Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Tính trữ tình triết lý trong thơ nguyễn duy luận văn thạc sỹ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.41 KB, 136 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

----------*****---------

NGUYỄN THỊ ĐUYÊN

TÍNH TRIẾT LÍ- TRỮ TÌNH TRONG
THƠ NGUYỄN DUY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH -2011


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Giải thưởng giải nhất cuộc thi thơ trên báo văn nghệ (1972 1973), giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và gần đây là giải thưởng
dành cho nhà văn nước ngoài của viện Hàn lâm Rumani (2010) là những ghi
nhận cho tài năng và đóng góp của của Nguyễn Duy cho văn học, mà trước
hết là thơ. Trưởng thành vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, cho đến nay Nguyễn Duy vẫn là một trong số không nhiều
những nhà thơ thời ấy còn sung sức, thu hút sự chú ý và quan tâm của các thế
hệ người đọc. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên
cứu về thơ Nguyễn Duy. Hầu hết, mới dừng lại ở những cảm nhận thẩm bình
mang tính giới thiệu. Từ thực tế đó, chúng tôi lựa chọn đề tài Tính trữ tình triết lí trong thơ Nguyễn Duy với mong muốn góp thêm một tiếng nói vào
quá trình nghiên cứu giới thiệu thơ Nguyễn Duy.


1.2. Một trong những đặc điểm nổi bật trong thơ Nguyễn Duy là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính trữ tình và triết lí. Ở những mức độ và cách
thể hiện khác nhau, nhưng dường như sự kết hợp đó ở bài nào cũng có, nhất
là ở những sáng tác thời kì sau chiến tranh. Tìm hiểu tính trữ tình triết lí trong
thơ Nguyễn Duy, vì vậy không chỉ để hiểu tài năng cá tính sáng tạo một nhà
thơ mà còn gợi mở nhiều vấn đề lí luận về xu hướng vận động của cái tôi trữ
tình trong thơ Việt Nam những thập niên sau chiến tranh.
1.3. Trong những năm gần đây, thơ Nguyễn Duy đã được chọn học
trong chương trình Ngữ văn ở các cấp học từ tiểu học cho đến trung học phổ
thông, giới thiệu ra ngước ngoài và được rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình
văn học đánh giá, công bố trên các báo chuyên ngành, được công chúng yêu
thơ đọc và bình phẩm. Tuy nhiên ngoài những bài viết đó và một vài luận
văn cử nhân, chưa có một công trình nghiên cứu nào toàn diện về thơ ông .Vì


3

vậy, chúng tôi chọn đề tài Tính trữ tình- triết lí trong thơ Nguyễn Duy trên cơ
sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc công trình nghiên cứu của những người đi
trước để nhằm góp thêm một cái nhìn khái quát về sự nghiệp thơ ca của nhà
thơ Nguyễn Duy.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ những năm 1972 khi chùm thơ đoạt giải nhất của Nguyễn
Duy được đăng trên báo Văn nghệ, ông đã được dư luận quan tâm đánh giá
nồng nhiệt trong cả giới nghiên cứu phê bình và sáng tác. Sự nghiệp thơ ca
của ông ngày càng dày dặn thì ý kiến phê bình nghiên cứu về thơ ông cũng
ngày càng sôi nổi. Trên cơ sở nguồn tư liệu bao quát được và trong phạm vi
quan tâm của đề tài, chúng tôi điểm lại quá trình nghiên cứu thơ Nguyễn Duy
trên một số phương diện nổi bật.
Có lẽ, bài phê bình sớm nhất về thơ Nguyễn Duy mà cho đến nay ta

biết được là bài viết của nhà phê bình Hoài Thanh, với tựa đề “Đọc một số
bài thơ của Nguyễn Duy” đăng trên tuần báo Văn nghệ số 444 năm 1972.
Hoài Thanh viết: “thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen thuộc...
Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những
cuộc đời cần cù gian khổ, không tên không tuổi... anh thường hay suy nghĩ
trước những chuyện lớn chuyện nhỏ quanh mình...” [78, 5]. Cũng cách nhìn
ấy, trong bài “Tìm một giọng thích hợp với người thời mình” Lại Nguyên Ân
cho rằng thơ “Nguyễn Duy nhạy cảm với cái gì ít ỏi, còm nhom, queo quắt,
cộc cằn, đơn lẻ” [2, 11]. Trong bài “Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy”
in trong phụ lục tập Mẹ và em, Nguyễn Quang Sáng nêu ý kiến “ngoài mảng
thơ về đề tài chiến trận, thơ Nguyễn Duy chủ yếu dành cho những đề tài
muôn thuở : tình yêu, con người và đề tài quê hương ... Trong thơ Duy có
hầu hết gương mặt các miền đất với những cảnh sắc thần thái riêng” [72, 91].
Là người bạn thân thiết của Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất


4

hiểu Nguyễn Duy, khi ông viết: “Nguyễn Duy gắn bó máu thịt với đất nước
mình bằng tình cảm rất cụ thể với người dân... Thơ nguyễn Duy có niềm tự
hào chính đáng về nhân dân mình, cùng với nỗi buồn thương chính đáng”
[72, 97]. Bàn về đặc sắc thơ Nguyễn Duy, Vũ Văn Sỹ có những nhận xét khá
tinh tế. Ông viết: “Nguyễn Duy thường nắm bắt những cái mong manh
nhưng vững chắc trong đời: chút rưng rưng của ánh trăng, một tiếng tắc kè
lạc giữa phố, một dấu chân cua lấm tấm ruộng bùn, một kỉ niệm chập chờn
nguồn cội, một mùi thơm của huệ trắng trong đền, thoáng hư thực giữa người
và tiên phật... và rồi hồn thơ Nguyễn Duy neo đậu được ở đó” [76, 69]. Ở
một cái nhìn có phần khái quát hơn, Vương Trí Nhàn đã giải thích sự “giàu
có” trong thơ Nguyễn Duy. Theo ông, Nguyễn Duy “Bao dung nên giàu có”
[70, 280]. Nhìn chung các ý kiến đánh giá trên đã bước đầu chỉ ra được được

những nét riêng độc đáo của thơ Nguyễn Duy. Đó là ông thường cảm xúc suy
nghĩ về những điều bình dị, cụ thể của đời thường. Nó xuyên suốt trong thơ
ông làm nên sự thống nhất trong sự đa dạng.
Bàn về hình thức nghệ thuật thơ Nguyễn Duy, các nhà nghiên cứu
quan tâm trước hết ở vấn đề thể loại. Trong đó, bài thơ Tre Việt Nam đã thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà phê bình. Hầu hết các ý kiến đều xem đây là
một trong những bài thơ lục bát tiêu biểu của Nguyễn Duy. Văn Giá trong
bài “Một lục bát về tre” viết: “Lựa chọn thể thơ 6-8, một thể thơ thuần chất
Việt Nam, tác giả xử lý thật nhuần nhuyễn, trôi chảy, trau chuốt, không non
ép gượng gạo, vấp váp một chỗ nào. Trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ...
đem lại một màu sắc hiện đại cho thể thơ lục bát của dân tộc” [14, 93.]. Và
chính Nguyễn Duy, khi trả lời phỏng vấn trên báo Đại đoàn kết đã bộc
bạch: “Những bài thơ lục bát là phần quý giá nhất của mình” [12, 14]. Lê
Quang Trang khẳng định “Anh vốn là người sở trường về sử dụng thơ lục
bát” [81, 200]. Nguyễn Quang Sáng cũng cùng ý kiến đó khi cho rằng:


