Liễu Hạnh còn hoá thân thành Địa tiên Thánh
Mẫu Bà mẹ đất cai quản mọi đất đai và đời sống các sinh vật.
Suy cho cùng Mẫu có thể hiểu Mẫu là lực lợng sáng tạo vũ trụ, là nguồn
năng lực vô biên, đợc ngời Việt coi là những đấng tối thợng thần.
Mẫu Liễu Hạnh là một biểu tợng, đợc nhân dân gắn cho một quyền uy
và khả năng siêu phàm, có thể cứu hộ độ trì cho muôn vạn chúng sinh với
những nỗi niềm và những nổi mong ớc khác nhau. Biểu tợng đó gắn kết những
số phận lại với nhau, tạo nên một cộng đồng, sự cảm thông cộng đồng. Vì thế
đến với Mẫu con ngời không chỉ có sự đồng cảm về biểu tợng chung mà còn
cộng cảm về giá trị văn hoá.
Chính những giá trị đó mà hiện tợng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở nớc ta đợc coi là
một hiện tợng đặc biệt trong tín ngỡng thờ Mẫu của nhân dân. Vì mẫu Liễu có mặt
hầu hết trong các điện, đền, phủ đình, chùa ở trên khắp mọi miền đất nớc.

18



2.2. Những nét đặc trng của tín ngỡng thờ Mẫu
Trên một đất nớc đa dân tộc và vô cùng phức tạp nhiều khi đến hỗn độn
của nhiều loại hình tôn giáo, tín ngỡng do vậy không khỏi gây nên khó khăn
khi nhận diện, phân biệt các hình thức tôn giáo, tín ngỡng. Vì vậy việc chỉ ra
đợc những đặc trng cụ thể của từng loại hình tôn giáo, tín ngỡng là quan trọng,
tuy nhiên để làm đợc việc này không phải đơn giản, nhất là đối với những hình
thức tín ngỡng bản địa còn mang nhiều dấu vết nguyên thuỷ của c dân nông
nghiệp.
Chúng ta đã quen và có thể nhận ra đợc ngay đôi nét đặc trng về phơng
diện và hình thức thiết chế của các tôn giáo lớn có nguồn gốc từ nớc ngoài.
Một thánh đờng của đạo thiên chúa dễ đợc nhận ra bởi các gác chuông, khi
đứng trớc điện thờ của đạo thiên chúa với bức tợng đức chúa Giê Su bị đóng
đinh câu rút trên cây thánh giá, hoặc thánh đờng của đạo Cao Đài thờ một con
mắt vẽ trên quả địa cầu
ở Việt Nam tín ngỡng Mẫu đợc thực hiện trong nhiều dạng thức thờ tự
khác rất nhau:
- Loại chuyên biệt :
+ Phủ: Phủ Tây Hồ, Phủ Giầy
+ Đền: Đền Bắc Lệ (Lạng Sơn), đền Sòng ( Thanh Hoá), đền
Cờn ( Quỳnh Lu- Nghệ An), đền Củi ( Nghi Xuân Hà Tĩnh)
+ Điện: điện Hòn Chén (đền Ngọc Trản Huế)
- Loại phối thờ: Trong các đền, chùa, quán, ở Việt Nam hiện nay bên
cạnh các ban (Điện) thờ Thần, Thánh, Phật bao giờ cũng có ban thờ Mẫu và
trong các hình thức tế lễ, cầu cúng bao giờ cũng có tín ngỡng về Mẫu.
Bởi điện thờ Mẫu có ở khắp nơi trên đất nớc ta với quy mô lớn, nhỏ rất đa
dạng do vậy để tìm ra đợc những nét riêng của điện Mẫu không thể chỉ nhìn ở
thiết chế bên ngoài mà phải tiếp cận ở bề sâu, trong từng chi tiết của kiến trúc
tổng thể của địên thờ nhất là sự bài trí điện thờ, những nghi thức cầu cúng.
Chính những nét riêng ấy làm nên những nét đặc trng của tín ngỡng này là
một hình thức tín ngỡng thuần phác đặc biệt của dân tộc ta.

