Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Tìm hiểu nho giáo nhật bản trong sự đối sánh với nho giáo việt nam thời kỳ cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.55 KB, 60 trang )

trờng đại học vinh
khoa lịch sử
------------------

lê thị dung
khóa luận tốt nghiệp đại học

tìm hiểu nho giáo nhật bản trong sự đối
sánh
với nho giáo việt nam thời kỳ cổ trung đại
chuyên ngành: lịch sử thế giới

Vinh, 2009


Lời cảm ơn
Trong quá trình tiến hành và hoàn thành khoá luận này, ngoài sự
nỗ lực cảu bản thân tôi đã nhận đợc sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô
trong khoa Lịch sử, nhất là các thầy cô thuộc tổ Lịch sử thế giới. Đặc biệt
là sự chỉ bảo, hớng dẫn tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm của thầy giáo
hớng dẫn Th.S Hoàng Đăng Long. Nhân dịp này cho phép tôi đợc bày tỏ
lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất tới quý thầy cô. Đồng thời tôi xin
hứa sẽ tiếp tục cố gắng trên bớc đờng công tác để xứng đáng với sự quan
tâm dìu dắt của quý thầy cô và thầy giáo hớng dẫn.
Ngoài ra, tôi cũng muốn bày tỏ sự biết ơn đối với gia đình, bạn bè
đã dành cho tôi nhiều sự quan tâm u ái, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt công
trình nghiên cứu này.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng nh tài liệu tham khảo và năng lực
trong nghiên cứu của bản thân nên trong khoá luận sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô
và bạn đọc.


Xin chân thành cảm ơn!
Vinh tháng 5/2009
Tác giả
Lê Thị Dung

2


mục lục
Trang
A - Mở đầu .........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................3
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.................................................................5
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu.................................................5
5. Bố cục của đề tài .........................................................................................6
B - Nội dung .......................................................................................................7
Chơng 1: Khái quát về Nho giáo ...................................................................7
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Nho giáo ..............................................................7
1.2. Quá trình phát triển của Nho giáo .........................................................9
1.2.1. Nho giáo nguyên thuỷ (tiền Tần).........................................................9
1.2.2. Hán Nho ..............................................................................................12
1.2.3. Tống Nho ............................................................................................13
1.2.4. Minh Nho ............................................................................................15
1.3. Nội dung cơ bản của Nho giáo .............................................................17
Chơng 2: Quá trình tiếp thu Nho giáo ở Nhật Bản và Việt Nam thời kỳ
cổ trung đại .....................................................................................................22
2.1. Quá trình tiếp thu Nho giáo ở Nhật Bản ..............................................22
............................................................................................................................
2.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ V đến thế kỷ VII ...............................................23

2.1.2. Nho giáo dới thời Nara và Heian (thế kỷ VIII- XII) .......................26
2.1.3. Nho giáo dới thời Kamakura và Muromachi (thế kỷ XII - XVI) .........29
2.1.4. Nho giáo dới thời Edo (thế kỷ XVII - 1868) ...................................33
2.2 Quá trình tiếp thu Nho giáo ở Việt Nam ..............................................38
2.2.1. Thời kỳ Bắc Thuộc (thế kỷ II t.cn đến thế kỷ X) ...........................38
2.2.2 Nho giáo dới thời Lý - Trần (thế kỷ XI - XV) ..................................41
2.2.3. Nho giáo dới thời Lê - Nguyễn ( thế kỷ XV - XIX) .......................45


Chơng 3: Đặc trng của Nho giáo Nhật Bản trong sự đối sánh với Nho
giáo Việt Nam thời kỳ cổ trung đại..............................................................52
3.1. Về cơ sở tiếp thu Nho giáo ...................................................................52
3.2. Về tiếp thu nội dung Nho giáo .............................................................58
C - Kết luận ......................................................................................................66
Tài liệu tham khảo...........................................................................................68


A - mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại mà trên lĩnh vực văn hóa sự tiếp
xúc giữa quá khứ và hiện tại, sự giao lu giữa Đông và Tây đang trở thành
một xu thế. Nhng trong cái xu thế ấy lại nảy sinh những vấn đề mà ngời ta
cho là vô cùng cấp bách. Nỗi lo về một cuộc sống tiện nghi vật chất sẽ làm
mờ dần đi những giá trị truyền thống từ ngàn đời, mà điểm nóng của vấn đề
này đợc bắt đầu từ các nớc phơng Tây phồn hoa. Và dờng nh không thể
bằng lòng với những mối quan hệ cứ ngày một xấu đi giữa ngời với ngời
trong đời sống đô thị ngày nay, mà nhiều ngời muốn từ phơng Tây tìm về
phơng Đông cổ đại với các tôn giáo nh Phật giáo, với các nhà hiền triết đặc
biệt là Khổng Tử để có thể đóng góp vào sự thiếu hụt trong đời sống tinh
thần. Cái mà họ bắt gặp là những nét đẹp đầy giá trị đạo đức của nền văn

minh phơng Đông xa xa, trong đó ngời ta đã đặc biệt đề cao vai trò của Nho
giáo. Từ đó, đặt nhiều mối quan tâm tìm hiểu về học thuyết t tởng, tôn giáo
này ở đất nớc sản sinh ra cũng nh các nớc tiếp nhận.
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc và từ hàng ngàn năm lịch sử đã có ảnh
hởng sâu sắc trên toàn bộ đời sống xã hội của nớc này. Nhng qua các thời kì
Nho giáo cũng nhận đợc nhiều sự đánh giá khác nhau, trải qua những bớc
thăng trầm và nhiều biến đổi, có lúc đợc đa tới tận mây xanh, có lúc lại bị
mạt sát thậm tệ. Vì sao Nhà Tần đốt sách chôn Nho mà nhà Hán lại hết sức
đề cao Khổng Tử và thờ ông nh ngời thầy của muôn đời? Rồi mới ngày nào
Khổng Tử còn bị phê phán nh một phần tử phản động trong dịp phê Lâm,
phê Khổng, bỗng gần đây lại đợc khôi phục vị trí, lại đợc coi nh một ngời
thầy không chỉ của Trung Quốc mà còn của cả nhân loại. Ngời ta đa ra
những bằng chứng để phủ nhận lại cái t duy cho Nho giáo là nguyên nhân
của sự lạc hậu và khẳng định giá trị của Nho giáo trong mọi thời đại.
Trong những thập kỉ gần đây, ngời ta thấy rằng một số nớc vốn theo
Nho giáo đã có sự phát triển nhanh chóng trên các mặt của đời sống kinh tế
- xã hội. Vì vậy nhiều nhà khoa học đã đa ra nhận định, chính Nho giáo là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của những nớc này. Khi cho nhận định trên là
đúng thì lại có một vấn đề đợc đặt ra: nên giải thích nh thế nào cho sự trì trệ
kéo dài hàng ngàn năm lịch sử của những nớc cũng đi theo Nho giáo. Vậy
là đã xuất hiện mâu thuẫn trong khi nhìn nhận về giá trị của Nho giáo. Có
thể lấy Nhật Bản và Việt Nam làm đại diện tiêu biểu mà phản ánh lại cái

5


hiện thực khách quan về sự tác động của Nho giáo là tích cực hay hạn chế
đối với sự phát triển của hai nớc này.
Rõ ràng khoảng đầu công nguyên cùng với sự xuất hiện của đế chế
nhà Hán hùng mạnh, nền văn minh Hán bùng nổ ra xung quanh, thu hút các

