Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Tính chất dân tộc của truyền kì mạn lục (nguyễn dữ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.07 KB, 59 trang )

Trờng Đại học Vinh
Khoa ngữ văn
---------------------Lời cảm ơn

Luận văn đợc hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hớng
dẫn cùng với các thầy cô trong tổ Văn học trung đại và các thầy cô trong
khoa Ngữ văn trờng Đại học Vinh. Tác giả xin gửi đến thầy cô lời cảm ơn
chân thành và sự biết ơn sâu sắc.

Tính dân tộc của truyền kỳ mạn
lục (nguyễn
dữ)
Vinh, tháng 5 năm 2006

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: văn học Việt Nam trung đại

Cán bộ hớng dẫn: TS. Phạm Tuấn Vũ
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Lan
Lớp:
42e4 - ngữ văn

Vinh 2006
1


mở đầu
I - Lý do chọn đề tài
1. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đợc đánh giá là một "thiên cổ
kỳ bút" (tác phẩm tuyệt bút ngàn năm), là "áng văn hay của một bậc đại
gia". Tác phẩm gồm 20 truyện viết theo lối tản văn, thỉnh thoảng có xen


những bài thơ ca, từ khúc. Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn chơng chịu
ảnh hởng của truyện kỳ đời Đờng và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh,
tuy vậy, tính dân tộc của tác phẩm rất đậm đà, rất đáng đợc nghiên cứu.
2. Nguyễn Dữ viết tác phẩm này bằng văn xuôi tự sự, bằng chữ Hán
theo thể loại "truyền kỳ" chép về sự lạ của văn học Trung Hoa. Ông đã thực
sự cho ra đời tác phẩm xuất phát từ cái tâm hớng từ cội nguồn dân tộc, từ ớc
mơ khát vọng và niềm tự hào của nhân dân về lịch sử dân tộc mình. Nhận ra
vai trò quan trọng của phạm trù thẩm mĩ này chúng tôi muốn đợc đi sâu tìm
hiểu về vấn đề tính dân tộc của tác phẩm để có thêm cơ sở khẳng định giá
trị của tác phẩm, thấy đợc sáng tạo của Nguyễn Dữ khi tiếp thu thể loại văn
học Trung Quốc và chất liệu của văn học dân gian Việt Nam.
II. Lịch sử vấn đề
Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam do Đinh Gia Khánh (chủ
biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chơng đã khẳng định: "Truyền kỳ mạn lục tuy
có vẻ là những "truyện kỳ lạ" xảy ra hàng nghìn năm về trớc nhng thực chất
lại phản ánh đợc những phần sâu sắc của hiện thực đơng thời"(1). Rõ ràng
các tác giả đã qua tâm đến vấn đề phẩm chất dân tộc qua nội dung hiện
thực mà tác phẩm phản ánh. Cũng trong cuốn sách nêu trên các tác giả còn
khẳng định: "Đằng sau thái độ có phầm dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự
hào về tác phẩm của mình, tác phẩm qua đó ông bộc lộ tâm t, thể hiện hoài
bão, tác phẩm mà qua đó, ông phát biểu đợc nhận thức, bày tỏ những quan
điểm về những vấn đề lớn của xã hội, của con ngời trong khi chế độ phong
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chơng - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa
đầu thế kỷ XVIII - NXB GD, H, 1998, tr.506.
1(1)

2


kiến đang suy thoái"(1). Các nhà nghiên cứu cũng đã rất tinh tờng khi đa ra

kết luận: "từ Truyền kỳ mạn lục toát lên tinh thần dân tộc không phải ngẫu
nhiên Nguyễn Dữ lại phóng tác cốt truyện gần gũi với đất nớc Việt. Trong
các truyện của Truyền kỳ mạn lục hầu hết các nhân vật chính đều là ngời nớc ta, hầu hết các sự tích đều diễn ra ở nớc ta. Thời gian xảy ra các truyện là
đời Lý, đời Trần, đời Hồ, hoặc đời Lê Sơ. Không gian các truyện là từ Nghệ
An trở ra. Nh vậy, dù viết bằng chữ Hán, Truyền kỳ mạn lục vẫn có tính dân
tộc"(2). Đặc biệt qua những trang viết đầy trân trọng đối với Nguyễn Dữ khi
viết về tác phẩm này Đinh Gia Khánh cùng các cộng sự của mình đã nêu
lên một điều rất quan trọng rằng tác phẩm Truyền kỳ mạn lục lột tả đợc cái
tự hào về đất nớc "địa linh nhân kiệt", đất nớc "ngàn năm văn vật". Những
đánh giá trên của các tác giả thực sự là gợi ý cần thiết cho luận văn này.
Cùng quan điểm với tác giả trong giáo trình đã nêu ở trên, trong công
trình Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc Việt Nam thông qua Kim ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ
mạn lục tác giả Toàn Huệ Khanh đã có một số kết luận về vấn đề phẩm chất
dân tộc trong Truyền kỳ mạn lục rất bổ ích. Tác giả thông qua sự đối sánh
với các truyện của nớc Hàn Quốc và Trung Quốc đã thấy nét riêng của
Truyền kỳ mạn lục về mặt văn hoá "đã phản ánh đựoc cốt truyện cổ dân
gian và đặc điểm văn hoá, bối cảnh, lịch sử và địa lý cụ thể hơn với so với
Kim ngao tân thoại"(3).
Mặt khác, tác giả cũng đã nêu lên điểm khác biệt của Truyền kỳ mạn
lục so với hai tác phẩm kia là "tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ngoài chủ đề
diễm tình kỳ quái, còn thể hiện ý đồ sáng tác của tác giả nh nêu cao lòng
yêu nớc diệt trừ yêu quái, giáo huấn con ngời, nêu cao trinh tiết của ngời
phụ nữ, phê phán hiện thực". Đồng thời Toàn Huệ Khanh cũng thấy đợc nét
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chơng - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa
đầu thế kỷ XVIII - NXB GD, H, 1998, tr.508.
2(2)
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chơng, sđd, tr.509.
3(3)
Toàn Huệ Khanh - Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam,
NXB ĐHQG HN, 2004, tr.284.

1(1)

3


riêng về mặt tác giả Nguyễn Dữ của Truyền kỳ mạn lục so với tác giả Kim
Thời Tập, Cù Hựu, rằng ông "đã trích dẫn đợc nhiều điển tích điển cố mang
tính lịch sử nên đã tỏ ra là ngời có tri thức uyên bác về lịch sử Trung Quốc
và Việt Nam đồng thời Nguyễn Dữ đã xây dựng cốt truyện trên cơ sở truyện
cổ dân gian Việt Nam nên tính sáng tạo cao". Mặc dù là tác giả nớc ngoài
nhng khi nghiên cứu về văn chơng Việt Nam nhất là trong sự đối sánh với
văn học nớc mình và Trung Quốc nhà nghiên cứu đã rất khách quan và đa
ra đợc những ý kiến chính xác về nội dung và nghệ thuật tác phẩm, nhất là
làm nổi bật nét riêng mang bản sắc Việt Nam so với hai tác phẩm cùng thể
loại. Đây thực sự là những gợi ý rất quan trọng cho tác giả luận văn này.
Ngoài ra còn nhiều chuyên luận chuyên khảo và các bài viết nghiên
cứu khác về tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, xuất hiện từ
những năm 60, 70 thế kỷ trớc và xuất hiện trong những năm gần đây ở nớc
ta. Đáng chú ý nhất là bài viết của tác giả Nguyễn Phạm Hùng với tiêu đề
Tìm hiểu khuynh hớng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ:
"xác định phẩm chất dân tộc trong Truyền kỳ mạn lục qua việc tác phẩm đã
phản ánh đối kháng dân tộc hay địa danh quen thuộc đất nớc ta là rất cần
thiết. Nhng cha phải là tất cả"(1). Đó là ý kiến rất đáng chú ý. Theo ông quan
trọng của tác giả này khi xem xét vấn đề tính dân tộc là hớng về "những con
ngời bé nhỏ, khổ đau nhng phẩm chất vô vàn cao quý". Từ đó "chúng ta
nhận thức hình ảnh dân tộc những con ngời đó. Đặc biệt là những ngời phụ
nữ". Tác giả bài viết nhận thức hiện thực trong tác phẩm "là mâu thuẫn gay
gắt giữa dân tộc, mà phẩm chất, tinh thần của nó đợc thể hiện chủ yếu qua
số phận những ngời phụ nữ, và phần nào ở ngời trí thức tiến bộ, đối với mọi
thế lực phản động, tàn bạo của phong kiến trong bớc đầu khủng hoảng".