2.3. Những hình thức biểu hiện của điện Mẫu
Điều này chúng ta dễ nhận thấy hơn ở những đền, phủ riêng thờ Mẫu.
Đó là các thành phần nằm trong kiến trúc tổng thể mà ngời không am hiểu
lầm tởng là chỉ để tạo cảm quan thẩm mỹ môi trờng. Trong tâm thức dân gian
của c dân nông nghiệp nớc ta, dòng sông, con suối, hồ nớc,tức những nơi có

19


nớc, dòng sông, mang tính Nữ (Âm). Vì vậy, hầu hết các điện Mẫu thờng đợc
xây dựng bên cạnh một con sông (nh điện Hòn Chén xây dựng trên núi Ngọc
Trản, cạnh sông Hơng), cạnh cữa biển (nh đền Cờn dựng ở cữa Càn Hải- Nghệ
Tĩnh ), cạnh một con suối (nh đền Bắc Lệ Lạng Sơn), cạnh một hồ lớn (nh
phủ Tây Hồ ở cạnh Hồ Tây), Nếu nh không chọn đợc cái nh thế đất lành tự
nhiện có sông hồ, ôm bọc hoặc có những gò đất bốn bề quần tụ khác nào có
rồng, phợng, rùa, rắn chầu bái thì trong khuôn viên dựng điện Mẫu ngời ta sẽ
phải làm hồ, ao, giếng, để dựng lại một không gian cần phải có, ứng với thuật
phong thuỷ thời xa. Các cửa Mẫu bao giờ cũng đợc quay về phía nguồn nớc,
những nơi tụ thuỷ tụ phúc những mong làm ăn phát đạt. Ví nh chiếc hồ bán
nguyệt trớc điện Thiên Hơng và chiếc hồ vuông trớc điện thờ Mẫu ở Đền
Sòng. Trong việc tạo dựng một nơi tụ thuỷ là hồ thì những hồ trong có niên đại
muộn hơn các hồ hình bán nguyệt. Cũng để tạo yếu tính nữ, nhiều điẹn Mẫu ở
cùng cao thờng đợc dựng trong các hang động. Một thành phần của kiến trúc
mang yếu tính nữ nữa là việc tạo dựng các hòn non bộ giả sơn với
những ngọn đá lô xô vui mắt mọc lên từ đất hoặc dầm chân trong nớc.
Và, tuy nhỏ nhoi nhng có nhiều hang động và lom khom vài tiều phu nơi
lng chừng núi. Có ngời cho rằng thú tạo giả sơn là để hồi cố về thủa con ngời
ăn lông ở lỗ miền hoang dã. Thực ra không phải nh vậy. Trớc khi việc làm non
bộ đặt trong nhà, trong khuôn viên mạng tính là một trò chơi nghệ thuật thì nó
vốn đợc ra đời trên cơ sở của việc thờ Mẫu do các sự tích của bà chúa Th ợng

Ngàn, Thiên Yana, rồi đến Mẫu Liễu Hạnh thờng dính lứu tới cây, đá. Trong
quan niệm phồn thực dân gian của các c dân nông nghiệp, thì cây và, ngay cả
đá nữa đợc cho mang tính nữ, vì chúng có tính sinh nở, đợc mọc từ dới đất lên.
Nếu nh một điện thờ Mẫu nào đó không tạo dựng đợc một khu non bộ mà
ngày nay nó đợc dựng lên làm chỗ ngoại cảnh thì việc lập Ban Sơn Trang với
cảnh núi non, rừng, cây, suối,nh thủ phủ bà Liễu Hạnh cũng mang một ý
nghĩa của điện thờ Mẫu
2.3.1. Về trang trí quanh bàn thờ Mẫu
Khi đến với bất cứ nơi thờ Mẫu nào, điều đập vào mắt ta là ngay trớc
bàn thờ Mẫu bao giờ cũng treo tầng tầng lớp lớp những đồ vàng mã, nhng phổ
biến và không thể thiếu là nón, hài, thuyền rồng, đèn lồng, đủ loại, với nhiều
kích cỡ khác nhau. Và đơng nhiên các đồ dùng này vô cùng sặc sỡ, hấp dẫn,
vui mắt. Riêng về nón, có nhiều loại nón nh: tu lờ, nón quay thao, nón chóp,
nhng phổ biến và nhiều hơn cả là nón quay thao.