nền văn minh bên cạnh tạo thành một vùng văn hoá rộng lớn mà sau này
ngời ta gọi là Khu vực Văn hoá Hán hay vùng văn hoá Đông á. Việt Nam
và Nhật Bản đều gia nhập khu vực văn hoá chữ Hán vào thời gian này, vì
thế hai nớc đều mang trong mình một mô hình văn hoá, t tởng với ảnh hởng
mạnh mẽ của Nho giáo. Việc tìm hiểu Nho giáo của từng nớc và so sánh
giữa các nớc để tìm ra những đặc điểm riêng có tính chất tiếp biến là một
việc làm cần thiết nhằm tăng cờng sự hiểu biết trong khu vực, đồng thời
cũng hiểu rõ hơn bản thân dân tộc mình.
Trong xu thế giao lu văn hoá ngày càng phát triển mạnh, Nhật Bản và
Việt Nam trên cơ sở nhiều nét tơng đồng tuy không phải là hoàn toàn trùng
hợp nhng cũng đã xích lại gần nhau hơn. Cả hai nớc đều có một tinh thần
bảo tồn những nét dân tộc cơ bản dù chịu ảnh hởng mạnh mẽ của văn hoá
Trung Hoa, đặc biệt là Khổng giáo. Không một ai có thể phủ nhận tác động
tích cực của Nho giáo đối với lịch sử xã hội hai quốc gia này. Và ng ời ta đã
bắt đầu đi vào nghiên cứu để góp phần tăng thêm hiểu biết về hệ t tởng đó
và nớc tiếp nhận nó. Hơn hết, tìm hiểu Nho giáo của hai nớc Nhật Bản và
Việt Nam sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về vai trò
của giao lu văn hoá trong tiến trình phát triển của nhân loại. Đặc biệt trên
nền tảng hiểu biết về một góc quan trọng của lịch sử văn hoá hai n ớc sẽ là
cơ sở để củng cố, phát triển mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai dân tộc
Việt Nam - Nhật Bản và góp phần làm cho mối quan hệ đó ngày càng trở
nên bền vững hơn.
Gần đây ở Việt Nam, việc tìm hiểu Nho giáo Nhật Bản cũng đã đợc
quan tâm nhiều hơn, tuy nhiên vẫn cha thực sự xứng đáng với tầm quan
trọng của nó. Trong khi đó, thực tế cho thấy rằng việc tìm hiểu vấn đề này
không chỉ là một yêu cầu đối với tiến trình lịch sử hai nớc mà còn giải
quyết đợc nhiều thắc mắc về nguyên nhân sự tác động khác nhau của Nho
giáo ở mỗi nớc mà nó du nhập.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề: Tìm
hiểu Nho giáo Nhật Bản trong sự đối sánh với Nho giáo Việt Nam thời

kỳ cổ trung đại làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.

6


2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu ảnh hởng của Nho giáo đối với Nhật Bản và Việt Nam từ
trớc đến nay đã đợc nhiều học giả quan tâm và thu đợc một số thành tựu.
Cuốn Nho giáo và phát triển ở Việt Nam của GS. Vũ Khiêu trong
phần đầu có đề cập đến Nho giáo Nhật Bản một cách khái quát, trong đó
chỉ ra sự khác biệt giữa Nho giáo ở Nhật Bản và ở Trung Quốc, sau đó tập
trung phân tích Nho giáo ở Việt Nam, chủ yếu lấy Trung Quốc làm trung
gian.
Cuốn Nho giáo x a và nay cũng của GS. Vũ Khiêu (chủ biên), đã
khái quát mấy vấn đề về nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam nói riêng trong
sự phát triển của Nho giáo nói chung, với ảnh hởng của nó tới các nớc Châu
á khác, đặc biệt dành một phần quan trọng để nói về vấn đề Tinh thần đạo
Khổng trong văn hoá Nhật Bản.
Cuốn Trần Đình Hợu - Các bài giảng về t tởng phơng Đông do Lại
Văn Ân biên soạn lại, tập trung giới thiệu về Nho giáo đại cơng và đã khắc
hoạ đợc một số điểm cơ bản về cơ sở tồn tại của Nho giáo ở các nớc trong
đó có Nhật Bản và Việt Nam.
Hay trong cuốn Chân dung văn hoá Đất n ớc mặt trời mọc của tác
giả Hữu Ngọc, mặc dù tìm hiểu chung về văn hoá Nhật nh ng trong đó tác
giả có đề cập về vấn đề Nho giáo có phải là động lực phát triển kinh tế ở
Nhật Bản hay không?. Đây là một trong những cơ sở để đánh giá về Nho
giáo Nhật Bản cần đợc lu ý.
Cuốn giáo trình Lịch sử t tởng phơng Đông và Việt Nam của
Nguyễn Gia Phu cũng đã hệ thống hoá quá trình tiếp nhận và phát triển của
Nho giáo Việt Nam theo bớc thịnh suy của lịch sử dân tộc.