5

“Nguyễn Duy vốn có ưu thế và trội hẳn lên trong thể thơ lục bát” [72, 91].
Nguyễn Thụy Kha lại đi sâu hơn, khi cho rằng Nguyễn Duy là người “thiện
nghệ trong cái trò 6 & 8”. Ông viết: “Sẵn cái chất hóm hỉnh, dân dã, sâu sắc
hơi chua cay chút chút, Duy quả là thiện nghệ trong cái trò“ 6 & 8” này”
[62, 204]. Năm 1986, Lại Nguyên Ân còn tỏ ra dè dặt, khi cho rằng: “Ngay
cả những bài lục bát, ta cũng thấy có cái gì bên trong như muốn cãi lại vẻ
êm nhẹ mượt mà vốn có của câu hát ru truyền thống” [2, 11]. Hơn mười
năm sau, năm 1999, Vũ Văn Sỹ đã mạnh mẽ khẳng định: “Nguyễn Duy đã
sử dụng lục bát để thuần hoá chất liệu cập nhật của đời sống. Lục bát trong
tay Nguyễn Duy trở nên vừa êm ái vừa ngang ngạnh, vừa quen thuộc vừa
biến hoá, “cựa quậy”. Làm thơ lục bát đến như Nguyễn Duy có thể xếp

vào bậc tài tình” [77, 74]. Có thể thấy, mỗi tác giả đánh giá thơ lục bát của
Nguyễn Duy ở một khía cạnh khác nhau. Nhưng nhìn chung các ý kiến
đều thống nhất khi cho rằng thơ lục bát Nguyễn Duy thực sự có vị trí cao
trong các sáng tác theo thể lục bát trong thơ ca đương đại.
Một trong những phương diện làm nên gương mặt Nguyễn Duy trong
thơ đương đại là nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Đây cũng là khía cạnh còn có
nhiều khác biệt trong cách nhìn nhận đánh giá của các nhà nghiên cứu phê
bình. Theo Nguyễn Quang Sáng: “Thơ Nguyễn Duy đượm tính dân tộc và
nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân gian” [72, 96]. Từ một phương diện khác,
Phạm Thu Yến lại cho rằng thơ Nguyễn Duy có sự kết hợp giữa “ngôn
ngữ đời thường” và ngôn ngữ “đậm màu sắc hiện đại” [88, 79]. Còn với
Vương Trí Nhàn lại nhận xét, thơ Nguyễn Duy là “bản hợp xướng của
những chữ lạ” [70, 283]. Trong khi đó, Hồ Văn Hải thì khẳng định: “Sáng
tạo từ láy là điểm nổi bật nhất trong lục bát Nguyễn Duy” [81, 6]. Bên
cạnh đó, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã bước đầu quan tâm đến giọng điệu
thơ Nguyễn Duy. Bình bài Tre Việt Nam , GS.Lê Trí Viễn cho rằng: “Giọng


6

điệu bài thơ là kể chuyện như kể chuyện cổ tích” [58, 289]. Năm 1986,
trong bài viết “Tìm giọng mới thích hợp với người thời mình”, Lại Nguyên
Ân tập trung tìm hiểu sự cách tân giọng điệu trong thơ Nguyễn Duy. Ông
viết: “Thật ra thơ Nguyễn Duy nhìn chung vẫn nằm trong điệu trữ tình...
Thơ Nguyễn Duy gần đây thường có thêm sắc giọng thủng thẳng, hơi
ngang ngạnh và ương bướng” [2, 11]. Với Lại Nguyên Ân, giọng điệu đó
làm cho thơ tình “bớt đi cái tha thiết héo ruột héo gan vốn thường có ở
những khí chất yếu, những tâm trạng u sầu lối cũ” “tăng thêm cái khoẻ
khoắn mạnh mẽ vốn là đặc điểm của con người thời nay” [2, 11]. Ngô
Thị Kim Cúc khi đọc tập thơ Bụi của Nguyễn Duy đã nhận xét: “Từ bài

đầu đến bài cuối hầu hết vẫn giống nhau ở một cách viết, vẫn cái giọng cà
tửng cà khịa khiến người ta lúc đầu bật cười rồi sau đó thấm thêm một tí lại
trào nước mắt” [13, 5]. Phạm Thu Yến thì cho rằng, khuynh hướng hài
hước, trào lộng là một trong những biểu hiện của thi pháp ca dao và đã
làm Nguyễn Duy đôi khi “quá đà”, khiến người đọc phải “ái ngại” [88, 7682].
Trong số các bài phê bình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy, theo
chúng tôi bài viết “Nguyễn Duy - thi sĩ thảo dân” của Chu Văn Sơn in
trong tuyển tập Thơ Nguyễn Duy là một bài viết công phu, cung cấp cho
người đọc một cái nhìn tương đối hệ thống về con đường sáng tác và
những đặc điểm nổi bật của thơ Nguyễn Duy. Theo ông thế giới thơ
Nguyễn Duy là “cõi chúng sinh thì hiện tại”. Ở đó có “binh lửa và bụi
bặm, bùn nước và gió trăng, nghèo đói và tiềm năng, tàn phá và gây dựng,
xơ xác và nhen nhóm, bần bách và phù hoa”; nhân vật là “thập loại chúng
sinh”, là bà, mẹ, cha ,vợ, con... đặc biệt là những con người không may
mắn xuất hiện trong đời sống như “chú bé đi bụi khoèo mái hiên lắng nghe
pháo tết, em điếm ế đón giao thừa gốc cây, bà bới rác nằm co ro gầm