20


Sở dĩ có treo những đồ vật ấy là vì trong tín ngỡng thờ Mẫu, từ thánh
Mẫu tới hàng quan, hàng chầu, ông Hoàng và các Cô, các Cậu đều gồm các vị
thần linh gốc gác từ mọi miền đât nớc, ngời kinh, ngời các dân tộc ở miền núi,
miền biển.
2.3.2. Về điện thần Mẫu
Các cơ sở thờ tự của mỗi tôn giáo, tín ngỡng, số lợng bàn thờ, tợng hoặc
tranh, ảnh thờ, tên gọi và vị trí của nó làm nên điện thần của các đền đài đó. Mỗi
điện thần là cả một công trình khoa học, một công trình nghệ thuật gửi gắm ý tởng
thẩm mỹ, đạo đức, tôn giáo tín ngỡng của một lớp tín đồ quanh điện thần đó.
Bài trí và sắp xếp điện/đền Mẫu thờng theo cung đệ nhất, cung đệ nhị
và cung đệ tam (từ ngoài vào). Chủ điện/trung tâm điện thần nằm ở cung đệ
tam (hậu cung).

Điện thần gian thờ Mẫu (hậu cung): vị trí ch vị thần thánh đợc bài trí
sắp xếp theo 3 tầng. Tầng trên không, tầng ngay bên ban bệ thờ và tầng trệt
dới gầm ban/bệ thờ (hạ ban). Đây là điều rất riêng, không có tôn giáo, tín ngỡng nào có cách bài trí nh thế.
ở tầng không, đó là sự hiện diện của đôi mảng xà tợng trng cho quan
lớn Tuần Tranh (rắn thần), mỗi con có đờng kính 5 7 cm, dài từ 3-5m. Một con
màu trắng, một con màu sẫm. Hai con đợc quấn trên xà ngang ngay phía trớc bên
bàn thờ. Hai con từ hai bên châu đầu vào nhau ở chính điện cả hai con đều trong t
thế há miệng đỏ lòm và răng nanh nhọn hoắt, lỡi lè dài dữ tợn.
ở tầng ngang- trên ban/bệ thờ có thể chỉ có một bàn có khi là một dãy
nhiều bàn từ ngoài vào cao dần lên là nơi ngự của các thánh Mẫu (cũng có khi
chỉ một tợng Mẫu) và các ch vị thần thánh.
ở hạ ban, bao giờ cũng là nơi thờ ông Năm Dinh hay thánh Ngũ Hổ tớng quân với biểu trng là tợng con hổ hoặc có khi chỉ đơn giản là một bức
tranh vẽ con hổ. ở gần ban này có đặt một bát nhang.
Nh vậy, ta dễ nhận ra qua sự hiện diện của sự bài trí này một điện thờ đa
thần. Nhng nh thế không có nghĩa là một sự lôn xộn, không có thứ bậc ở đây
có một trật tự là các ch vị thần thánh đều quy tụ về một trung tâm điểm của
điện thần đó là các thánh Mẫu - đấng sáng tạo tối cao.
Phần bài trí trên ban thờ Mẫu đã có nhiều bài viết miêu tả khá chi tiết
tên gọi và vị trí từng pho tợng từ Tam toà thánh Mẫu tới các hàng chầu, hàng
Cô, Cậu. Có một nhận xét là do sự tiếp cận với điện Mẫu ở những nơi thờ khác
nhau nên thờng là sự mô tả các điện thần ấy không có sự thống nhất, mỗi nơi

21


một khác, tuỳ tiện ở nơi cách sắp xếp về tên các vị thánh Mẫu, tuỳ tiện ở sự có
hoặc không có một vị thần nào đó, tuỳ tiện trong việc đa vào phối tự một tín
ngỡng dân gian khác. Đây là sự tất yếu của loại tín ngỡng dân dã khi nó cha vơn lên để trở thành một tôn giáo phổ quát chính thống. Trong cái sự phức tạp
gây nên bởi sự tuỳ tiện của tâm lý nông dân và tiểu thơng ấy, chúng ta vẫn
nhận ra đợc một trung tâm điện thần cho dù đó là một điện thờ Mẫu đầy đủ