Quan điểm của Nguyễn Phạm Hùng có vai trò định hớng cho chúng tôi đi
sâu nghiên cứu phẩm chất dân tộc của tác phẩm trên từng vấn đề cụ thể
chẳng hạn vấn đề ngời phụ nữ...
Nguyễn Phạm Hùng - Tìm hiểu khuynh hớng sáng tác của Truyền mạn lục Tạp chí Văn học số 2
1987, tr 113.
1(1)

4


Trong bài nghiên cứu của Bùi Văn Nguyên - Về yếu tố văn học dân
gian trong Truyền kỳ mạn lục(1) tác giả khẳng định sự tiếp thu nền văn học
dân gian trong sáng tác Nguyễn Dữ. Ông cho rằng Nguyễn Dữ đã tiếp thu
và sáng tạo có chọn lọc những yếu tố hoang đờng thần kỳ trong truyện dân
gian vào tác phẩm của mình. Thần, tiên , quỷ, ma quái... Xuất hiện trong tác
phẩm của Nguyễn Dữ vừa tỏ ra rất gần gũi với hình ảnh dân gian tởng tợng,
nhng lại rất khác biệt bởi bàn tay nhào nặn của ngời nghệ sĩ này. Tuy nhiên
sáng tạo của Nguyễn Dữ đã thực sự vơn tới đỉnh cao về phản ánh hiện thực,
phản ánh con ngời trần thế, với tất cả khổ đau, sung sớng, lo sợ và hy vọng.
Trong Từ điển văn học Bùi Duy Tân chú ý nhiều về phơng diện xã
hội học trong Truyền kỳ mạn lục. Bùi Duy Tân cho rằng "Truyện tuy có vẻ
là những chuyện cũ nhng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI" (2). Bài
viết của tác giả nhấn mạnh về con ngời trong chế độ phong kiến rạn nứt thế
kỷ XVI và qua đó giúp chúng tôi hiểu đợc thời đại và con ngời Nguyễn Dữ.
Đây là gợi ý quý báu để chúng tôi làm đề tài này. Còn Phan Huy Chú khi
bàn về Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm) so sánh: "lời văn hoa lệ nhng
khí cách yếu ớt không bằng văn Nguyễn Dữ". K.I GolyGhinr trong bài Cù
Hựu và Truyền kỳ mạn lục nhận xét: "Nguyễn Dữ bao giờ cũng chuyển đổi
câu chuyện sang không gian địa lý Việt Nam với tên ngời Việt Nam".
Trong tạp chí Văn học số 3/1987 khi bàn về mối quan hệ giữa Tiễn đăng

tân thoại và Truyền kỳ mạn lục Phạm Tú Châu đã nêu lên bản sắc riêng của
Nguyễn Dữ khi chỉ ra Truyền kỳ mạn lục là một áng văn chơng đợc "sự tiếp
thu có chọn lọc, có cân nhắc trớc Tiễn đăng tân thoại "(1).
Nh vậy, điểm qua một số công trình nghiên cứu về tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ở nớc ta từ trớc đến nay, chúng tôi nhận thấy,
các tác giả đều cho rằng tác phẩm này tính dân tộc rất sâu sắc và dù ít dù
Bùi Văn Nguyên- Về yếu tố văn học dân gian trong Truyền kỳ mạn lục-Tạp chí Văn học số 11-1968,
tr.63.
2(2)
Bùi Duy Tân-Từ điển văn học- NXB Giáo dục, H, 1998, tr.113.
1(1)
Phạm Tú Châu - Mỗi quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục - Tạp chí Văn học số 3,
1987, tr 110 .
1(1)

5


nhiều đã chỉ ra những biểu hiện của nó. Tuy vậy, vì cha đợc tiến hành chu
đáo và toàn diện lại mới chỉ đứng nhìn trên một góc độ nhỏ lẻ nên vẫn còn
nhiều điều cha đợc sáng rõ, có chỗ cha đợc nhất quán cần đợc bàn luận
thêm. Dẫu vậy, những đóng góp của các tác giả trong và ngoài nớc có ý
nghĩa rất to lớn, là tiền đề định hớng để chúng tôi có điều kiện đi sâu tìm
hiểu tính dân tộc trong tác phẩm.
III. Mục đích yêu cầu của việc giải quyết đề tài
1. Trên cơ sở tiếp thu các thành tựu đã có, chúng tôi đi sâu xem xét
tính dân tộc thông qua nội dung đợc phản ánh và hình thức thể hiện tác
phẩm. Cụ thể là luận văn chỉ ra tính chất dân tộc qua nội dung hiện thực
phản ánh trong tác phẩm và qua hình tợng ngời phụ nữ, hình tợng ngời trí
thức.

2. Đặt tác phẩm vào trong thời điểm lịch sử của nó để thấy đợc màu
sắc Việt Nam của tác phẩm qua việc sử dụng chất liệu văn học dân gian
Việt Nam.
IV. Phơng pháp nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích, đối tợng nghiên cứu, chúng tôi vận dung phơng
pháp thống kê, phân tích, khái quát và đặc biệt là sẽ chú trọng phơng pháp
so sánh.

6


Nội dung chính
Chơng I
Hiện thực Việt Nam thế kỷ XVI trong truyền kỳ mạn lục

1. Những đặc điểm của phản ánh hiện thực ở thể loại truyện truyền
kỳ và sáng tạo của Nguyễn Dữ

Một đặc điểm của văn học trung đại Việt Nam là tiếp thu sáng tạo thể
loại văn học Trung Quốc. Cùng chung dòng chảy ấy thể loại truyền kỳ đã
vào Việt Nam, đợc các tác giả Việt Nam khoác cho chiếc áo mới, chắp cho
tinh thần mới. Vì vậy, các tác phẩm truyền kỳ đã mang màu sắc của dân tộc
Việt và đến nay vẫn không lỗi thời. Tiêu biểu cho thành công ở thể loại này
phải kể đến Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, tác phẩm đợc xem là bớc
ngoặt trong lịch sử văn học nớc nhà. Truyện truyền kỳ Trung Quốc xuất
hiện ở đời Đờng, Tống, đánh dấu sự chín muồi của tự sự nghệ thuật. Hai
chữ "truyền kỳ" bao hàm mấy ý nghĩa sau. Một là có ý chuộng lạ (hiếu kỳ),
kể việc khác thờng, kế thừa truyền thống chí quái từ đời Nguỵ, Tấn. Hai là
truyện của truyền kỳ chứa đựng nhiều thể, qua tác phẩm có thể nhận thấy
tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị luận của tác giả. Điều này đã đợc tác giả

Trần Đình Sử trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
khẳng định: Tài nghị luận nh "Thái sử công viết" "Quân tử viết" thì cũng
trong thể loại sử mà ra song không phải là u điểm, nhng tài kể chuyện sử
kết hợp với ngòi bút thi nhân thì đúng là đặc sắc của truyện truyền kỳ" (1).
Chẳng hạn, khi sáng tác "Truyện Lệ Nơng" Nguyễn Dữ đã có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa tài văn và tài thơ. Qua sự phối hợp hài hoà ấy đã vẽ lên
bức chân dung dân tộc lúc bấy giờ rất "đau thơng" và hỗn loạn. Triều đình
xảy ra các vụ mu sát lẫn nhau, giặc giã bên ngoài thừa cơ đánh phá. Lệ Nơng chính là nạn nhân của cuộc sống loạn lạc ấy. Tâm sự của nàng đợc bày
tỏ qua những vần thơ đầy cảm động:
1(1)

Trần Đình Sử- Mấy vấn đề thi pháp văn học Việt Nam trung đại-NXB Giáo dục, H, 1999, tr.349.