7

cầu...”. Từ đó biện giải “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân”, chỉ ra bản chất
“thảo dân” ấy ở cảm hứng sáng tác, ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ lục bát
của Nguyễn Duy [75,38-53].
Bàn về tính trữ tình - triết lí trong thơ Nguyễn Duy, trong bài viết
“Nguyễn Duy - thi sĩ thảo dân”, Chu văn Sơn đã chỉ cho rằng "có thể thấy
Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân ngay từ trong quan niệm nhân sinh và nghệ
thuật" có lẽ vì vậy mà triết lí trong thơ nguyễn Duy là "cái triết lí thảo dân".
Bản thân Nguyễn Duy cũng khẳng định “Cái lõi của văn chương là triết. Từ
cả những chuyện đùa cợt, tầm phào nhất cũng có thể phả triết học vào, có
thế mới dội lại được với đời” [87, 9]. Gần đây có một số luận văn thạc sĩ,

khóa luận tốt nghiệp đại học bàn về thơ Nguyễn Duy. Chẳng hạn, năm 2008,
trong luận văn tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh,
sinh viên Nguyễn Thị Thu Hiền đã bàn về “Cái tôi nội cảm tìm về cội
nguồn trong thơ trữ tình Nguyễn Duy”. Một năm sau, năm 2009, Mai Thị
Thủy Tiên đã làm luận văn thạc sĩ về đề tài "Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn
Duy". Trong khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp, một luận văn thạc sĩ, các
tác giả chưa có điều kiện khảo sát một cách hệ thống và sâu những phẩm chất
nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy, trong đó có tính trữ tình triết lý.
Điểm lại những bài viết về thơ Nguyễn Duy, có thể thấy, về cơ bản mới
dừng lại ở những cảm nhận ban đầu. Các ý kiến đưa ra, chủ yếu là những
nhận xét đánh giá giới thiệu một phương diện nào đó của thơ Nguyễn Duy.
Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu, khảo sát một cách toàn
diện và có hệ thống phẩm chất nghệ thuật thơ Nguyễn Duy, trong đó tính trữ
tình - triết lí được nhìn nhận là một đặc điểm nổi bật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


8

3.1. Như tên đề tài đã xác định, mục đích của đề tài là khảo sát, nghiên
cứu một cách có hệ thống một phẩm chất nghệ thuật nổi bật trong thơ
Nguyễn Duy là tính trữ tình - triết lí.
3.2. Với mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ:
Thứ nhất, trình bày một cách khái lược hành trình thơ Nguyễn Duy
trên con đường định hình một phong cách.
Thứ hai, chỉ ra được những biểu hiện của tính trữ tình - triết lí trong cái
tôi trữ tình của nhà thơ.
Thứ ba, chỉ ra được sự biểu hiện của tính trữ tình - triết lí trong giọng
điệu thơ Nguyễn Duy
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tính trữ tình - triết lí, một
phẩm chất nghệ thuật thể hiện dấu ấn tài năng, cá tính sáng tạo của Nguyễn
Duy trong thơ.
4.2. Là một phẩm chất nghệ thuật, Tính trữ tình - triết lí thể hiện ở
nhiều phương diện trong thế giới nghệ thuật thơ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
một luận văn Thạc sĩ, chúng tôi giới hạn khảo sát ở hai phương diện cơ bản
là cái tôi trữ tình và giọng điệu thơ.
4.3. Về tư liệu khảo sát, chúng tôi chọn cuốn Nguyễn Duy - thơ, Nhà
xuất bản Hội nhà văn, 2010. Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát thêm các bài
thơ không có trong tuyển tập Nguyễn Duy - thơ in trong các tập, như: Cát
trắng (1973); Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Đãi cát tìm vàng (1987),
Đường xa (1989), Về (1994), Thơ Nguyễn Duy Sáu và Tám (1994), Vợ ơi
(1995), Bụi (1997).
5. Phương pháp nghiên cứu


9

Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi lựa chọn một số
phương pháp nghiên cứu như: khảo sát, thống kê, phân loại; cấu trúc,
hệ thống; phân tích, tổng hợp; so sánh đối chiếu.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài mở đầu, kết luận, luận văn gồm ba chương
Chương 1: Con đường thơ Nguyễn Duy
Chương 2: Cái tôi trữ tình - triết lí trong thơ nguyễn Duy
Chương 3: Giọng điệu trữ tình - triết lí trong thơ Nguyễn Duy
Và cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo


10


Chương 1
CON ĐƯỜNG THƠ NGUYỄN DUY
1.1. Vài nét về cuộc đời và con người Nguyễn Duy
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, thị
xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965,
ông từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu
Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những
năm chiến tranh Việt nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường
dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường
đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới
phía Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện của báo này tại phía Nam.
Ngày nhỏ, ông được bà ngoại đọc cho nghe rất nhiều hò vè, ca dao, truyện cổ
tích. Đó có thể là một trong những nguyên nhân làm nên thành công ở thể thơ
lục bát sau này.
Cuộc đời Nguyễn Duy nhiều thăng trầm, vất vả. Từ những ngày ấu thơ
cho đến khi trở thành người lính đi qua chiến tranh, trở về với cuộc sống đời
thường, Nguyễn Duy chưa có mấy thời gian được an nhàn, thư thả. Một ngày
buồn, ngồi lục lại trong đống đồ cũ những thúng mủng, nong nia, xoong chậu
và ông chụp ảnh rồi đề thơ lên. Ý tưởng bất chợt ấy, mang lại cho ông thành
công, mà trước hết là về tiền bạc. Một công ty làm lịch đã mua và ông có tiền
trả nợ. Suốt hàng chục năm trời ông bươn chải làm đủ thứ như nuôi lợn, đạp
xích lô, nấu rượu, viết thuê…Nguyễn Duy từng mở quán bán tiết canh vịt ở
Gia Lâm (Hà Nội) mà như ông tự trào là “quán máu”. Khách vào ra tấp nập
vì món tiết canh do chính tay ông đánh ngon. Có người nói quá lên, bảo tiết
canh Nguyễn Duy đánh dùng sợi lạt xiên qua rồi xách đi như xách miếng thịt


