Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.48 KB, 24 trang )

Triết học
Sự vận dụng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản
xuất của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Giảng viên :

ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

Học viên :
1.
2.
3.
4.
Lớp :

Nguyễn Thị Bích Ngọc
Trần Văn Đoàn
Đỗ Đức Cường
Trần Hải Yến

M12CQCT01 - B


Triết học

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

Triết học
Sự vận dụng quy luật về sự phù


hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản
xuất của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Giảng viên :
Học viên :

Lớp :

M12CQCT01-B

ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân
1.
2.
3.
4.

Nguyễn Thị Bích Ngọc
Trần Văn Đoàn
Đỗ Đức Cường
Trần Hải Yến

M12CQCT01 - B

1


Triết học

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân


I. Lời nói đầu
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong
công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay
phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh
hưởng rất lớn tơí nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có
lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát
triển.
Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để
phát triển một nền kinh tế.
Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém
phát triển so với khu vực và trên thế giới. Vì vậy, việc lựa chọn con
đường tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là hoàn
toàn cần thiết và phù hợp để đưa nền kinh tế nước ta bắt kịp và
phát triển cùng thế giới.
Do thời gian còn hạn hẹp và sự hiểu biết các vấn đề chưa sâu
sắc, chắc chắn bài viết còn có rất nhiều thiếu sót. Bởi vậy chúng
em mong được sự chỉ bảo, phê phán của cô để có thể sửa chữa,
khắc phục những mặt kiến thức còn yếu của mình.

Nguyễn Thị Bích Ngọc - M12CQCT01-B

1


Triết học


Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

II. Đặt vấn đề
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá
trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã
hội loài người. Dưới sự vận động của lịch sử loài người, cũng như
sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức
sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng.
Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội được chuyển
sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người
ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế
khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa
lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất
tương ứng. Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn
thế nữa nó con là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội
của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của bản thân phương
thức sản xuất. Sự tác động của quy luật này dẫn tới sự thay đổi
của phương thức sản xuất và kéo theo sự thay đôỉ cua toàn bộ đời
sống xã hội.
Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa
hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không
phải là đơn giản, nhận biết được một quan hệ sản xuất có phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay
không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất và
kinh nghiệm bản thân. Với những chính sách, đường lối và chủ
Trần Văn Đoàn – M12CQCT01-B


2


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của Đảng và nhà nước, nền
kinh tế, đặc biệt là kinh nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ,
đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển thành
nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền
kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác, sánh vai cùng các nước
trong khu vực và trên thế giới.

Trần Văn Đoàn – M12CQCT01-B

3


Triết học

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

III- Giải quyết vấn đề
Khái niệm về lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất và quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất

A/ Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người tiến hành
sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Cách thức này một

mặt biểu hiện trong việc sử dụng công cụ lao động nhất định (sản
xuất bằng cái gì). Mặt khác biểu hiện trong việc tổ chức hoạt động
sản xuất với những quan hệ sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất do hai mặt kết hợp thành là lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản
xuất là hình thức của phương thức sản xuất
1/ Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, là kết quả của năng lực thực tiễn của con người. Lực lượng
sản xuất là kết quả cái đã đạt được bởi con người là sản phẩm của
hoạt động đã qua của con người, chứ không phải là những cái mà
tự nhiên cho sẵn.
Lực lượng sản xuất được gom góp, chuyển giao từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất
đã có để tạo ra lực lượng sản xuất mới. Trong mỗi giai đoạn phát
triển khác nhau trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất
ở công cụ lao động. Đến lượt nó, trình độ của công cụ biểu hiện ở
phân công lao động ở năng suất lao động. Năng suất lao động là
thước đo trình độ của lực lượng sản xuất
Trần Văn Đoàn – M12CQCT01-B

4


Triết học
Lực lượng có các yếu tố hợp thành

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

Người lao động là yếu tố đầu tiên chủ yếu của mọi quá trình

sản xuất bao gồm các nhân tố, nhu cầu sinh sống tự nhiên của
con người. Nhu cầu thúc đẩy hoạt động, sức lao động của người
lao động là những sức thần kinh, sức cơ bắp mà con người vận
dụng để sử dụng, điều khiển công cụ lao động kinh nghiệm và kỹ
năng lao động; là sự hiểu biết về đối tượng tính năng tác dụng của
công cụ lao động , môi trường, sự thành thạo ít hay nhiều trong
việc sử dụng công cụ khả năng cải tiến công cụ. Toàn bộ những
nhân tố ấy kết hợp trong người lao động làm thành yếu tố người
lao động.
Tư liệu sản xuất bao gồm: Tư liệu lao động và đối tượng lao
động.
Tư liệu lao động và những phương tiện, vật liệu khác dùng để
tăng cường, hỗ trợ cho tác động công cụ lao động lên đối tượng.
Tư liệu lao động là vật hay hệ thống những vật được con người đặt
giữa mình với đối tượng lao động để truyền những tác động của
con người lên đối tượng nhằm biến đổi chúng thành những sản
phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, tư liệu lao động
được coi là cánh tay thứ 2 của con người. Nó kéo dài và tăng
cường sức mạnh thế giới quan con người. Tư liệu lao động do con
người sáng tạo ra, trong đó công cụ sản xuất đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc biến đổi tự nhiên.
Đối tượng lao động là toàn bộ những khách thể tự nhiên hoặc
những vật liệu tự nhiên đã được con người làm biến đổi nhưng
chưa thành sản phẩm. Những khách thể và vật liệu này có thể
biến thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu con người và sự tác động
Trần Văn Đoàn – M12CQCT01-B