7


Trời có âm dơng đạo trời mới đủ,
Ngời có chồng vợ đạo ngời mới thành
Đôi ta vì đâu?
Lỡ làng đến vậy!
Câu hỏi nh vang vọng lời oán trách toàn cõi nhân gian còn d âm mãi
đến hậu thế. Cả Lệ Nơng và Lý Sinh đều là những con ngời rất trọng tình
trọng nghĩa. Đặc biệt là bị chia lìa cách trở nhng luôn luôn tìm cách để đợc
đoàn tụ, luôn khao khát đợc tái hợp dù chỉ là trong giấc mơ. Tình yêu đã
dẫn đờng chỉ lối cho Lý Sinh đến với khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Thái Tổ
phát động. Nh vậy tình yêu chính nghĩa đã giúp cho con ngời có lý tởng
chính nghĩa, lý tởng vì nhân sinh.
Bố cục truyện truyền kỳ thờng là mở đầu giới thiệu nhân vật, tên họ,
quê quán, tính tình phẩm hạnh. Kế đó là kể các chuyện kỳ ngộ lạ lùng, tức
là phần trung tâm của truyện. Ngời kể thờng nhân danh tác giả mà kể. Đây

cũng là đặc điểm của truyện truyền kỳ, trong truyện Truyền kỳ mạn lục ngời kể thờng là các nho sĩ ẩn dật đó là những ngời phát ngôn cho quan điểm
t tởng của Nguyễn Dữ.
Về phong cách, truyện truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả
cảnh, tả ngời thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân vật biểu lộ cảm xúc thì thờng làm thơ. Lời kể uyển chuyển, lời văn hoa mĩ, truyện chí quái chủ yếu là
ghi chép (chí) xếp theo điều mục, còn truyện truyền kỳ thì học theo bút
pháp sử truyện. Do đó nhan đề thờng có chữ "truyện". Cái gọi là "truyền
kỳ" chủ yếu là truyền cái kỳ trong tình yêu nam nữ và cái kỳ trong thế giới
thần linh ma quỷ, các mô - típ nh ngời lấy tiên, lấy ma, ngời biến hoá.
Truyện truyền kỳ Việt Nam nh Thánh Tông di thảo của Lê Thánh
Tông, Truyền kỳ tân phả (Đoàn thị Điểm) và đặc biệt là Truyền kỳ mạn lục
đánh dấu sự chín muồi của nghệ thuật tự sự Việt Nam. Cách đặt tên "truyền
kỳ" chứng tỏ các tác giả đã học theo truyền thống truyền kỳ của Trung
Quốc. Tuy nhiên về thể thức gần với hình thức của truyền kỳ của Tiễn đăng
8


tân thoại của Cù Hựu (cuối Nguyên đầu Minh), số lợng thi ca thù tạc rất
nhiều, đây là điểm khác so với truyền kỳ đời Đờng. Khác với các tập truyện
thần linh, ma quái... nhân vật chủ yếu là nhân vật lịch sử, nhân vật trong các
truyện truyền kỳ, nhất là Truyền kỳ mạn lục đều là những con ngời đều rất
đỗi bình thờng. Một ngời con quan, một gã đi buôn háo sắc, một học trò trọ
học đa tình, một thanh niên khẳng khái đốt đền, một ông quan bỏ quan đi
chu du sơn thuỷ, một tiều phu ẩn dật, một kẻ hay thơ đa tình, một ngời vợ
thuỷ chung, một ngời phụ nữ đẹp... Các nhân vật quan, tớng, thần ma đều
thể hiện khía cạnh con ngời đời thờng, đời t nh Hạng Vơng, Dơng Thiên
Tích. Các nhân vật là kẻ chịu nhiều oan trái trắc trở nh Vũ Nơng, Lệ Nơng,
Dơng Thị... Một đặc sắc nữa là nội dung truyện hoàn toàn là ngời và việc ở
Việt Nam. Tính chất h cấu, biểu tợng rất rõ, đợc Lê Quí Đôn gọi là "ngụ
ngôn" (Kiến văn tiểu lục). Đây là truyện có cốt truyện hoàn chỉnh nh những
tác phẩm nghệ thuật, có thắt nút, phát triển, mở nút.

Nếu ta đem so sánh với "truyện sử" là truyện kể lại lịch sử của nhân
vật và thờng kể hết đời, kể đến cả hậu thân con cháu ngời ấy là gì, quan
chức đến đâu, nhng không có cốt truyện thì truyện truyền kỳ lại có cốt
truyện riêng, không yêu cầu nhất thiết phải kể hết một đời nhân vật. Nhiều
truyện đóng khung trong một giấc mơ, một cuộc kỳ ngộ, một cuộc trò
chuyện. Trong tác phẩm mô - típ đối thoại biện bác đợc sử dụng rất nhiều.
Bên cạnh truyện có hậu, nhiều truyện kết thúc không có hậu, không nh ngời
ta vẫn tởng nh Truyện Từ Thức, Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Truyện ngời con
gái Nam Xơng... Cái gọi là "có hậu" ở vài truyện trong số này chỉ là d ba.
Truyện cây gạo, Truyện nghiệp oan của Đào Thị cũng kết thúc bi kịch, bi
kịch của số phận. Truyện cái chùa hoang ở Đông Triều lại có ý nghĩa hài hớc giống nh truyện Hai Phật cãi nhau trong Thánh Tông di thảo. Nh vậy
tính chất thẩm mĩ cũng đa dạng. Lời bình trong Truyền kỳ mạn lục hẳn là
của tác giả Nguyễn Dữ. Sự hiện diện của tác giả trong truyện là biện pháp
để tăng sức thuyết phục và tính chân thực của truyện truyền kỳ.
9


Đem so Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu
sống khoảng của Nguyên đầu Minh thì thấy rõ sự vay mợn và sáng tạo của
Nguyễn Dữ. Hình thức của Truyền kỳ mạn lục chia làm 4 quyển, mỗi quyển
5 truyện, các truyện lấy tên là "lục", "ký", "truyện" đều giống nh Tiễn đăng
tân thoại. Tuy nhiên, ở đây chủ yếu là vay mợn mô - típ rồi biến đổi đi, cấp
cho nội dung và ý nghĩa mới, Việt Nam hoá câu chuyện. Chẳng hạn Cù
Hựu có Truyện Thiên thai phỏng ấn lục kể chuyện Từ dật ngời Triết Giang
vào núi thiện thai hái thuốc, lạc vào ngời Tống ở ẩn, thì trong Na sơn tiều
đối lục (Truyện đối đáp của ngời tiều phu núi Na) kể chuyện Hồ Hán Thơng vào núi Na gặp ngời tiều phu vừa đi vừa hát, sai quan hầu trơng đi theo
thì lạc vào một xứ u tịch nơi ẩn c của lão tiều. Lão tiều tuy nói không biết
triều nào vua nào nhng lại biết rất rõ các việc nhà Hồ làm và chỉ trích gay
gắt, từ chối cộng tác. Các truyện khác nh Mẫu đơn ký ngời và ma yêu nhau,
làm việc đồi bại sau phải mời Thanh quan đạo dẫn binh tớng đi bắt hai ngời

về trị tội đã ảnh hởng tới cốt Truyện cây gạo (Mộc miên thụ truyện). Cuộc
nói chuyện ở Kim Hoa (Kim Hoa thi thoại ký) mô phỏng Truyện Giám Hồ
dạ phiếm ký của Cù Hựu, nhng lại lồng ngời và việc Việt Nam vào truyện.
Thuý Thuý truyện và Tam sơn phúc địa chí có gợi ý cho Tuý Tiêu truyện.
Cốt truyện Từ Thức lấy vợ tiên một phần hấp thụ Đào Hoa Nguyên ký của
Đàm Tiềm, một phần hấp thụ từ "Lu Thần Nguyễn Triêu nhập Thiên Thai"
trong "U minh lục" tác giả Lu Nghĩa Khánh. Tuy vậy, Nguyễn Dữ chỉ tiếp
thu từ gợi ý về khung cốt truyện hoặc một vài mô - típ, còn thì do ông vận
dụng vốn sống của mình sáng tạo ra cốt truyện mới. So với các truyện Triều
Tiên và Nhật Bản cùng chịu ảnh hởng Tiễn đăng tân thoại thì Truyền kỳ
mạn lục là tác phẩm sáng tạo đột xuất. Đó cũng điều các nhà nghiên cứu so
sánh của Trung Quốc cũng xác nhận và đánh giá cao.
Chúng tôi nhận thấy, đặc điểm nổi bật nhất của truyện truyền kỳ so
với thể loại khác là dùng cái "kỳ" để phản ánh cái "thực". Điều băn khoăn