Phạm Đức Thành với bài nghiên cứu Vai trò của Khổng giáo trong
phát triển ở Đông á, trong tạp chí Nghiên cứu Đông á số 4 - 2000 có đề
cập về Nho giáo trong sự phát triển của Đông á. Tác giả đã phân tích một
số ảnh hởng của t tởng Nho giáo trên hai phơng diện tích cực cũng nh hạn
chế đối với sự phát triển của các nớc tiếp nhận nó.
PGS.TS. Đoàn Lê Giang với tiểu lụân Nho giáo Nhật Bản và Nho
giáo Việt Nam đã bớc đầu đi vào tìm hiểu sơ lợc về Nho giáo hai nớc, trên
cơ sở khái quát về Nho giáo Nhật Bản rồi rút ra một số điểm khác nhau căn
bản với Nho giáo Việt Nam.

7


Nhìn chung, việc nghiên cứu Nho giáo Nhật Bản cũng nh Việt Nam
đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nớc. Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn có rất ít công trình nghiên cứu tìm hiểu mang tính chuyên
sâu về những ảnh hởng của Nho giáo hai nớc trong sự đối sánh để có thêm
một cái nhìn toàn diện hơn. Do đó, trên cơ sở tập trung t liệu và kế thừa
thành quả của các tác giả đi trớc, khoá luận sẽ cố gắng làm sáng tỏ các vấn
đề về Nho giáo Nhật Bản và Việt Nam trên tinh thần đối chiếu để khắc họa
đợc đặc trng của Nho giáo từng nớc.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng trực tiếp nghiên cứu của khoá luận là Nho giáo và sự ảnh hởng, tiếp thu Nho giáo của Nhật Bản và Việt Nam thời cổ trung đại. Trên cơ
sở đó rút ra đợc đặc trng Nho giáo ở Nhật Bản trong sự đối sánh với Nho
giáo ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài nghiên cứu trong giới hạn một lĩnh vực về t tởng cụ thể
là học thuyết Nho giáo ở hai nớc cùng tiếp nhận nó, nên khi thực hiện đề tài
với tính chất bớc đầu nghiên cứu chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu: về những

nội dung cơ bản và quá trình phát triển trên mảnh đất Trung Hoa cũng nh
nghiên cứu quá trình tiếp thu t tởng Nho giáo ở Nhật Bản và Việt Nam với
những đặc trng của từng nớc.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này tôi đã tập trung tìm tòi thu thập đ ợc những nguồn tài liệu cơ bản. Trớc hết là các sách giáo trình lịch sử cổ
trung đại, các tài liệu chuyên sâu về văn hoá, t tởng, đặc biệt là viết về Nho
giáo Nhật Bản và Việt Nam của Nhà xuất bản Giáo dục, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội tại th viện trờng Đại học Vinh, trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
của Viện Khoa học xã hội và nhân văn, th viện Đại học quốc gia Hà Nội.
Quan trọng hơn là nguồn tài liệu từ các bài viết trên tạp chí nghiên cứu
Nhật Bản, các công trình viết về Nho giáo Việt Nam của các tác giả nổi
tiếng trong và ngoài nớc. Bên cạnh đó nguồn thông tin trên một số Website
cũng là những tài liệu hết sức giá trị để tham khảo phục vụ cho đề tài.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu

8


Tiến hành đề tài này tôi đã sử dụng nhiều phơng pháp. Trong đó quan
trọng nhất là việc vận dụng phơng pháp logic và phơng pháp lịch sử.
Bên cạnh đó, để có đợc những kết luận đúng đắn tôi còn sử dụng một
số phơng pháp khác nh phơng pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với phơng
pháp so sánh. Qua đây có thể khái quát hoá hay cụ thể hoá vấn đề cho phù
hợp với nội dung đề tài.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của
khoá luận gồm 3 chơng nh sau:
Chơng 1: Khái quát về Nho giáo
Chơng 2: Quá trình tiếp thu Nho giáo ở Nhật Bản và Việt Nam thời

kỳ cổ trung đại.
Chơng 3: Đặc trng Nho giáo Nhật Bản trong sự đối sánh với Nho giáo
Việt Nam thời kỳ cổ trung đại.