hay giản đơn, đó là vai trò và vị trí của Mẫu. Và nh thế, sự tích hợp vào quanh
Mẫu những vị thần linh nào nữa là tuỳ vào sở nguyện của những tâm đồ của
Mẫu hằng quan niệm và mong muốn, ký thác. Chắc rằng Mẫu cũng cho phép
bỡi Mẫu sáng tạo và cai quản tất thảy, mọi miền vũ trụ và mọi vật có ở trên
đời này.
-Tìm hiểu về sự xuất hiện của tín ngỡng thờ động vật, một tín ngỡng
dân gian của ngời Việt trong điện thần này.
Hai con Rắn trong điện thần đợc gọi là Ông Lốt. Con Trắng còn có tên
là Quan lớn Ba, con màu sẫm còn có tên là Quan lớn Năm.
Trong điện thần Mẫu có thờ Rắn, Hổ chính là dấu vết của sự thờ cúng
thú vật từ thủa hồng hoang của lịch sử. Những nguồn gốc của sự thờ cúng đó
của ngời Việt nếu có thể nói chắc chắn điều gì thì điều đó là đó không phải
tàn d của tô tem giáo. Ngời Việt trớc khi trở thành một c dân nông nghiệp
sống với nghề trồng trọt, lơng thực chủ yếu là lúa nớc, hệ thống thần linh là
các thần nông nghiệp, thì họ đã trải qua một thời gian dài sống bằng hình thức
kinh tế chiếm đoạt, đánh bắt và săn bắn. Và nh thế, việc thờ cá, thờ hổ có gắn
liền với nghề đánh bắt và săn bắn chính là tầng văn hoá gốc, tầng văn hoá đầu
tiên trớc lớp văn hoá thờ các thần nông nghiệp .
Việc thờ Hổ cũng có thể bắt nguồn từ chính những con vật này do sự
nguy hiểm của chúng đối với con ngời. Họ nghĩ rằng con Hổ là thần linh hay
chúa tể của con vật, có mãnh lực chống đợc ma quỷ, bảo vệ đợc thân xác cũng
nh tâm hồn của bá tánh. Họ kiêng cữ không gọi tên con vật và để tỏ thái độ
kính trọng, gọi nó bằng Ngài, Ông Ba Mơi, đức Thầy, Quan
Tóm lại, sự hiện diện của thần Mẫu nh trên chính là sự khẳng định trở
lại quyền năng vô lợng của Đất Mẹ khởi nguồn, khẳng định vai trò hàng
đầu của Đất trong đời sống thực cũng nh chi phối đời sống tâm linh của c dân
Việt mà vốn nó đã bị hạ bệ trong những thế kỷ ngập chìm trong quan niệm
Nho giáo phụ hệ. [126, 10]Với sự bố trí nh trên, phải chăng ngời xa có chủ ý
bắt những tông đồ đang hiện diện trớc Mẫu phải nghẩng mặt nhìn lên để nhớ


22


về dòng sông Mẹ, cúi mặt nhìn Đất nơi nớc về tới mát sẽ sinh sôi vạn vật và
muôn loài nảy nở, tốt lành. Đơng nhiên là với mỗi ngời đến cửa Mẫu thì ớc
vọng phồn thực đó gắn chặt với mọi yêu cầu của muôn mặt đời thờng, ở sự
cầu mong sức khoẻ, no ấm hạnh phúc. Vì vậy, tín ngỡng thờ Mẫu chính là
niềm tin của ngời đang sống, vì ngời đang sống.
2.3.3. Về những nghi thức thờ cúng
Tại điện Mẫu ngời ta tiến hành những nghi thức thờ cúng đức Thánh Mẫu,
cùng các ch vị thần thánh để cầu mong lấy Phúc, Lộc, Sức khoẻ, Tiền tài. ở
mặt sinh hoạt này, đạo Mẫu đã khẳng định tính đặc thù của mình, với những
sáng tạo riêng, mang đậm nét dân tộc Việt Nam. Trớc điện Mẫu ,không biết từ
bao giờ đã ra đời và phát triển một lễ thức đặc biệt , khá độc đáo và ngày nay
nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định nó là loại hình nghệ thuật diễn xớng - âm nhạc, hát văn và múa thiêng tập trung lại trong một hình thức sân
khấu tâm linh đặc thù, đó là hầu bóng. Và, ở mức độ nào đó có thể đồng nhất
tín ngỡng này với đồng bóng. Và, loại hình sân khấu này đợc gọi là sân khấu
thần tích.
* Hầu bóng một loại hình sinh hoạt văn hoá phổ biến trong tín ngỡng thờ Mẫu
Hầu bóng gồm một chuỗi lễ tiết do một nhóm ngời đợc nhà thánh
chọn làm con cái, tiến hành ở các đền, phủ để chiêm bái kính thỉnh các đấng
thần linh thờ trong điện Mẫu, giáng xuống tháp vào, nhập vào thân xác ông đồng,
bà đồng, mà để mắt tới sinh hoạt trần thế, độ trì con ngời vợt mọi tai ơng khi
buôn bán làm ăn, ban tài, phát lộc cho họ sớm có cuộc sống hạnh phúc đủ đầy.
Nhóm ngời này gồm có các cung văn lo đánh nhạc và hát (thờng là vừa đàn vừa
hát), với một con công (nam hoặc nữ - nhng nhiều hơn là nữ) lo minh họa thể hiện
bóng Thánh qua diễn xuất và múa sát theo lời hát. Đi kèm là đám con công đệ tử
hàng mấy chục ngời vây quanh phù trợ. Cha kể các vị thủ đền, thủ nhang, viết sớ,