10


của các thế hệ đọc giả là liệu cái kỳ xuất hiện có làm mất đi cái chân thực
hay không? Và tác dụng của việc dùng cái "quái lạ" để phản ánh cái "thực"
nh thế nào? Chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu tác phẩm Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ để lý giải những điều đó.
Truyền kỳ mạn lục là một trong những tác phẩm văn học viết mở đầu
cho việc phản ánh những hình thờng thông tục, phản ánh con ngời trần thế
có tính hiện thực cao. Đó là vấn đề đặt ra trong tập truyện khi Nguyễn Dữ
sử dụng hình thức nghệ thuật dùng cái "quái lạ" để nói cái "thực". Sự xuất
hiện của yếu tố kỳ khá thờng xuyên (18/20) truyện. Trớc hết, chúng tôi
khảo sát tác dụng của yếu tố kỳ trong việc phản ánh hiện thực. Thực tiễn
cho thấy, trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, những con ngời sống trong xã
hội bị đàn áp, bị bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần, thờng có ớc mơ duy

nhất là đợc sống một cuộc sống ấm no, hạnh phúc toàn vẹn, mặc dù phải
đấu tranh bền bỉ quyết liệt chống lại những mu mô độc ác. Đó là sự thật
không thể phủ nhận và thực tế này đi vào văn học.
Các nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Dữ vừa có sự đấu tranh quyết
liệt, vừa khao khát vơn tới cuộc sống tơi đẹp hơn (Truyện Lệ Nơng, Truyện
đối tụng ở Long Cung), vậy nên trong sự sáng tạo độc đáo ấy, Nguyễn Dữ
đã dựa vào hệ thống những chi tiết hình ảnh thần kỳ, hoang đờng, thậm chí
táo bạo để thực hiện những ớc mơ và cuộc đấu tranh ấy của mình. Và
những yếu tố hình ảnh, chi tiết ấy đã tạo nên màu sắc lãng mạn của tập
truyện này. Đây chính là vẻ đẹp, sức hấp dẫn và nét tích cực của Truyền kỳ
mạn lục. Yếu tố kỳ này đợc xem là lực lợng phù trợ của con ngời bất hạnh,
của những con ngời luôn khát khao hạnh phúc tình yêu. Mặc dù thế giới
thần kỳ chỉ là thế giới của những ớc mơ, để thoả mãn những ớc vọng sâu xa
và cao đẹp của con ngời. Nguyễn Dữ đã sử dụng cái "kỳ" nh một thủ pháp
để phản ánh cuộc sống. Có nghĩa là, trong Truyền kỳ mạn lục thế giới thần
tồn tại cùng thế giới ngời những cái quái dị xen lẫn những điều bình thờng,
tình tiết thực xen lẫn tình tiết ảo, việc ngời quan hệ với việc thần, tiên ma
11


quỷ... Tất cả đều có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Mặt khác, nếu thiếu
đi yếu tố kỳ diệu, hoang đờng thì tác phẩm sẽ rơi vào tình trang bế tắc và
nh thế thì những khát vọng hạnh phúc lứa đôi, gia đình lý tởng thẩm mĩ cao
đẹp và ý nghĩa tố cáo sẽ không thực hiện đợc. Chúng ta nhận thấy một điều
rằng, kỳ diệu và hiện thực luôn gắn bó chi phối lẫn nhau. Chính yếu tố kỳ là
một cách phản ánh cái thực cho nên dù cho mọi điều có hoang đờng quái
đảm đến đâu cũng không xa rời với thực tế của con ngời. Đó phải chăng
chính là mối quan hệ bền chặt giữa cái kỳ và cái thực, là kiểu đặc trng phản
ánh hiện thực của thể loại truyền kỳ? Tuy nhiên mục đích của tác giả trong
sự thể hiện này là gì? Những yếu tố kỳ lạ ấy xuất hiện đã làm cho ngời đọc

không hề thấy giả tạo. Đây là điểm độc đáo của tác giả Nguyễn Dữ trong
xây dựng mối quan hệ giữa thế giới thực và thế giới siêu hình. Chẳng hạn
trong Truyện ngời con gái Nam Xơng, khi nàng chết đi oan uổng do sự hiểu
nhầm của chồng, mong muốn cuối cùng là đợc minh oan. Phải chăng sự trở
về ấy trong tởng tợng chính là niềm mong mỏi của bao độc giả với nhân vật
Vũ Nơng? Hoặc trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã xây dựng
một thế giới thần kỳ đầy huyền ảo, cho đó là cơ sở cho bao khát vọng tìm
kiếm khôn nguôi lẽ sống, hạnh phúc lý tởng của con ngời. Chính vì thế mà
những hình tợng ở chốn bồng lai tiên cảnh, hay nơi thuỷ cung không còn là
hoang đờng mà là sản phẩm t duy luôn hớng về cái đẹp cái thiện của nhà
văn yêu nớc.
Mong muốn của con ngời, là chuyện của muôn đời nhng giải quyết
vấn đề ấy mỗi thời một khác. Mặc dầu đa ra hai thế giới thực và mộng nhng
tác giả vẫn khẳng định rằng thế giới thực. Truyện ngời con gái Nam Xơng là
cuộc gặp gỡ chia ly giữa một bên là thực một bên là ảo. Dẫu mong muốn
hai thế giới ấy vẫn không thể hoà nhập. Từ đây tác giả đã nêu lên một quan
niệm về cuộc đời rất có ý nghĩa đó là: Số phận và hạnh phúc của con ngời
chỉ có trên trần gian và đợc định đoạt trong cuộc sống trần thế. Thần linh
chỉ là lực lợng chứng giám cho tấm lòng trinh bạch của nhân vật nhng

12


không thể cứu nhân vật thoát khỏi sự toả chiết oan nghiệt của cõi đời,
không thể làm cho nhân vật sống lại. Và hạnh phúc tan vỡ thì không thể
gắn lại. Sự thật vẫn là sự thật dù rằng phũ phàng. Sự đau đớn của nhân vật là
thật, màn kết thúc có hậu là ảo ảnh, Nguyễn Dữ cho nhân vật sống lại thế
giới khác là thế giới của niềm mong ớc chứ không cho nhân vật sống lại
cuộc sống thực. Cách giải quyết vấn đề thực - ảo của Nguyễn Dữ là hoàn
toàn có lý và có sức thuyết phục. Câu chuyện kể trong tác phẩm vừa hấp

dẫn ly kỳ nhng không sa vào ảo tởng nh truyện cổ tích. Rõ ràng Nguyễn Dữ
đã có sự chuyển biến rõ rệt, đổi mới rõ rệt khi nhìn nhận về cuộc đời, về
con ngời. Yếu tố kỳ không làm mất đi sự chân thực của tác phẩm mà nâng
tác phẩm mà còn lên tầm cao mới của tính nhân văn cao cả.
Nh vậy, bằng trí tởng tợng và khả năng sáng tạo Nguyễn Dữ đã tạo
cho tác phẩm của mình một hình thức nghệ thuật vừa mang tính kế thừa, lại
có sự cách tân. Hình thức có hay có mới thì nội dung phản ánh mới chân
thực mới hấp dẫn. Nguyễn Dữ thực sự là một thiên tài đã sáng tạo nên một
áng văn hay bất hủ. Truyền kỳ mạn lục là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay
của một bậc đại gia".
Truyện truyền kỳ là thể loại đặc biệt, sức sống của tác phẩm là nhờ
vào đôi cánh "thần kỳ". Tuy vậy, dầu đôi cánh ấy có bay cao bay xa đến
đâu thì cũng luôn nối liền với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Đó là lý
do vì sao tác phẩm Truyền kỳ mạn lục vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc.
2. Hiện thực Việt Nam thế kỷ XVI đợc phản ánh trong tác phẩm
2.1. Hiện thực trong Truyền kỳ mạn lục
2.1.1. Đời sống xã hội
Từ thế kỷ XVI tình hình xã hội không còn ổn định nh thế kỷ XV.
Khái niệm "dân tộc đau thơng" chính là để chỉ lịch sử dân tộc ta ở thời kỳ
này với đúng nghĩa cụ thể của nó. Đây là thời kỳ mở đầu quá trình khủng
hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam. Nếu nh từ thế kỷ XV trở về trớc
vấn đề cơ bản của lịch sử là khẳng định quốc gia dân tộc, mâu thuẫn cơ bản
13


là mâu thuẫn dân tộc, thì từ thế kỷ XVI mâu thuẫn giai cấp trở thành vấn đề
trung tâm của lịch sử. Vấn đề con ngời nhất là ngời bị áp bức - trở thành
mối quan tâm lớn nhất của xã hội, xung đột gay gắt giữa các lực lợng phong
kiến phản động và lực lợng xã hội tiến bộ, và các tầng lớp bị trị đau khổ là
xung đột cơ bản bao trùm gần bốn thế kỷ.