11


lợn mà không rơi. Quán ngày càng đông, nhất là thi hữu. Về sau, do nhiều lý
do ông đã từ bỏ nó mà lòng vẫn còn vương vấn. Nguyễn Duy đã một thời phụ
trách tuần báo Văn nghệ ở phía Nam.
Ông là người đi nhiều, ham hiểu biết. Ở đâu ông cũng có bạn bè, trong
đó có những người đã say thơ ông đến độ khó dứt ra được. Ông đã sang Mỹ
đọc thơ, giới thiệu thơ lục bát cùng nhà thơ Ý Nhi. Gần đây, Nguyễn Duy đã
làm chuyến du khảo văn hoá xuyên Việt bằng ôtô trong gần một tháng cùng
với một vài người bạn. Chuyến đi này, theo ông, nhằm mục đích tiếp xúc,
khảo sát, tìm hiểu về văn hóa, ẩm thực, lễ hội khắp ba miền đất nước. Với
ông, đó là chuyến đi đầy ý nghĩa, vất vả mà lắm niềm vui. Qua những chuyến
đi như vậy, ông tự làm đầy thêm vốn văn hoá, vốn sống của mình. Ông đã
đến nhiều trường Đại học, đọc thơ, giao lưu với sinh viên. Ở đó ông luôn thể
hiện một sự gần gũi, chân tình và rất tự nhiên. Nhờ đó, Nguyễn Duy luôn
nhận được những tình cảm mến mộ mà các bạn trẻ dành cho ông.
Nhà thơ Nguyễn Duy từng trải qua tuổi thơ lam lũ vất vả ở miền quê
xứ Thanh Hóa nghèo nàn mà sâu nặng nghĩa tình. Sớm phải chịu cảnh mồ
côi, thiếu tình mẹ nhưng bù lại cậu bé Nguyễn Duy được sống trong tình yêu
thương và sự chăm sóc chu đáo của bà ngoại. Tấm lòng nhân hậu, mộc mạc
của bà đã nuôi lớn tâm hồn nhà thơ. Sự gắn bó với đất nước và nhân dân
trong những năm tháng chiến tranh gian khó đã nuôi dưỡng và hun đúc lên
trong Nguyễn Duy một hồn thơ cương trực và mạnh mẽ, nặng trĩu suy tư mà
thắm thiết nghĩa tình. Về con người, có rất nhiều người, nhất là bạn văn, cho
rằng Nguyễn Duy là nhà thơ lãng du nhất trong số các nhà thơ đương đại
Việt Nam. Ông rong chơi ở nhiều nước trên thế giới như Nga, Trung Quốc,
Pháp, Mỹ và nhiều nước ở Tây Âu. Mỗi chuyến đi đều cho ông những kinh
nghiệm mới, ý thức mới cho việc sáng tác và quảng bá thơ ca Việt Nam với
bè bạn quốc tế. Từ đó, ông lại cần mẫn làm việc là xuất bản thơ cổ điển Việt


12


Nam bằng tiếng Anh. Nguyễn Duy cũng luôn thể hiện mình là một người
rong chơi trong cảm hứng sáng tạo. Vì thế thơ ông chất chứa nỗi niềm, đầy
cảm xúc với những gì bình dị, không đao to búa lớn. Ông làm những gì mình
thích và chúng đều có ý nghĩa đối với nhiều người. Dù đã có tuổi nhưng
Nguyễn Duy ham đi, thích khám phá, thích tìm hiểu. Hằng ngày, ông vẫn
ngụp lặn trong không gian văn hóa Việt, để hiểu thêm cội nguồn, hiểu mình
và hiểu đời. Ông cũng thường xuyên đi nói chuyện thơ, đọc thơ, làm sách và
có những chuyến đi rong chơi, lãng du với bạn bè. Nhiều người bảo ông có
tuổi mà vẫn nay đây, mai đó. Với ông, tuổi tác không thể giới hạn được sức
đi, sức làm việc của ông, vì đó là phong cách Nguyễn Duy.
1.2. Các chặng đường thơ Nguyễn Duy
Do sự tác động của hoàn cảnh lịch sử và sự vận động trong ý thức của
nhà thơ, về cơ bản, cho đến nay có thể chia con đường thơ Nguyễn Duy làm
3 giai đoạn: trước 1975, từ 1975 đến 1986 và từ 1986 đến nay. Vẫn là một
phong cách Nguyễn Duy xuyên suốt song không khó để nhận ra những dấu
hiệu riêng của thơ Nguyễn Duy ở những giai đoạn đó, từ cảm hứng sáng
tạo, thể loại, ngôn ngữ và giọng điệu.
1.2.1. Trước 1975
Nguyễn Duy có thơ đăng báo từ những năm 1957, khi ông vừa tròn 9
tuổi. Nhưng phải mười lăm năm sau (1972) với chùm thơ 4 bài (Tre Việt
Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước mắt và nụ cười, Bầu trời vuông) thơ Nguyễn
Duy mới thực sự được đông đảo bạn đọc biết đến. Hoài Thanh là người phát
hiện ra tài thơ của Nguyễn Duy. Ông đã trao đổi từng câu, từng chữ thật cẩn
trọng với Nguyễn Duy, trước khi đưa thơ in báo. Thời gian đi lính, Nguyễn
Duy viết nhiều thơ lục bát. Bài thơ lục bát đầu tiên của thời kỳ này được
Nguyễn Duy sáng tác trong hai năm, bắt đầu từ năm 1969. Đó là bài Tre Việt
Nam. Bài Tre Việt Nam cùng với Bầu trời vuông, Hơi ấm ổ rơm đã mang lại



13

cho Nguyễn Duy giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1973. Và cũng
trong năm này, tập thơ đầu tay của ông ra đời, tập Cát trắng. Ở giai đoạn này
thơ Nguyễn Duy tập trung chủ yếu vào đề tài chiến tranh, mà cụ thể là hình
ảnh quê hương, đất nước và con người trong cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ xâm lược. Ông đã cố gắng chắt lọc đưa hơi thở cuộc sống sôi động của
chiến trường vào trong thơ, khắc họa chân dung con người Việt Nam trong
khói lửa chiến tranh. Trong hoàn cảnh đối mặt với cái chết, hơn bao giờ hết,
mỗi bài thơ của Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh...
thực sự “được bảo đảm bằng máu” [67, 417], thể hiện “một sự dấn thân hết
mình” [71, 45]. Sau này, khi viết về Thế hệ những nhà thơ Cách mạng,
Thanh Thảo đã tâm sự: “Chiến tranh là một trải nghiệm khốc liệt mà chắc
chắn không ai muốn, nhưng rồi khi phải đối đầu với nó, phải ngập chìm
trong nó, người ta có thể coi những bài thơ rất bình thường viết được trong
chiến tranh như những bát cơm đã nuôi mình khi đói, như hớp nước cuối
cùng trong bi dông mà mình đã xẻ chia cùng đồng đội, lại như một ân sủng
mà mình tình cờ nhận” [4, 4]. Tuy nhiên cũng như những nhà thơ cùng thế
hệ, trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, thơ Nguyễn Duy giai đoạn
này có những hạn chế nhất định, đó là sự “bề bộn, ngồn ngộn chất liệu của
hiện thực”, “có khi vì thế mà nó ôm đồm, tham lam, thậm chí còn sống
sượng, còn bê nguyên xi sự kiện nguyên mẫu vào trong thơ như quặng chưa
kinh qua lò luyện ở nhiệt độ cao” [55, 104]. Điều đó có thể lý giải, nhìn
nhận từ nhiều góc độ, trong đó sự thiếu hụt về kinh nghiệm được xem là một
trong những lý do cơ bản.
1.2.2. Từ 1975 -1986
Sau chiến thắng 1975, Nguyễn Duy vẫn say sưa và tiếp tục con
đường thơ của mình. Tiếng thơ của ông ngày càng đậm đà, định hình một
phong cách, một giọng điệu, hấp dẫn đối với người đọc. Tập thơ nổi bật của