5



Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
của con người. Đối tượng lao động mang lại cho con người tư liệu
sinh hoạt.
C. Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở
chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào"
Ngày nay khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, tức là trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất.
Khác với trước đây việc ứng dụng và sáng tạo những thành tựu
khoa học kỹ thuật ở cách xa sản xuất .
Những yếu tố nói trên của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ
với nhau và chỉ có ở trong sự kết hợp đó chúng mới là lực lượng
sản xuất. Còn trong sự tách rời

Trần Văn Đoàn – M12CQCT01-B

6


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
chúng chỉ là lực lượng sản xuất ở dạng tiềm năng. Trong những
yếu tố của lực lượng sản xuất, thì con người lao động giữ vai trò
quyết định. Vì con người không những tạo ra lực lượng sản xuất
mà còn sử dụng nó lực lượng sản xuất chỉ là sự biểu hiện những
năng lực của bản thân con người.
2/ Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ của con người với nhau trong
quá trình sản xuất. Đó là quan hệ tất yếu khách quan được hình

thành trong quá trình sản xuất của cá nhân với nhau.
Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu tư liệu sản
xuất; quan hệ giữa người - người trong việc tổ chức và phân công
lao động xã hội; quan hệ giữa người và người trong việc phân phối
sản phẩm xã hội.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình
thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan, tùy tiện của nội lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định. Để tiến hành sản xuất, con người chẳng phải quan hệ
với tự nhiên mà mà còn phải quan hệ với nhau để trao đổi hoạt
động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ cũng mang bản
chất xã hội C.Mác viết: "Người ta chỉ sản xuất bằng cách hợp tác
với nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn
sản xuất được người ta phải để lại mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ
với nhau và chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó
thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất.
Ba mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau
trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định
đối với những mặt khác trong hệ thống sản xuất, xã hội con người
Đỗ Đức Cường – M12CQCT01-B

7


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
sở hữu tư liệu sản xuất quyết định quá trình tổ chức phân công lao
động phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình, con người
không sở hữu thì phục tùng sự phân công nói trên.

Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu tư nhân
là hình thức mà trong đó một thiểu số cá nhân nhất định sở hữu
đại bộ phận những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như hình
thức sở hữu này lợi ích cá nhân tri phối quá trình sản xuất. Sở hữu
xã hội là hình thức sở hữu của cá nhân liên kết thành các tập thể
sở hữu. Hoặc tư liệu xã hội cộng sản nguyên thủy các công xã thời
cổ, sở hữu XHCN. Trong sở hữu xã hội, lợi ích tập thể của xã hội chi
phối nền sản xuất xã hội.
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
a/ Tính chất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản
xuất và lao động. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công
cụ ở trình độ phổ thông, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính
chất cá nhân. Khi trình độ sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hoá, lực
lượng sản xuất đòi hỏi phải được vận động cho sự hợp tác xã hội
rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc cô lập
của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất xã
hội hoá.
b/ Trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với
sự phát triển của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản
Đỗ Đức Cường – M12CQCT01-B

8


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của loài người trong giai đoạn đó. Khái niệm
trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người
thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải
biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của
mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở: Trình độ công cụ lao
động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ
phân công lao động.

Đỗ Đức Cường – M12CQCT01-B

9


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
không tách biệt nhau
2/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của
phương thức sản xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất biểu hiên mối quan hệ mang tính chất
biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành nên quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát
triển. Ngược lại quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong

một thời gian dài.
Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:
- Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm
không ngừng tích luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để
có thể sản xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một
giới hạn nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ
và hiện có. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một
quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương
thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất
mới. Sự xoá bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hiện có không phải
Trần Hải Yến – M12CQCT01-B