Sáng tác của Nguyễn Dữ chỉ có thể có đợc dựa trên một cơ sở lịch sử
xã hội nhất định. Đó là giai đoạn khủng hoảng trong dự phát triển của chế
độ phong kiến Việt Nam, bắt đầu sau triều đại Lê Thánh Tông (14601497). Ta có thể tìm thấy ở đó những cơ sở đầy thuyết phục để lý giải cho
sự phát triển của nghệ thuật, nh quan hệ xã hội, sản xuất kinh tế hàng hoá,
nội chiến phong kiến, khởi nghĩa nông dân...; là giai đoạn đẻ ra nền nghệ
thuật mang tính nhân dân, dân chủ, nhân đạo sâu sắc, nền nghệ thuật phản
ánh con ngời đông đảo - bởi vì đây là thời đại của quần chúng nhân dân bắt
đầu hiện diện trên trờng lịch sử. Theo cách nói của Nguyễn Đỗ Cung thì đó
là giai đoạn gian khổ đầy những chiến tranh vật lộn giữa các họ cầm quyền,
giai đoạn rối loạn phong kiến mà các nhà Khổng học không ngừng nhắc
đến một cách ngậm ngùi, chua cay, nhng lại là lúc mở ra những khả năng
làm cho nhân dân ít bị ức hiếp hơn, ít bị chà đạp dã man hơn, mà thậm chí
còn đợc tôn trọng hơn chút ít.Về mặt nói trên văn học viết còn có phần dè
dặt hơn so với loại hình nghệ thuật tạo hình dân gian, cũng nh văn học dân
gian đơng thời.
Thế kỷ XVI với sự vơn lên mạnh mẽ của tầng lớp nông dân giai đoạn
này cùng với sự khủng hoảng của triều đại là điều kiện quan trong cho sáng
tác nghệ thuật chuyển sang một khuynh hớng phản ánh mới. Sự chuyển
biến ấy diễn ra sớm hơn trong sáng tác dân gian nhất là nghệ thuật tạo hình.
Vai trò của yếu tố dân gian, trong Truyền kỳ mạn lục phải chăng
chính là ở chỗ này? Những quyền uy của thần quyền và pháp quyền phong
kiến không còn đủ sức trói buộc ý chí và bàn tay ngời nghệ sĩ dân gian.
Nghệ thuật tạo hình dân gian thực sự vơn tới đỉnh cao của phản ánh hiện

14


thực, phản ánh con ngời cả khổ đau, sung sớng lo sợ và hy vọng. Những
hình ảnh yêu đơng dới con mắt nhà nho bị xem là dung tục tầm thờng thì
trong Truyền kỳ mạn lục lại tỏ ra rất gần gũi với hình ảnh tạo hình dân gian

nh cảnh trai gái tình tự, thiếu nữ tắm khoả thân đùa giỡn, chàng trai đóng
khố quàng tay ngời yêu... những cảnh khổ đau tan nát trong Truyền kỳ mạn
lục cũng rất gần với cảnh đói nghèo, xơ xác nhọc nhằn của ngời lao động
trong điêu khắc dân gian. Những tàn bạo, độc ác của các lực lợng cờng
quyền phong kiến trong sách Nguyễn Dữ "là anh em sinh đôi với tranh tả
quan quân ghẹo gái, hay với văn học dân gian tố cáo bọn cớp đêm là giặc cớp ngày là quan"(1) còn hình ảnh cái đẹp vật chất xác thịt trong truyền kỳ
mạn lục gần với sự miêu tả xác thịt mỡ màng, bắp thịt rắn chắc hay sự cách
điệu hoá các bộ phận sinh thực khí trong điêu khắc dân gian cũng nh câu ca
dân gian rất đợc tán thởng:
Đàn ông đóng khố đuôi lơn
Đàn bà mặc áo hở lờn mới xinh.
Nh vậy giữa sáng tác của Nguyễn Dữ với tác phẩm nghệ thuật tạo hình
dân gian cũng nh các tác giả văn học viết sau này nh Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hơng, Đoàn thị Điểm, Nguyễn Công Trứ... có nét gần gũi không chỉ về t tởng mà cả nguyên tắc chung trong sự miêu tả cuộc sống. Xuất phát từ cơ sở
xã hội nh đã nêu trên, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn học mở đầu một
cách đích thực cho phong cách nghệ thuật phản ánh cái bình thờng, phản
ánh con ngời trần thế, có tính hiện thực. Đây là khung hớng sáng tác văn
học mang tính nhân văn cao cả.
2.1.2. Truyền thống văn học
Nếu từ thế kỷ XV trở về trớc, văn học Việt Nam rất nặng tính chức
năng, vai trò các yếu tố ngoài văn học rất lớn, thì từ thế kỷ XVI trở đi văn
học lại phát triển theo chiều hớng khác. Đó là văn học đang thoát ly dần ra


1(1)

Nguyễn Phạm Hùng - Tìm hiểu khuynh hóng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ - Tạp
chí Văn học số 2 - 1987, tr.115.

15



ngoài những chức năng phi văn học, dần mang những giá trị tự thân của nó.
Ngay nh yếu tố hoang đờng kỳ ảo nh các tác phẩm nh Việt điện u linh,
Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh... của văn học Lý Trần chủ yếu
phục vụ cho nhận thức cuộc sống có tính chất tôn giáo thần linh, tín ngỡng,
lễ tiết, thì trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, yếu tố này chủ yếu
phục vụ cho nhu cầu cuộc sống thực tế của con ngời. Nó chủ yếu là phơng
tiện nghệ thuật chứ không phải là mục đích miêu tả.
Văn học thế kỷ XVI cũng có bộ phận tính chất "cung đình hoá" nhng
chủ yếu là xu hớng "bình dân hoá" đối tợng phản ánh. Trớc thế kỷ XVI là
những cái tao nhã, trang trọng lý tởng còn từ thế kỷ XVI trở đi phần lớn là
cái thông tục bình thờng. Con ngời, từ đây ít ràng buộc vào những t tởng
giáo lý có sẵn. Con ngời trong giai đoạn trớc thờng là bức chân dung nhìn
ngay ngó thẳng, cứng nhắc với "tam tòng tứ đức" con ngời của tinh thần ý
chí giáo điều còn nay bớc vào văn học là con ngời trần thế, với da thịt, với
nhu cầu, hành động ớc muốn chủ quan của nó, con ngời của đời sống thực
tế sinh động và cay nghiệt. Tính hiện thực của tác phẩm toát lên từ sự phản
ánh này và tinh thần dân tộc cũng từ đó toả sáng với bao suy ngẫm. Nh vậy,
có thể nói thời đại văn học mới đã tạo điều kiện cho Nguyễn Dữ tiếp cận
gần gũi hơn với tâm t, đời sống của con ngời trong khi phản ánh hiện thực.
Việc tìm cho mình một phơng pháp sáng tác riêng không theo t duy truyền
thống của t tởng Nho giáo là rất phù hợp với yêu cầu của lịch sử văn học
trong tình hình mới.
2.2. Những vấn đề cơ bản trong nội dung phản ánh hiện thực Việt Nam
thế kỷ XVI trong Truyền kỳ mạn lục
2.2.1. Vấn đề phẩm chất dân tộc trong Truyền kỳ mạn lục
Tính dân tộc của văn nghệ là tổng hoà các đặc điểm độc đáo chung
cho sáng tác của một dân tộc phân biệt với sáng tác của dân tộc khác. Nó
thể hiện những quy luật đặc thù dân tộc trong đời sống tinh thần, nhận thức