Các đấng thần thánh thờ trong điện Mẫu, là các quân gia thị thần của Mẫu,

mỗi ngời đều có sự tích: đã có công giúp vua đánh giặc giữ làng, giúp dân sinh nở,
làm ăn, vui chơi. Mỗi sự tích này đợc soạn thành bản văn, mỗi bản nói về sự
nghiệp của một vị trí, qua một số sự biến giản lợc, nghiêng nhiều về ngao du
ngoạn cảnh.
Mỗi khí hát văn và trình diễn minh hoạ sự tích một vị thần nào đó gọi là
một giá (giá đồng, giá bóng). Với các vị thánh Mẫu và các đức vua cha
những đấng thần linh tối thợng do dân gian quan niệm các vị ở nơi cao xa ngời

23


trần mắt thịt không thể chiêm ngỡng đợc hình hài nên các vị không nhập vào
các thân xác phàm tục, chỉ giáng xuống chốc lát để chứng giám rồi thăng
ngay. Do vậy chỉ có các giá nh: giá Quan Lớn, Ông Hoàng, Bà và Cô Cậu, ông
Hổ, ông Lốt
Do bản hát văn kể về sự tích và tính cách của các vị giáng đồng khác nhau
nên mỗi giá đồng đợc qui định bởi một hình thức nghệ thuật tơng hợp. Giá
các quan lớn, ông Hoàng phải thể hiện sự uy nghiêm, hùng dũng, có múa hèo,
múa kiếm, đao, đi theo với hát phú, lu thuỷ nhịp một. Giá chầu bà phải thể
hiện sao cho duyên dáng, dịu dàng với múa quạt, dệt gấm thêu hoa, chèo đò,
đi theo là hát luyên, hát xá, hò khoan. Giá các Cô phải vui tơi nhí nhảnh. Giá
các cậu thì nhanh nhẹn, nghịch ngợmMột buổi hầu đồng bao giờ cũng hầu
trớc tiên là Tam Toà Thánh Mẫu rồi đến các Quan, các Cô, Cậu. Muốn trở
thành ông đồng, bà đồng phải trải qua 2 lễ là lễ tôn nhang và đàn tứ phủ.
Nh thế, ở đây, trớc cửa Mẫu, Mẫu không muốn các tông đồ của Mẫu tụng
kinh nhai nhải. Mẫu là đức thánh, nhng vẫn ở giữa cuộc đời, đi sát để chăm
chút cho con ngời nơi trần thế, một buổi sinh hoạt văn nghệ có sự cộng cảm
của nhiều ngời. Tại đó mọi ngời đợc đợc xem hát, múa, lại còn nhận đợc Lộc
của Thánh. Thánh Mẫu và ch vị thần thánh không mong lễ vật dâng cúng xa
hoa nào khác ngoài việc dâng tặng những tiết mục những giá đồng với

những cung đàn giọng hạt ngọt, múa dẻo, những bộ xiêm y rực rỡ đủ mọi sắc
tộc. Nh thế, tại cửa Mẫu những buổi hành lễ nh vậy qua sự hiện diện của các
vị giáng đồng những ch vị thuộc đủ mọi dân tộc, thực sự là một cuộc hội
ngộ, một cuộc trình diễn y phục, đặc trng sinh hoạt của các dân tộc trên đất nớc ta. Phải chăng nh thế càng góp phần thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng.
* Lễ tôn nhang
Một sinh hoạt đặc trng khác, đó là lễ tôn nhang, còn gọi là lễ đội bát
nhang (bát hơng). Lễ tôn nhang là lễ bốc và đặt bát nhang thờ những vị thần
thánh là quân gia thị thần của Mẫu cho những ngời bị ốm đau vì có căn số
nặng nhằm cầu cúng cho khỏi bệnh và khoẻ mạnh. Lễ đợc tiến hành tại cửa
Mẫu. Sau khi bốc, bát nhang đợc đặt tại cửa Mẫu và vào ngày mồng một, ngày
rằm hàng tháng, ngời này phải đến thắp nhang và cúng lễ ở cửa Mẫu.
Theo quan niệm của những tông đồ của tín ngỡng Mẫu thì mỗi ngời đang
sống trên cõi trần của Thánh Mẫu quản cai. Khi ngời ta bị ốm tức là ngời đó
đã bị một vị thần cai quản hoặc có khi tất cả các vị đều hành. Nghĩa là đợc
các Ngài chấm làm lính hầu và họ không thể từ chối. Vì nếu chối bỏ cái