10


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
là tự thân mà phải thông qua một phương thức chính trị và pháp
quyền mà phương thức pháp quyền là trực tiếp. Những quan hệ
sản xuất cũ và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để
đảm bảo duy trì khai thác, phát triển của lực lượng sản xuất giờ
đây trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó như
CácMác đã nhận định “Từ một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Từ chỗ là những hình thức

phát triển của lực lượng sản xuất những quan hệ ấy trở thàng
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc Cách mạng xã hội”Đó cũng chính là nội dung quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát
triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó.
Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo
cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay
gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng còn lực lượng sản xuất người
không phát hiện được cũng như mâu thuẫn được phát hiện mà
không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác
dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá
hoại đối với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai
trò của lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan
hệ sản xuất đối với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Đôi khi sự
Trần Hải Yến – M12CQCT01-B

11


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
phát triển chệch hướng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là do yếu tố
chủ quan, chứ không phải do tính chất đặc thù của quy luật đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định
của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ

rõ rằng quan hệ sản xuất

bao giờ cũng thể hiện tính độc lập

tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại
lực lượng sản xuất , nó là yếu tố quyết định là tiền đề cho lực
lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi
và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng
như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính
tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng và quyết
định trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối
với lực lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy
định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội quy định phân
phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng.
Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự
phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa học và
sản xuất hợp tác phân công lao động.

Trần Hải Yến – M12CQCT01-B

12


Triết học

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

IV.Vận dụng

A/ Việt Nam và sự nghiệp Chủ Nghĩa Xã Hội.
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ
giữa những năm 80 và được triển khai mạnh mẽ trên tất cả các
lĩnh vực từ đó đến nay. Quá trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành
tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều lý luận quan trọng
mà việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào việc giải
quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết cho
việc tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng
như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở
miền Bắc và hơn 10 năm trên phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời
điểm bắt đầu đổi mới. Ngôi nhà xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
muốn xây dựng có thể có nhiều đặc trưng, nhưng có hai đặc trưng
chất lượng quan trọng nhất mà dứt khoát chúng ta phải đặt đến,
đó là vừa giàu có hơn, vừa công bằng hơn so với trong chủ nghĩa
tư bản. Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền
kinh tế sản xuất của nước ta lại chậm phát triển, đời sống nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều
nguyên nhân, nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân quan
trọng nhất là: không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết
điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh
tranh chấp. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Trần Hải Yến – M12CQCT01-B

13



Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất
khẩu, nhập khẩu… không đạt chỉ tiêu đề ra. Nhìn chung, năng
xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao.
Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu
thị trường tiêu thụ trong cả nước và nước ngoài. Hệ thống tài
chính-ngân hàng còn yếi kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân
tán, lãng phí và thất thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài giảm, công tác quản lý, điều hành công tác này
còn nhiều vướng mắc và thiếu sót. Quan hệ một số mặt chưa phù
hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai trò
chỉ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới
và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt chậm được
giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông thôn còn ở mức
cao. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa được đáp ứng tốt
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh
để phát triển. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất
quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp, ngành
chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không
còn phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác
dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa,
nhà nước ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải

Trần Hải Yến – M12CQCT01-B

14


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực
chất là theo đường lốiđẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa
quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển. điều đó có nghĩa là đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa
bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó là
hoàn toàn mâu thuẫn với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. để khắc phục những
mâu thuẫn có thể phát sinh đòi hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất
mới với những hình thức và bước đi phù hợp và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.Những chính sách mới của Đảng và nhà
nước đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển một cách mạnh
mẽ.Sự thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa đã đưa nền kinh tế

Trần Hải Yến – M12CQCT01-B

15


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
nước ta sang một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh doanh
buôn bán, các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với

nhau một cách bình đẳng trước pháp luật. Tất cả đều nhằm vào
mục tiêu duy nhất là thúc đẩy nền kinh tế nước nhà.
B/ Phát triển Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Để làm rõ hơn về nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ,
chúng ta sẽ đi phân tích nền sản xuất nông nghiệp trong thời gian
này. Tại đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã nhận định:"Lực lượng sản
xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc
hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất
( Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI. Nxb sự thật, HN, 1987, tr.57). Trong quá trình tiến lên chủ
nghĩa xã hội phải kể đến yếu tố chủ quan của việc Đảng lãnh đạo,
Nhà nước phát động tính tích cực xã hội của quần chúng bằng
những lợi ích vật chất và tinh thần yêu nước vốn có của họ. Tuy
nhiên, theo nhận định trên của Đảng, ta thấy rằng, không thể cho
rằng những yếu tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi là tiền đề sự
thúc đẩy phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Chúng chỉ tác động tích cực trong một thời gian ngắn và cuối
cùng, vẫn phải tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nước ta trong thời
gian chuẩn bị vào những năm đầu bước vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã làm rõ nhận định
trên của Đảng. Tại thời điểm đó nền sản xuất nông nghiệp không
ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng nông thôn bị đói kém. Khi đó có
Nguyễn Thị Bích Ngọc – M12CQCT01-B