14

Nguyễn Duy thời kỳ này là Ánh trăng (1984). Tập thơ được coi là một bước
tiến trong thơ Nguyễn Duy, tập thơ đã được tặng giải A của Hội nhà văn Việt
Nam 1984 (cùng tập thơ Hoa trên đá của Chế Lan Viên). Ở đó vừa là sự nối
dài mạch cảm hứng của thời kỳ chiến tranh vừa thể hiện những cảm hứng
thời hậu chiến. Đối mặt với sự ngổn ngang, bề bộn, phức tạp của cuộc
sống đời thường thơ Nguyễn Duy đằm hơn chất suy tư của người từng trải.
Ông viết về đời thường với những thứ chẳng nên thơ chút nào:
Lương tháng thoảng qua một chút hương trời
đồng nhuận bút hiếm hoi gió lọt vào nhà trống
vợ chồng ngủ với nhau đắn đo như vụng trộm
không có cái sợ nào bằng cái sợ sinh con
(Bán vàng )
Trong tùy bút Nỗi nhớ thời khó thở, nhà thơ đã phần nào cắt nghĩa
cho những câu thơ đó của mình. Theo ông, cái thời hậu chiến gian khổ,
kéo dài hơn một thập kỷ sau 1975 là thời của “... bạt ngàn lính giải ngũ,
trở lại xóm làng xơ xác sau chiến tranh. Triệt để hợp tác hóa ở nông thôn.
Đánh tư sản, triệt nhà giàu ở thành thị. Kẻ vào trại học tập cải tạo, không
bản án, không thời hạn. Người ra biển vượt biên không hẹn ngày về, phó
mặc sinh mạng cho sóng gió và ma quỉ. Đất nước liền một dải mà lắm nhà
lại lâm cảnh ly tán. Mà cõi lòng lại đau nỗi cắt chia mới. Lương thực viện
trợ của nước ngoài như hồi chiến tranh không còn nữa. Nạn đói hoành
hành khắp nước. Đột ngột lính Pol Pot tràn sang, thảm sát dã man dân
lành suốt một dải biên giới Tây Nam. Lại đột ngột súng nổ, lại chết người,
lại cháy nhà, suốt toàn tuyến biên giới phía Bắc... Nền kinh tế quốc gia “tuột
dốc theo chiều rơi thẳng đứng” (Tố Hữu). Lại thiếu gạo. Lại đứt bữa. Lại
thấy người ăn mày đầy đường. Lại ăn độn cả sắn, ngô, khoai, bo bo, mì
sợi, mì bột, mì hột...” [28]. Trong hoàn cảnh đó, nhiều nhà thơ “hoặc là ngại



15

nói thực hoặc là vẫn triền miên theo quán tính tư duy thời trước đó”, nghĩa
là “im lặng” hoặc “ngợi ca” [79, 360]. Có thể thấy cả sự ngợi ca lẫn im
lặng của các nhà thơ lúc này đều thật tàn nhẫn, đều thể hiện “sự không làm
tròn nhiệm vụ chính trị” [79,360] của mình Nguyễn Duy không thuộc loại
nhà thơ “ngợi ca” hay “im lặng”. Ông không tiếp tục sống trong hào quang
của chiến thắng vì ông quan niệm “tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng”,
nhưng ông cũng không thu mình vào cuộc sống gia đình, lãnh đạm với thế
sự bởi điều ông sợ nhất là “lòng trống trải dửng dừng dưng” (Từng trải).
Ngược lại, với ông, người cầm bút không thể “nhỏ giọt dòng thơ không dễ
dãi” mà phải“đêm đêm thao thức như cây chổi quét đường” (Mười năm
bấm đốt ngón tay). Ngòi bút của ông tựa như cây chổi, ông đã “quét” ra
ánh sáng những sự thật đau lòng của xã hội ta lúc bấy giờ:“Con rầy nâu
khoét rỗng cả mùa màng/ thóc bỏ mục ngoài mưa thiếu xăng dầu /vận
chuyển phà Cần Thơ lê lết người ăn xin”( Đánh thức tiềm lực). Nguyễn Duy
lại tiếp tục mong thơ mình là tiếng hát, nhưng không phải “hát để mọi người
cùng nhớ / về dáng hình bé nhỏ của anh lính thổi kèn”, cũng không phải
“hát bài hát của cây”,“bài hát của trời”, “bài hát của sông” như trong
những năm tháng kháng chiến ác liệt và hào hùng trước đây mà là tiếng hát
vừa có “tiếng trong sáng của nắng và gió”, vừa có “tiếng chát chúa của
máy và búa/ tiếng dẻo dai của đòn gánh nghiến trên vai / tiếng trần trụi
của lưỡi cuốc” để “Đánh thức tiềm lực”.
Nhìn lại những sáng tác thời kì này, Nguyễn Duy tự thấy câu chữ còn
“nôm na”, ngôn ngữ thơ “chưa được”. Duy có cái theo ông là được, đó là
“tâm tình thật trong tôi” (28). Có thể thấy tiếng hát của ông lúc này không
chỉ là tiếng hát của một công dân, một nhà thơ ý thức sâu sắc về trách
nhiệm nghĩa vụ của mình đối với đất nước mà còn là tiếng lòng của một