đời sống, biểu hiện nghệ thuật và con đờng phát triển của văn nghệ dân tộc.
16


Phẩm chất dân tộc là một nội dung căn bản trong việc phản ánh hiện thực ở
tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ biểu hiện ở nhiều phơng diện.
Trớc hết chúng ta nhận thấy rằng phẩm chất dân tộc của tác phẩm
này biểu hiện ngay trong những tên đất, tên vùng quen thuộc của đất nớc ta.
Có 19/20 truyện đợc nhà văn Nguyễn Dữ phóng tác từ các sự tích trên đất
nớc ta. Không gian từ Nghệ An trở ra Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định,
Hà Nam, ngoại thành Hà Nội, Hải Dơng, Quảng Ninh, Phú Thọ, Hà Tây,
Bắc Giang, Lạng Sơn, Hoà Bình, Bắc Ninh, Thái Bình, tất cả 16 địa danh
này đợc tác giả nhắc rất nhiều và lặp đi lặp lại trong các truyện khác nhau,
với sự việc khác nhau. Các nhân vật chính đều là ngời nớc ta, câu chuyện
xảy ra gắn với thời gian đời Lý, đời Trần, đời Lê Sơ với các vị vua nh: Lê
Thái Tổ, Lý Huệ Tông, Trần Minh Tông, Trần Dụ Tông, Trần Giản Định,
Hồ Hán Thơng... Vì vậy, dầu viết bằng chữ Hán nhng chất dân tộc trong tác
phẩm rất đậm đà.
Tuy nhiên, xác định phẩm chất dân tộc trong Truyền kỳ mạn lục qua
việc tác phẩm đã phản ánh các địa danh, tên tuổi, nhân vật là của nớc ta là
cần thiết, nhng cha phải là tất cả. Điều quan trọng hơn khi tiếp cận vấn đề
này là phẩm chất dân tộc thể hiện qua tính cách dân tộc của các nhân vật,
qua cái nhìn của tác giả, của nhân vật về cuộc đời, số phận con ngời.
Có thể nói thế kỷ XVI là thế kỷ đầy biến động, xã hội vô cùng rối
ren, mâu thuẫn. Đây cũng là giai đoạn mà tinh thần và phẩm chất dân tộc
không đợc biểu hiện ở các đại diện u tú của tầng lớp thống trị nh ở giai
đoạn trớc mà là ở phía những kẻ bị trị, những con ngời bé nhỏ khổ đau nhng
phẩm chất vô cùng cao quí. Chúng ta nhận thức hình ảnh dân tộc qua những
con ngời đó, nhất là những ngời phụ nữ. Nguyễn Dữ với Truyền kỳ mạn lục
đã mở đầu một cách đích thực khuynh hóng văn học nêu cao tinh thần dân

tộc qua việc ca ngợi, khẳng định con ngời - nhất là ngời phụ nữ bình thờng,
bị vùi dập nhng vẫn sáng ngời những phẩm chất cao quí. Tiêu biểu trong
Truyền kỳ mạn lục đó là Đào Hàn Than, Vũ thị Thiết, Tuý Tiêu, Lệ Nơng.

17


Họ là những ngời đau khổ bé nhỏ, trong đau đớn dập vùi vẫn sáng ngời
niềm khát khao cháy bỏng về hạnh phúc tình yêu công bằng, về quyền đợc
sống, đợc hởng thụ và hiến dâng. Nguyễn Dữ là ngời mở đờng cho các nhà
văn thế hệ sau nh Hồ Xuân Hơng, Đoàn thị Điểm, Nguyễn Du... Bằng các
sáng tác của mình họ đã tiếp tục cuộc hành trình phát hiện ngợi ca khẳng
định vẻ đẹp con ngời nhất là ngời phụ nữ. Qua đó các tác giả đã thể hiện
sâu sắc tấm lòng yêu nớc và tinh thần dân tộc của mình.
Trong xã hội mà mâu thuẫn dân tộc đang trở nên gay gắt thì phẩm
chất không chỉ đợc thể hiện ở việc khẳng định ngợi ca những ngời trí thức
tiến bộ, những ngời phụ nữ tiết hạnh thuỷ chung... mà còn thể hiện cụ thể
và sinh động ở thế lực đối kháng bằng sự phủ nhận kịch liệt. Tinh thần phản
phong ấy cũng là một trong những phần nổi trội trong dòng máu Việt yêu
nớc. Trong 20 truyện của Nguyễn Dữ xuất hiện nhiều thế lực áp bức bóc
lột, chẳng hạn Truyện đối tụng ở Long Cung kể về nỗi oan khuất của một
ngời chồng mất vợ do bị cớp đoạt của thần thuồng luồng, khi vợ bị bắt
xuống Long Cung quan thái thú họ Trịnh vô cùng tiếc ngọc thơng hoa bèn
bỏ quan tìm đờng cứu vợ. Phiên toà đợc xét xử dới Long Cung do đức vua
xét xử đã buộc kẻ ác đền tội. Gia đình họ Trịnh đợc đoàn tụ, đó chính là ớc
mơ của ngời dân lơng thiện đợc hởng hạnh phúc lâu dài, kẻ ác sớm muộn bị
trừng phạt. Vẻ đẹp nhân văn, nhân đạo tác phẩm phải chăng là ở tinh thần
trừ ác phục thiện của tinh thần dân tộc, phải chăng là ở nét đẹp bênh vực
nhng ngời lơng thiện? Nguyễn Dữ đã đa vào tác phẩm sự quan tâm đến số
phận con ngời khiến cho tác phẩm dù ly kỳ ảo mộng mà vẫn chan chứa tình

ngời tình đời, vẫn thấm đẫm chất hiện thực đời thờng.
Phẩm chất dân tộc trong Truyền kỳ mạn lục còn biểu hiện trong việc
thể hiện khát vọng giải phóng đồng bào. Quan tâm đến khía cạnh đời t của
nhân vật, nhà văn là ngời hiểu rất thấu đáo tâm hồn của họ. Họ cần gì? Họ
mong muốn đIều gì khi xã hội cứ bóp chẹt, cứ cản ngăn họ đi tìm hạnh
phúc. Vợt qua mọi rào cản của xã hội, bớc qua những định kiến của giai cấp

18


mình, nhà văn đã đề cao nhu cầu giải phóng tình yêu và xem đó nh là một
lẽ sống tự nhiên mà con ngời đợc hởng. Tinh thần ấy thể hiện qua các tác
phẩm: Truyện Lệ Nơng, Truyện nghiệp oan của Đào Thị, Truyện kỳ ngộ ở
Trại Tây... Một vấn đề đặt ra ở đây là nếu văn hoá trớc thế kỷ XVI ngời ta
xét đoán con ngời qua quốc gia dân tộc thì nay lại xét đoán quốc gia dân
tộc qua con ngời. Đó cũng là xu hớng chủ đạo của văn học giai đoạn này.
Nh vậy, phẩm chất dân tộc đã tạo nên tính hiện thực cho tác phẩm.
Mặt khác, tính hiện thực là tiêu chí không thể thiếu đợc để vun đắp cho tinh
thần dân tộc. áng văn chơng đợc xem là kỳ tài ấy, biết kết hợp nhuần
nhuyễn tinh hoa văn học văn hoá nhân loại và tinh thần dân tộc truyền
thống. Đem so tác phẩm với Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu ta thấy rõ nét
kế thừa cách tân của tác phẩm. Đồng thời từ sự so sánh ấy ta sẽ tìm ra điểm
mà chỉ có dân tộc ta mới có nó chỉ là đặc sản của dân tộc Việt Nam mà
thôi. Nguyễn Dữ mặc dù có khi "miêu tả một thế giới hoàn toàn khác lạ"
nhng đã "nhìn nó bằng con mắt của dân tộc mình nhân dân mình, cảm thấy
và phát biểu theo lối mà đồng bào ông đang cảm thấy và phát biểu". Với sự
"thấm nhuần tinh hoa dân tộc" sâu sắc thì theo cách gọi của Gớt trong bài
báo nổi tiếng Chủ nghĩa bình dân trong văn học (1945) Nguyễn Dữ đã đạt
đến trình độ nhà văn cổ điển của dân tộc.
2.2.2. Phản ánh các sự kiện lịch sử của dân tộc

Một tác phẩm mang tính dân tộc, phải là một sáng tác phản ánh chân
thực lịch sử thời đại nhà văn đề cập đến. Nguyễn Dữ là ngời hơn ai hết am
hiểu lịch sử nhân dân mình, vì thế mà nó đi vào tác phẩm của ông hết sức tự
nhiên, sinh động và đầy ý nghĩa. Phản ánh những chi tiết, sự kiện cụ thể của
lịch sử nhà văn đã tái hiện lại bức tranh đời sống với tất cả sự trăn trở, xót
xa, cảm thông chia sẻ, và cả niềm tự hào.
Truyện Lý tớng quân là câu chuyện xảy ra thời vua Giản Định nhà
Hậu Trần. Truyện ghi chép sự kiện của phong trào Cần Vơng, tuy nhiên tác
phẩm không nhằm nêu lên những chiến công mà phản ánh mặt trái của nó.
19