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

người cho rằng, nguyên nhân sản xuất chậm phát triển là do giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn
đó thể hiện giữa một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của lực
lượng sản xuất theo hướng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn với một bên là chế độ sở hữu phân tán. Theo một số
nhà nhận định, đây là mâu thuẫn vốn có và mâu thuẫn là phổ biến
trong các nền sản xuất. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến
trình độ cao thì tự bản thân chế độ tư hữu nhỏ không thể nào tồn
tại như cũ, nó buộc phải thay đổi. Nhìn lại quá trình chỉ đạo sản
xuất nông nghiệp ở nước ta trước đây Đảng ta đã rút ra được sự
cần thiết của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tại Đại hội IX Đảng ta nhận định: "Cần phải nhân rộng mô
hình hợp tác, liên kết Công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước và kinh tế hộ nông thôn, phát triển các loại hình trang
trại quy mô phù hợp trên từng địa bàn" (Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc
gia, Hà Nội 2001, tr. 32). Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa dạng
của các thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản lý với nhiều hình
thức sản xuất nông nghiệp mới phù hợp với những quan điểm đổi
mới không ngừng của Đảng và nhờ đó, tạo ra sự biến đổi mới
trong các Hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba mặt của quan hệ sản
xuất. Điều đó càng khẳng định ý nghĩa to lớn của quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nguyễn Thị Bích Ngọc – M12CQCT01-B



Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
Trước hết sự phù hợp đó thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản xuất ngày
càng cao (năm sau cao hơn năm trước), mặc dù đất bị thiên tai
nhiều bề và ít nhiều chịu ảnh hưởng của tình trạng suy thoái kinh
tế trong khu vực và trên thế giới. Điều quan trọng nữa, khi nói
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất không thể không
nhìn vào đời sống của nông dân, thực tế cho thế qua 15 năm thực
hiện đường lối đổi mới do Đảng đề ra, đời sống của nông dân từng
bước được nâng cao, điều kiện nhà ở và học tập của con em nông
dân cũng khá hơn trước.
Như vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển không? Lực
lượng sản xuất có phát triển không đó chính là tiêu thức để đánh
giá sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Một quy luật có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế của mỗi quốc gia.

Nguyễn Thị Bích Ngọc – M12CQCT01-B


Triết học

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

V. Kết luận và giải pháp
A/ Kết luận:
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến.
Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do
vậy, phải nắm bắt tốt quy chúng ta có thể áp dụng vào từng

trường hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất còn là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến
trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử loài
người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng
sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội,
trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Lực lượng sản xuất
là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản xuất lại
thường có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng
cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất không có
những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển
của sản xuất.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản
xuất cần phải căn cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất
hiện có về mặt tính chất và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý
luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay của quá trình cải cách của các doanh nghiệp nhà
nước hiện nay).
B/ Giải pháp:

Nguyễn Thị Bích Ngọc – M12CQCT01-B


Triết học
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm
của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó
với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Phải coi trọng những

hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô
nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bước đi phải đẩy mạnh xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó
tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức, quy mô thích hợp để
cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tại Đại hội IX Đảng ta khẳng định: " Cần phải" nhân rộng mô
hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước và kinh tế hộ nông thôn, phát triển các loại hình trang
trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn những hình thức kinh tế
hộ nông dân ngày càng được mở rộng, các hình thái kinh tế hợp
tác ở nông thôn, kinh tế trang trại, mở mang nhanh công nghiệp
chế biến nông sản theo nhiều trình độ quy mô công nghệ.

Nguyễn Thị Bích Ngọc – M12CQCT01-B


Triết học

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

Danh mục các tài liệu tham khảo
- Giáo trình triết học Mác-LêNin (Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia).
- Tạp trí triết học (2002).
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VI.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX.

M12CQCT01-B


21


Triết học

Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân

Mục lục
I. Lời nói đầu.................................................................................................................1
II. Đặt vấn đề.................................................................................................................2
III- Giải quyết vấn đề...................................................................................................4
A/ Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:.....................................4
1/ Lực lượng sản xuất:..........................................................................................4
2/ Quan hệ sản xuất..............................................................................................7
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất:....................................................................................................8
1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:...............................................8
2/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất:.......................................................................................10
IV.Vận dụng................................................................................................................13
A/ Việt Nam và sự nghiệp Chủ Nghĩa Xã Hội......................................................13
B/ Phát triển Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa....................................................16
V. Kết luận và giải pháp.............................................................................................19
A/ Kết luận:.............................................................................................................19
B/ Giải pháp:...........................................................................................................19
Danh mục các tài liệu tham khảo..............................................................................21
Mục lục.......................................................................................................................22

M12CQCT01-B


22



×