con người có ý chí, có bản lĩnh hơn người, vượt lên mọi hoàn cảnh khắc


16

nghiệt, để kiên trì bền bỉ với nghiệp thơ mà mình đã lựa chọn. Thế nên,
giọng điệu chân thành của nhà thơ đã khiến những bài thơ chưa đạt về kỹ
thuật, chưa chuẩn về hình thức, vẫn còn là những “dòng chữ nặng nề và
chậm chạp” như lời tự nhận xét của tác giả đi thẳng vào nơi sâu nhất trong
tâm hồn người đọc.
1.2.3. Sau những năm 1986
Sau năm 1986, với phương châm: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật” của Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
tạo nên sự chuyển động mới cho văn học. Theo Phong Lê, đó là lúc “Văn
học có dấu hiệu chuyển lên một đường ray mới, có lúc ngập ngừng rụt rè,
có lúc bạo dạn sấn sổ, dẫu thế nào mặc lòng, nó không còn chấp nhận sự
bình ổn, bình yên kiểu cũ” [65, 344]. Trong điều kiện mới ấy, thơ Nguyễn
Duy lại càng là “cây chổi” không mệt mỏi. Ông đã liên tiếp cho ra đời 8 tập
thơ: Mẹ và em, Đãi cát tìm vàng, Đường xa, Quà tặng, Về, Sáu và tám, Vợ
ơi và Bụi. Vẫn là đề tài hướng về nguồn cội quê hương đất nước và con
người Việt Nam, tuy nhiên cách thể hiện trong thơ của ông giai đoạn này có
sự khác biệt. Trước hết đó là nhận thức về nỗi đau có thực với những mất
mát về con người, về tinh thần, càng ngày thấm sâu:
Mấy đời xương trắng hóa vôi
tro tàn âm ỉ mấy thời chiến tranh"
(Đường xa)
Đó là những cảm nhận về trạng thái xã hội hiện tại với những khiếm
khuyết băng hoại về môi trường và nhân cách, chứa đầy những thông tin
nhức nhối về xã hội về số phận những con người, những cuộc đời. Trong
mỗi dòng thơ đều hằn lên nỗi khắc khoải, khi tác giả nhìn thẳng vào h i ệ n

t h ự c đất nước. Ông đã viết được những điều cần nói bằng cả máu và
nước mắt của mình trên giấy. “Gan ruột rũ ra hết ở đầy, tài năng, trí tuệ,


17

nhân cách rũ ra hết ở đấy.” Dường như ông viết để chứng minh cho một
điều “Nhà văn phải luôn là đại diện của thần thánh để sống với cuộc đời
này” [87]. Nguyễn Duy đã viết nhiều những “câu thơ tuẫn tiết” như vậy
ngay trong thời buổi “tờ giấy mỏng manh che chở làm sao được/ mỗi câu
thơ chống đỡ mấy mạng người” (Bán vàng). Đúng là ông đã lấy sinh mạng
chính trị của bản thân và gia đình để bảo đảm cho thơ. Có lẽ vì thế mà Đỗ
Ngọc Yên đã đánh giá rất cao Nguyễn Duy khi viết: “Nguyễn Duy là
người đốt mình sống cho thơ. Thơ anh mới từ sự tìm tòi cần mẫn trong cát
bụi cuộc đời và được chưng cất lên thành những viên ngọc tinh tú.” [59]
Xứ xở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái-ma cô-ma tà-ma mãnh
Hay:

Xứ xở thông minh sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương"
(Nhìn từ xa tổ quốc)

Thơ Nguyễn Duy giai đoạn này còn dành một mảng viết về những tình
cảm riêng tư. Đó là tình yêu dành cho những người thân trong gia đình, như:
bà, mẹ, vợ, con... Ông đã dành hẳn một tập thơ viết về vợ với nhan đề Vợ ơi.
Ở đó người đọc bắt gặp một tình yêu chân thành và sâu lắng:
Nghìn tay nghìn việc không tên
mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng
(Vợ ốm)

Bên cạnh nhu cầu hạnh phúc đời thường, tình yêu trần thế, sự thức
tỉnh nhu cầu cá nhân, thơ Nguyễn Duy thời kỳ này còn thể hiện những trải
nghiệm về niềm hạnh phúc khổ đau, sự hữu hạn và vô hạn của con người
trong cuộc sống. Cái tôi trữ tình của nhà thơ đã thể hiện phần vô thức của sự
sống, phía tâm linh của cõi người, nghiền ngẫm khắc khoải về sự hiện hữu hư
vô của kiếp nhân sinh.


18

Có thể thấy mỗi chặng đường thơ của mình, Nguyễn Duy không bộc
lộ khuynh hướng theo đuổi những vấn đề mang tính chất nghề nghiệp thuần
túy, như đào sâu, trau dồi việc thực hiện ngôn ngữ, không mê mải với những
cách tân siêu thực, tượng trưng, hay hậu hiện đại… Ông chọn cho thơ mình
một lối đi riêng, bám sát hiện thực đời thường, bám sát thời cuộc, với những
vấn đề tâm lý nóng bỏng của toàn xã hội cũng như những day dứt và trưởng
thành của mỗi cá nhân. Đó cũng là quá trình trưởng thành về nhận thức, sự
rộng mở, bao dung của tâm hồn nhà thơ, trước những biển dâu, những bất
trắc khôn lường và cả đổ vỡ đau đớn của đời sống. Cho đến nay sau 30 năm
làm thơ, viết văn, Nguyễn Duy đã có 20 tập thơ, 3 tập bút ký và 1 tiểu thuyết.
Đó là một gia tài không nhỏ.
1.3. Những cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Duy
Hành trình sáng tác thơ ca của Nguyễn Duy đã đi cùng cuộc kháng
chiến chống Mỹ bảo vệ Tổ quốc vô cùng ác liệt, đau thương mà hào hùng,
vĩ đại cùng với thời hậu chiến đầy nhọc nhằn, gian khổ. Đó là những
mảng hiện thực đời sống đầy ắp chất liệu quý giá, tạo nguồn cảm hứng
sáng tạo dâng trào cho các nhà thơ trong đó có Nguyễn Duy. Về cơ bản,
thơ Nguyễn Duy tập trung thể hiện một số cảm hứng chủ đạo, như: cảm
hứng về nhân dân đất nước, cảm hứng về thế sự, cảm hứng về đời tư và
cảm hứng về tình yêu.

1.3.1. Cảm hứng về nhân dân, tổ quốc
Khi thơ Nguyễn Duy được “trình làng” thì cũng là lúc cuộc đấu tranh
giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ xâm lược đang tiến dần đến điểm kết
thúc. Cả nước sục sôi khí thế tiến công. Các nhà thơ trẻ, đặc biệt là những
nhà thơ - người lính “đều là những cây bút đã chạm khắc được rõ nét chân
dung tinh thần của mình” [77, 107]. Vì vậy ta rất hay gặp những hình ảnh về
nhân dân đất nước trong thơ thời chống Mỹ. Đó là không khí cả nước lên