Đó là sự thoái hoá biến chất của một số kẻ có quyền cao chức trọng nhng
lại làm điều phản trắc, ức hiếp dân lành. Tiêu biểu đó là Lý Hữu Chi.
Những kẻ nh vậy theo Nguyễn Dữ tất sẽ có báo ứng. Theo ông làm điều ác
thì "lúc sống khỏi vạ lúc chết bị hình". Bởi vì "lới trời tuy tha mà chẳng
lọt, đạo trời chí công mà vô t". Từ một sự kiện lịch sử rất cụ thể, nhà văn
khái quát một vấn đề rất lớn lao mang triết lý nhân sinh sâu sắc.
Truyện Lệ Nơng là câu chuyện kể về sự kiện lớn của dân tộc. Nạn
Trần Khát Chân chính là bối cảnh trong câu truyện và cũng là nguyên nhân
gây nên nỗi oan cho nàng Lệ Nơng. Tác giả ghi lại rất tỷ mỉ: "niên hiệu
Kiến Tân năm Kỷ mão (1399), đời Trần xảy ra vạ Trần Khát Chân, Lệ Nơng bị bắt vào cung, Phật Sinh rất thất vọng". Phật Sinh và Lệ Nơng mặc dù
cha cới xin nhng ân tình gắn bó. Từ oan trái tình riêng, Phật Sinh đã tìm đờng để hoá giải. Chàng đã tìm đến vua Giản Định xin làm quân Cần Vơng.
Cuối đời nhà Hồ, tớng Minh là Trơng Phụ cho binh vào lấn chiếm Kinh kỳ.
Sinh chắc Hán Thơng bỏ chạy, Lệ Nơng cũng phải đi theo nên càng quyết
tâm đánh giặc để tìm lại Lệ Nơng. Oái oăm thay Lệ Nơng đã chết oan. Nợ
nớc thù nhà, Phật Sinh đã theo Lê Thái Tổ làm khởi nghĩa Lam Sơn. Phật
Sinh "vì mối hờn oán cũ, đem quân ứng mộ, phàm gặp tớng sĩ nhà Minh,
đều chém giết dữ dội cho hả". Nh vậy, qua câu chuyện tác giả không chỉ
xót thơng cho một tình yêu son sắt bị chia lìa, ca ngợi ngời anh hùng trong

khởi nghĩa Lam Sơn mà còn bày tỏ sự oán hờn trớc nạn Trần Khát Chân và
tội ác của giặc Minh. Câu chuyện tởng nh chỉ ở phạm vi cá nhân nhng thực
ra lại phản ánh nhiều vấn đề lớn của dân tộc Việt Nam trong một thời kỳ
lịch sử.
Có thể nói thế kỷ XVI văn học đã có sự chuyển biến rõ rệt. Khái
niệm "văn sử bất phân" cũng cần đợc hiểu một cách đúng đắn và linh hoạt.
Văn chơng giờ đây không còn chỉ là ghi lại các sự tích, sự kiện, mà nhà văn
đã có sự sáng tạo thực sự. Từ các sự kiện lịch sử, nhà văn đã cấp cho nó
những nội dung, hình thức mới mẻ, phản ánh sinh động hơn cuộc sống

20


muôn mặt của đời thờng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò của các sự
kiện lịch sử đã làm cho tác phẩm trở nên gần gũi, tin cậy, chân thực hơn.
Truyền kỳ mạn lục đúng là tác phẩm có một không hai trong lịch sử văn học
dân tộc.
2.2.3.Phản ánh bộ mặt của giai cấp phong kiến thống trị
Hầu hết các nhà nghiên cứu tác phẩm Truyền kỳ mạn lục đều khẳng
định giá trị lớn nhất của tác phẩm là ở chỗ nó mang nội dung phê phán, tố
cáo xã hội mạnh mẽ. Đúng nh nhà nghiên cứu Xô Viết Marian Tkatsow khi
giới thiệu tác phẩm này ở Liên Xô có viết: Nguyễn Dữ "đã suy nghĩ có tính
cách phạm trù về thời đại mình" qua hàng loạt "hình tợng điển hình" của
tầng lớp phong kiến thống trị đơng thời với "một cách đánh giá không thiên
vị và nghiêm khắc".
Nếu nh giai đoạn văn học trớc tôn vinh giai cấp thống trị lên đỉnh cao
thì đến giai đoạn văn học thế kỷ XVI vai trò của tầng lớp này trong văn học
bị suy sụp. Cha bao giờ, trong văn học viết, cho tới lúc đó, vua chúa quan
lại lại đợc thể hiện một cách hèn kém bất tài đến vậy. Hồ Hán Thơng chịu
bất lực trớc ý chí và lý lẽ của một ngời ẩn sĩ (Truyện ngời tiều phu núi Na),

Hồ Quý Ly là ngời từng tranh luận với ngời Trung Hoa, ngời Chiêm, cha hề
chịu khuất lý bao giờ "lại đuối lý trớc ẩn sĩ họ Hồ và Tú tài họ Viện"
(Truyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang)... Quan lại thì độc ác, dâm bạo bất nhân,
nh Trụ Quốc họ Thân, tớng quân họ Lý hoặc qua hình ảnh thần thuồng
luồng trong Truyện đối tụng ở Long Cung...
Trong tác phẩm bên cạnh việc hạ bệ quan lại vua chúa... thì lực lợng
thần quyền cũng chịu phơi bày bộ mặt thật. Những hình ảnh thần linh
hoang tởng trong văn học Lý - Trần cơ bản đợc xem nh là bộ phận của hiện
thực theo quan niệm của ngời đơng thời, là những lực lợng huyền bí phù trợ
cho con ngời và đợc con ngời tiếp nhận một cách thiêng liêng trang trọng
thì nay lại tỏ ra sút kém rất nhiều. Trong nhiều truyện niềm tin vào thần
linh tôn giáo vẫn tỏ ra chi phối mạnh thế giới quan Nguyễn Dữ, nhng trong
21


nhiều truyện khác ta thấy ông có thái độ phê phán rất quyết liệt những "ác
thần". Từ những hình tợng của Nguyễn Dữ khiến chúng ta có thể khẳng
định rằng: Chính Nguyễn Dữ đã nghi ngờ và có thái độ phủ nhận vai trò của
cả thần quyền lẫn pháp quyền phong kiến trong hiện tại. Tác phẩm của ông
thể hiện sâu sắc những mâu thuẫn dữ dội, giữa cái thiện và cái ác mà cái ác
chủ yếu nằm trong lực lợng thống trị.
Những mâu thuẫn ấy đợc Nguyễn Dữ giải quyết nh thế nào trong các
tác phẩm? Bên cạnh việc phê phán gay gắt những lực lợng thống trị tàn bạo,
Nguyễn Dữ nói lên niềm khao khát một xã hội phong kiến tốt đẹp, trong đó
quyền sống của con ngời đợc đảm bảo! Ông chủ trơng bất bạo động mà
thiên về giác ngộ, thức tỉnh cải tạo hiện thực. Trong Truyện đối tụng ở Long
Cung, ông phát biểu qua lời Bạch Long hầu: "Họ dù càn rở, đã có sắc lệnh
triều đình Long Vơng... ai dám... dấy động pháp binh để phạm vào tội lỗi
không thể tha thứ đợc". Ông mong muốn duy trì và củng cố trật tự phong
kiến. Cái ác, theo ông phải bị trừng trị. Cái thiện phải đợc bảo vệ, đề cao.