24


nhiệm vụ đó họ sẽ phải gánh nhiều tai vạ nữa. Muốn khỏi bệnh, ngời bệnh này
phải tới cửa Mẫu đội nghĩa là thờ cúng, vị thần đang hành bệnh mình đó.
Nếu căn số nặng thì con bệnh đội nhiều bát nhang hơn, có khi tới 7 bát.
Những con bệnh này tin rằng, sau khi cầu cúng, những thần thánh nắm bản
rmệnh của mình rồi thì các vị này sẽ không hành nữa, nh thế bệnh tật sẽ
khỏi. Khi vào các đền, phủ hoặc trớc bàn thờ Mẫu phối tự trong các đền chùa
khác, ta thờng thấy hàng trăm bát nhang loại nhỏ đặt thành hàng dài, thậm chí
đợc xếp thành nhiều hàng, nhiều tầng. Đó chính là những bát nhang bản mệnh
mà các con bệnh phải đội thờ cúng các vị quân gia cận thần của Mẫu. Đây
là hình thức cúng bái chữa bệnh mang nặng tính chất mê tín dị đoan. ở nhiều
điện Mẫu chínhh quyền sở tại đã nghiêm cấm hình thức cúng bái này, nhng

vẫn không ngăn cản đợc tín ngỡng của không chỉ những ngời nông dân mà
ngay cả một số ngời có học, nhng mông muội. Họ ứng phó bằng cách không
bốc bát nhang cụ thể mà bốc tợng trng, thay vì phải có bát nhang, họ ghi tên,
tuổi, địa chỉ vào bản văn sớ (đơng nhiên là do các ông thầy viết bằng chữ Nho) đa
vào tủ kính, đặt trên bàn thờ Mẫu.
Đối với ngời nghèo, họ không làm lễ đội bát nhang riêng nh vậy mà họ lựa
ngày nào cửa đền có ngời hầu bóng ,họ sẽ đến xin làm lễ đội bát nhang .Nh
vậy có hai cái lợi: một là khỏi tốn tiền mâm cỗ, hai là lại đợc các Ngài về
chứng sớ cho. Có ngời sau khi đội bát nhang về nhà cứ dỡ dỡ ơng ơng, nhảy
múa nh điên loạn, hoặc đau ốm bệnh tật nhiều hơn. Nh vậy tức là căn cơ quá
nặng phải làm lễ trình đồng rồi ra hầu bóng thì mơi khỏi. Có ngời ngợc lại
sau khi đội bát nhang thì khỏi hẳn tai ơng. Khi gặp những chuyện không may
để khấn vái cho qua khỏi, họ phải làm lễ tôn nhang trở lại.
*Lẽ trình đồng
Nh trên đã nói sau khi đã tôn nhang mà mọi việc vẫn không có gì thay
đổi hoặc có khi lại trầm trọng hơn trớc thì các tín đồ đồng bóng thờng cho
rằng nh vậy là căn quá nặng phải ra đàn tứ phủ sơn trang để chính thức trở
thành ghế đệm cho các Ngài thì mới khỏi đợc. Họ quan niệm rằng sở dĩ gặp
điều không may nhất là bệnh hoạn là tại các Ngài đã chấm mà không chịu ra
đầu các Ngài nên bị hành, chỉ cần ra đàn xong là khỏi.
Lễ này có mục đích trình diện con đồng với ch vị Mẫu Mẹ Vua Cha, với
các ông hoàng bà chúa. Mở đàn để ra trình diện với 4 phủ và sau lễ ấy thì mới
đợc chính thức làm ghế đệm để các Ngài về phán bảo và làm việc quan.

25


×