19

đường trong thơ Chính Hữu “ Những ngày vui sao cả nước lên đường....
Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu” (Đường ra mặt trận), là cuộc chia ly
của những người ra trận trong thơ Nguyễn Đình Thi: "Ngày mai hai đứa đã
hai nơi/ Hai đầu đất nước trong giông bão/ Cùng chung chiếu đấu hai
phương trời"... Trong cảm hứng bao trùm ấy của thời đại, Nguyễn Duy chọn
cho mình một lối riêng. Ông viết về nhân dân đất nước qua hình ảnh người
lính trong “sục sôi bom lửa” ở chiến trường với những tâm tư nhẹ nhàng,
thư thái, yên tĩnh trở về với “bầu trời vuông”:
Khoái nào bằng phút ngả lưng
Mở trang thư dưới cánh rừng đong đưa
Trời tròn có lúc rơi mưa
Trời vuông vuông suốt bốn mùa nắng xanh
(Bầu trời vuông)
Trên bước đường hành quân, họ vui với thiên nhiên, xem thiên nhiên
như người bạn đường thân thiết. Một tiếng chim rừng cũng làm cho anh
chiến sĩ lưu luyến:
Đường hành quân còn xa
Bao nhiêu là gian khó
Chim bay cùng ta đó

Ơi tiếng chim bạn bè
( Tiếng chim bạn bè )
Sau sự gầm rú của bom đạn, người lính vẫn tìm thấy sự bình thản,
tự tin của giây phút thanh bình: “Vừa tim nghỉm tiếng bom rung/ Đã nghe
nhỏng nhảnh chim rừng tán nhau” (Tiếng chim sau trận B52). Người lính
hiện lên trong thơ Nguyễn Duy với sự nhẹ nhàng, kín đáo, tinh tế, có tình
nghĩa mặn nồng và sự chỉn chu lo toan của người mẹ:
Mắc võng ngủ nhờ rừng cây cao su


20

Quấn thêm cỏ vào dây cho cây không trớt vỏ.
Giấc ngủ đến nhòe rừng, vẫn nhớ
Giữ nguyên lành dòng nhựa trắng cho cây.
( Ngủ trong rừng cao su)
Viết về chiến tranh, nhưng thơ Nguyễn Duy không hề miêu tả cảnh
trận mạc với những chết chóc đau thương. Chỉ có hình ảnh con người vượt
lên mọi hoàn cảnh, giúp ta hiểu thêm cuộc đời và tâm sự của người lính. Bên
cạnh những tình cảm dành cho những người lính - những đồng chí, đồng đội
vào sinh ra tử với nhau, tâm hồn thơ Nguyễn Duy còn dành một mảng lớn
yêu thương để ghi tạc những cảm xúc thiêng liêng của tình quân dân một
thời lửa đạn. N gay từ những năm 1968 - 1970, khi còn là một cậu lính trẻ,
tư tưởng trọng dân dường như đã có sẵn trong căn cốt của ông: “Một đời
không thể nào quên/ Lòng dân - chiếc mộc vững bền che ta”, để sau này đúc
kết thành triết lý nhân sinh: “Ta là dân – vậy thì ta tồn tại”. Nguyễn Duy
không chỉ ca ngợi vẻ đẹp diệu kì, sức sống mãnh liệt của nhân dân, mà còn
có những cảm nhận sâu sắc về họ. Trong thế giới cảm xúc của mình,
Nguyễn Duy luôn hướng trái tim mình về nơi ấm áp tình thương yêu của
những bà mẹ Việt Nam dành cho chiến sĩ. Những người mẹ anh hùng đã

hiến dâng cho Tổ quốc tất cả những gì thiêng liêng nhất của mình. Cho
đi mà không đòi hỏi được đáp đền, những bà mẹ Việt Nam là những vòng
tay yêu thương rộng mở, sẵn sàng ôm vào lòng mình mọi bất trắc, gian nguy
để dành nguyên vẹn sự bình yên và hạnh phúc cho đàn con. Trong cuộc
đời chiến sĩ của mình, Nguyễn Duy đã được đón nhận những vòng tay yêu
thương ấy biết bao lần. Đó là hình ảnh người mẹ đón anh chiến sĩ trong gió
đêm với tấm lòng rộng mở:
Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm:


21

- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm”
( Hơi ấm ổ rơm )
Trong cảm thức sáng tạo của Nguyễn Duy khi viết về con người và
thiên nhiên, chúng ta ít thấy những vẻ đẹp hoành tráng, thay vào đó là
những vẻ đẹp đơn sơ giản dị, nhưng qua đó đã toát lên tinh thần yêu nước,
sự lạc quan, lòng bao dung, vị tha... những nét đẹp truyền thống của con
người Việt Nam.
Cảm hứng về nhân dân, đất nước trong thơ Nguyễn Duy thời kì này
còn thể hiện ở những đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. So với
những nhà thơ cùng thời ở phương diện này, thơ Nguyễn Duy có sự khác
biệt đáng kể. Thường thì những bài thơ viết về đau thương mất mát bắt đầu
từ những tổn thất, nhưng kết thúc lại vút cao niềm tin chiến thắng. Thơ
Nguyễn Duy không theo môtip quen thuộc đó. Với ông, sau những mất
mát đau thương lại là nỗi ám ảnh về thân phận con người trong chiến tranh.
Bài thơ Người đang yêu là một ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này. Sau khi

viết về “cơn sốt rừng già”, về nỗi niềm tiếc nuối của người lính trẻ trước một
tình yêu chưa kịp nói thành lời và cái chết đột ngột của anh, bài thơ khép lại
bằng câu thơ: “đung đưa cánh võng không người/ treo trong không khí một
lời dở dang” (Người đang yêu). Còn đây là đoạn kết của bài thơ viết về
những cô gái Trường Sơn:
Vài ba năm, bốn năm năm
em tôi bảy tám mùa xuân rừng già
sốt nhiều mai mái nước da
cái thời con gái đi qua cánh rừng
(Người con gái)


22

Trong những ngày xảy ra chiến tranh biên giới phía Tây Nam và
phía Bắc, Nguyễn Duy lại tiếp tục đến với chiến hào. Thơ ông những năm
tháng này bên cạnh việc khẳng định ý chí quyết tâm giữ vững từng tấc đất
biên cương của Tổ quốc đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với những gian
khổ, hy sinh của người lính:
...Hiếm hoi cái giấc yên lành
hành quân xa lại tiếp hành quân xa
bao anh lính trẻ đã già
chưa sang hết suối chưa qua hết rừng
Ngủ hầm, ngủ võng, ngủ bưng
gối đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm
có người ngủ thế thành quen
đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình
(Lời ru đồng đội)
Ngay trong hoàn cảnh chiến tranh, khi khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn thường hướng ngòi bút của các nhà thơ đến sự ngợi ca quê

hương kiên cường bất khuất, thì cảm hứng để Nguyễn Duy sáng tác cũng từ
sự vất vả lam lũ của người dân quê mình:
Nơi ấy
Nhá nhem giữa quên và nhớ
Đỉnh núi hiện lên bóng bà và mẹ
Mây chiều hôm gánh gạo đưa ta
Tất tưởi đường xa cầu vồng ráng đỏ
( Xó bếp )
Không phải Nguyễn Duy không nhìn thấy sức mạnh của dân tộc ẩn
sau những nghèo nàn cơ cực, những vất vả nhọc nhằn. Nhưng Nguyễn Duy
khác với các nhà thơ cùng thời ở chỗ, phần lắng sâu nhất của hồn quê