Nhng bản thân vấn đề ông đặt ra còn mang tính ảo tởng. Đó là nguyên nhân
dẫn đến bi kịch trong nhiều truyện trong Truyền kỳ mạn lục. Cái ác bị trừng
trị, nhng trừng trị nh thế nào là cả một vấn đề. Tên Trụ Quốc họ Thân trong
Truyện nàng Thuý Tiêu cuối cùng bị tội, nhng là vì xa xỉ chứ không phải vì
chính tội ác mà y gây ra. Rõ ràng, Nguyễn Dữ đã có những lúng túng trong
việc giải quyết những vấn đề phức tạp của thời đại. Đó phải chăng là hạn
chế của lịch sử?
Thời đại của Nguyễn Dữ và cả nhận thức chủ quan của ông chỉ cho
phép ông giải quyết vấn đề đến đó. Nhng ông đã có thái độ khác với thầy
học Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong việc đánh giá địa vị các lực lợng phong kiến
thống trị. Hai ông cùng yêu cầu cải cách xã hội hiện tại, duy trì củng cố chế
độ phong kiến nhng ở những vần thơ giáo huấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
toát lên sự tự tin cao độ, còn ở Nguyễn Dữ thì đầy xao động lúng túng và
thậm chí cả bế tắc nữa. Tuy vậy đứng về cả mặt phản ánh hiện thực và giải

22


quyết hiện thực chúng ta không phủ nhận tài năng và t tởng tiến bộ khi tiếp
cận vấn đề của nhà văn Nguyễn Dữ. Ông thật sự là ngời đã giúp chúng ta có
cái nhìn đúng, đánh giá đúng về các giai tầng trong lịch sử dân tộc nớc nhà.
2.2.4. Hình tợng ngời trí thức
Nhân vật chính diện thờng là đại diện cho số phận, tâm hồn của dân
tộc. Trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục loại ngời đợc quan tâm hơn cả là
phụ nữ và trí thức. Đặc biệt ngời trí thức nhiều khi đợc xem là phát ngôn
cho t tởng của tác giả.
Nhân vật ngời trí thức trong tác phẩm hầu hết là các nho sĩ và đạo
nhân. Họ xuất hiện hầu khắp trong các truyện của Truyền kỳ mạn lục. Qua
khảo sát chúng tôi thấy có 12/20 truyện có nhân vật chính diện cũng là
nhân vật trung tâm là nho sĩ và đạo nhân. Sự xuất hiện thờng xuyên ấy của

loại nhân vật này đã phản ánh đặc trng của thời kỳ lịch sử lúc bấy giờ. Các
nhân vật này đều không ham danh lợi, tiếng tăm, không màng vật chất. Họ
không giống những anh hùng ôm ấp lý tởng lu danh sử sách mà rất gần gũi
đời thờng. Những nhân vật này đều mang phẩm chất của nhà nho chính
thống. Lấy giá trị đạo đức làm thớc đo con ngời, khi làm quan những nhà
nho hành đạo luôn đa sức ra để giúp nớc, giúp dân và nhà nho ẩn dật
"không ham triều chính", về ở ẩn nhng luôn theo bớc đi của đất nớc vận
mệnh của đất nớc, đứng ra đấu tranh trừ gian diệt ác, đem lại cuộc sống
bình an cho nhân dân. Đó là những phẩm chất tốt đẹp mà các thế kỷ trớc
nhà văn còn ít miêu tả. Đó cũng là mong muốn của Nguyễn Dữ ớc mơ về
một xã hội "vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn", "vua sáng tôi hiền"
trăm dân hạnh phúc bình an. Đó là vấn đề nhân văn cao cả đặt ra cho thời
đại ông và mai sau nên Truyền kỳ mạn lục xứng đáng là áng văn của muôn
đời. Các nhân vật nho sĩ và đạo nhân:
1. Hồ Tông Thốc (Truyện ở đền Hạng Vơng)

23


2. Dơng Đức Công và Thiên Tích (Truyện gã trà đồng giáng sinh)
3. Ngô Tử Văn (Truyện chức phán s ở đền Tản Viên)
4. Từ Thức (Truyện Từ Thức lấy vợ tiên)
5. Phạm Tử H và Dơng Trạm (Phạm Tử H lên chơi thiên tào)
6. Ngời tiều phu (Truyện đối đáp ngời tiều phu núi Na)
7. Văn Tự Lập (Truyện cái chùa hoang ở Đông Trào)
8. D thuân Chi (Truyện nàng Thuý Tiêu)
9. Phật sinh (Truyện Lệ Nơng)
10.Văn Dĩ Thành (Truyện tớng dạ xoa)
11.Tú tài họ Viên và xứ sĩ họ Hồ (Truyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang)
12. Đạo Nhân (Truyện cây gạo)

2.4.1. Nhân vật là nhà nho hành đạo chính nghĩa, trung nghĩa, phẩm chất
đẹp đẽ của ông quan thanh liêm, chân chính vì dân vì nớc.
Đó là nhân vật Hồ Tông Thốc trong câu Truyện ở đền Hạng Vơng.
Nguyễn Dữ đã miêu tả đảm khí của một sứ thần Đại Việt trên đất nớc ngời.
Hồ Tông Thốc là ngời giỏi thơ, cuối đời Trần vâng mệnh đi sứ giả Phơng
Bắc. Tuy tác giả miêu tả câu chuyện qua một giấc mộng, qua nhân vật Hồ
Tông Thốc bày tỏ nhân nghĩa, tính cách thẳng thắn, cứng cỏi phê phán
chính sách bạo lực đồng thời vạch trần những thủ đoạn xảo trá bất nhân của
Lu Bang. "Sở đã đánh tráo với nhân nghĩa nhng Hán chỉ giống với nhân
nghĩa. Họ Hạng nớc Sở không đợc là hạng bá giả mà vua Cao Tổ nhà Hán
cũng là tạp nhạp". Hồ Tông Thốc đã đứng trên cơng vị một ông quan nhân
nghĩa vạch trần nguyên cớ khiến nhân dân đau khổ lầm than. Câu chuyện
nh bản án vạch tội buộc tội các triều đình phong kiến, dùng quyền thế hà
hiếp làm cho nhân dân điêu đứng. Nguyễn Dữ dùng mộng để tố cáo hiện
thực đơng thời.
Các nhà nho chân chính này, còn luôn luôn lo lắng đến số phận của
nhân dân đói khổ,bị chia lìa hạnh phúc. Trong Truyện cái chùa hoang ở

24


Đông Trào, Văn Tự Lập là ông quan liêm khiết đứng lên chống lại gian tà,
đa lại hạnh phúc cho nhân dân. Thấy cảnh chùa chiền đổ nát ông cùng nhân
dân Đông Trào dựng lại chùa để giữ nền văn hoá dân tộc và bày tỏ tình
nghĩa con ngời với con ngời đi trớc. Đặc biệt ông sống hoà vào nhân dân
tìm ra nguyên nhân gây ra đau khổ, cớp bóc, chia lìa gia đình, cơ cực nhân
dân là do bọn gian tà, bọn đội lốt nhà Phật hoành hành. Ông luôn coi mình
là ngời giữ trọng trách với dân "ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái
minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác vì dân nhu mà hỏng việc
chính là lỗi ở ta". Văn Tự Lập có đồng cảm với nỗi khổ của dân mới luôn

đấu tranh cho hạnh phúc của nhân dân thiết tha đến vậy!
Văn Dĩ Thành trong Truyện tớng Dạ Xoa là ông quan vì dân luôn đặt
chính nghĩa, nhân nghĩa lên trên hết, nên đợc dân tin yêu kính phục. Ông là
con ngời luôn cơng nghị cứng cỏi "tính tình hào hiệp không chịu để ma quỉ
mê hoặc". Ông luôn lấy dân làm gốc, lấy cái tình cái nghĩa cái tín làm đầu
nên việc gì cũng đợc ủng hộ và thành công. Văn Dĩ Thành mang trong
mình phẩm chất đẹp đẽ, cơng trực nghiêm minh nên đợc dân kính phục.
Đây còn là con ngời thuỷ chung trong tình bạn, giúp bạn là Lê Ngộ trong
cảnh bệnh dịch rất nặng. Lời bình của tác giả thể hiện lý tởng đẹp đẽ "khi
đã coi ai là bạn thì sống chết không đổi thay, hoạn nạn cùng cứu gỡ". Tác
giả gửi gắm vào nhân vật này, hoài bão lớn về quan niệm sống giữa con ngời và con ngời phải lấy tình nghĩa làm đầu và lời khuyên ngăn ngời cầm
quyền lấy dân làm gốc, lấy chính trừ tà, lấy "nhân nghĩa" "tín" làm đầu để
điều hành đất nớc. Đây là quan điểm mang tính nhân văn sâu sắc và rất quí
với xã hội đơng thời.
Truyện chức phán đền Tản Viên ca ngợi nhân vật Ngô Tử Văn con
ngời "khẳng khái nóng nảy" trong cuộc đấu tranh chống lại thần quyền đã
rất tự tin, cứng cỏi, ngoan cờng. Ngô Tử Văn hiện lên là con ngời có xơng
có thịt vững tin vào chính nghĩa bằng mọi cách đa lại bình yên cho dân.
Nguyễn Dữ đã khẳng định chính nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác, Ngô

25


×