23

trong ông không phải là cảnh sắc thiên nhiên hay bản sắc văn hóa cổ
truyền mà là phần nhọc nhằn nhất, lam lũ nhất. Và một nỗi ám ảnh lớn
trong tâm hồn nhà thơ là những trận lũ. Ở Trường Sơn khi quê nhà đang
mùa mưa lũ, nhà thơ như hình dung rõ mồn một trước mắt mình cảnh:
Lúa chìm xuống cỏ dềnh lên
rác bùn vạch ngấn ngang nhiên trên tường
bèo đi ngang ngửa giữa đường
lụt ăn theo bão lẽ thường xưa nay
(Lời ru trong bão)
Như vậy, có thể thấy cảm hứng về đất nước, nhân dân trong thơ
Nguyễn Duy không thiên về ngợi ca, khái quát tầm vóc đất nước, dân tộc
mà nghiêng về phía đời thường, phản ánh những vẻ đẹp đơn sơ bình dị của
cuộc sống và con người Việt Nam trong kháng chiến và những cảm xúc
lắng sâu về thân phận nhỏ bé của con người. Điều đó đã làm nên nét
riêng độc đáo của Nguyễn Duy đưa ông lên vị trí là một trong những nhà

thơ mở đầu cho khuynh hướng phi sử thi của thơ Việt Nam sau 1975.
1.3.2. Cảm hứng thế sự
Thơ là kết quả của sự “nhập tâm” đời sống, trí tuệ, tài năng của nhân
dân, nhập tâm được bao nhiêu là nhờ ở cuộc đời của mình gắn bó với nhân
dân mình. Nhập tâm từ tâm hồn tình cảm, đến dáng đi, giọng nói, tiếng
khóc, tiếng cười. Nhập tâm đến mức độ nào đó thì thơ ấy thành hình. Tố
Hữu nói: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy” [55, 3637]. Nguyễn Duy cũng ý thức sâu sắc vấn đề này. Vì vậy, cảm hứng để
Nguyễn Duy sáng tác khi đất nước bước vào thời bình, nhất là từ những
năm 1980 trở đi bắt nguồn từ chính những cảnh đời thật, rất bình thường và
cụ thể. Đó là sự đói nghèo, bất công, gian xảo, sự lập lờ, nhập nhoạng giữa
cái giả và cái thật, cái dở- cái hay, cái tốt- cái xấu:


24

Lời nói thật thà có thể bị buộc tội
Lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương
Đạo đức giả có thể thành dịch tả
Lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường
( Đánh thức tiềm lực)
Trong bài thơ, ông nhắc lại nhiều lần điều mà một số người không
muốn nghe: “Ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/ Tiềm lực còn ngủ yên” hay
nỗi nhức nhối trước cảnh:
Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày...
...Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu ?
...Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
...Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
( Nhìn từ xa...Tổ quốc )

Nhà thơ thể hiện niềm trăn trở của mình trước thực tế cuộc sống, khi
mà những cái xấu xa, đói nghèo vẫn còn đang tồn tại. Ông không ngần ngại,
thẳng thắn và mạnh mẽ chỉ ra nguyên nhân của tình trạng đó: “Tiềm lực còn
ngủ yên/ trong quả tim mắc bệnh đập cầm chừng/ ...trong bộ óc mang khối u
tự mãn/...trong lớp da biếng lười cảm giác”(Đánh thức tiềm lực). Ông vui
niềm vui chung, buồn nỗi buồn chung nên không thể chấp nhận sự bàng
quan trước thực tế: “Tôi vốn sợ những gì nguội lạnh/ Nào biết em có nghĩ
giống tôi không”(Gửi lại Long Hưng). Vốn hay quan sát và suy ngẫm, ông
đã mang hơi thở của thành phố vào thơ của mình, một thành phố với nhiều
góc khuất tăm tối, một thành phố dường như đang cố che dấu những điều
đau lòng bên trong mình bằng những hào nhoáng, tưng bừng giả tạo:
Cả thành phố như nổ tiếng pháo rền vang xa


25

có một lão bị gậy
khóc khàn trên sân ga.
Cả thành phố như cháy lập lòe ánh hỏa châu
có một bà bới rác nằm co ro gầm cầu.
Cả thành phố như khói khét lẹt mịt mờ mây
có một em điếm ế
đón giao thừa gốc cây...
( Pháo tết )
Nếu là người bình thường, trong thời khắc giao thoa năm cũ và năm
mới, chắc chỉ thấy được “cả trần gian tí tởn/ đón xuân sang tưng bừng”,
chứ làm sao thấy được những nỗi xót xa, tủi nhục ấy hoặc có thấy cũng
chỉ biết vậy, chứ không đủ kiên nhẫn để “làm thơ rưng rưng” như Nguyễn
Duy. Từ đó ông mạnh dạn đánh thức phần trách nhiệm của mỗi con người
đối với cuộc sống: “Năng động lên nào/ Từ mỗi tế bào từ mỗi giác quan”

(Đánh thức tiềm lực). Quê hương đất nước là một trong những nguồn cảm
hứng chủ đạo của thơ ca. Điều này, như một lẽ hiển nhiên. Bởi ai sinh ra mà
chẳng có một miền quê, ai lớn lên mà chẳng gắn bó với một dòng sông, ngọn
núi, luỹ tre, rặng dừa... Song chắt lọc được cái hồn quê, tạo được một không
khí quê hương từ những cảnh vật bình dị để nó trở thành thơ và đi vào lòng
người thì quả là điều không dễ. Thơ Nguyễn Duy đã dành nhiều trang để
viết về quê hương, về những người thân, về những vùng đất mà ông đã
từng đi qua, những miền quê đầu tiên ông có dịp đặt chân tới. Nhưng khi
viết về làng quê, thơ ông không mang tính thi vị hóa như thơ của các nhà
Thơ mới. Với Nguyễn Duy ông, bà, cha, mẹ mình:“Bà và mẹ hóa cánh cò
cánh vạc/ Ông và cha man mác kiếp trâu cày” (Về đồng). Sự hòa quyện
giữa quê hương và gia đình ấy đã đem đến cho Nguyễn Duy cái nhìn của
người trong cuộc. Ông viết về những vất vả nhọc nhằn của quê hương mình,


×