B - nội dung
Chơng 1
Khái quát về Nho giáo
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Nho giáo
Mỗi một hệ t tởng hay một tôn giáo ra đời đều gắn với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của thời đại. Vì vậy khi tìm hiểu về một trào lu t tởng hay một tôn
giáo nào đó ta không thể tách rời khỏi bối cảnh ra đời của nó.

9


Chúng ta biết rằng, quê hơng của Nho giáo là nớc Trung Hoa và ngời
sáng lập ra nó là Khổng Khâu mà ngời ta quen gọi là Khổng Tử. Vậy nớc
Trung Hoa sản sinh ra Nho giáo nh thế nào? Khổng Tử đã sáng lập ra Nho
giáo nh thế nào? Đây là những vấn đề cần đợc làm rõ.
Nớc Trung Hoa sau thời huyền sử với tổ tiên là Bàn Cổ cùng tám vị
vua truyền thuyết là Tam Hoàng Ngũ Đế và kể cả Nghiêu Thuấn, dân tộc
Trung Hoa lần đầu tiên xuất hiện cụ thể trong lịch sử với chế độ phong kiến
từ thời Tam Đại gồm ba nhà Hạ, nhà Thơng, nhà Chu. Riêng về nhà Chu, từ
năm 1066 tr.CN nhà Chu thay cho nhà Thơng, đóng đô ở Cảo Kinh. Thời
đầu triều đại Chu - Thời sơ Chu - khởi nghiệp với Chu Võ Vơng tiếp đó là
công cuộc cải tổ của ngời em ruột là quan phụ chính Chu Công Đán, đợc
xem là thời cực thịnh của nhà Chu (mà về sau Khổng Tử đã dùng làm kiểu
mẫu trị quốc). Là ngời đặt quy định về lễ, nhạc và những nghi lễ quan, hôn,
tang, tế - Chu Công đợc ngời Trung Hoa hết sức tôn thờ. Tìm hiểu về nhà
Chu bởi chính bối cảnh lịch sử của nó đã tác động để dẫn tới sự ra đời của

Nho giáo.
Giai đoạn Tây Chu kéo dài khoảng 296 năm (1066 - 770 tr.CN). Kể
từ năm 770 tr.CN, nhà Chu dời đô về Lạc ấp, lập vơng triều Đông Chu, với
hai thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc.
Thời Xuân Thu (770 - 476 tr.CN), các thế lực thống trị dồn cả vào
Thất hùng là Tần, Hàn, Ngụy, Yên, Vệ, Sở và Tề. Nớc nào cũng xem
mình ngang hàng nhà Chu, không cần nhân danh Thiên tử giành nhau xng
vơng, tự ý đem quân đánh nhau khốc liệt. Sau hai thế kỷ rỡi chiến tranh, thế
lực nớc Tần đã mạnh nhất. Cuối cùng Tần Doanh Chính tiêu diệt cả sáu nớc
kia, nhất thống sơn hà, trị vì cả thiên hạ Thành một nớc Tần rộng lớn
mênh mông, chia lại thiên hạ nhà Chu thành quận, huyện, xoá bỏ chế độ
phong kiến theo sử sách cũ. Triều đại nhà Chu suy sụp từ đầu Đông Chu
đến đây hết hẳn.
Hoàn cảnh thời Xuân Thu - Chiến Quốc rối ren, loạn lạc, xáo trộn cái
cũ cái mới nh vậy đã có những tác động thúc đẩy và chứng kiến sự ra đời
của nhiều đạo lý xử thế, nhiều trờng phái triết học và một số tôn giáo mới,
trong đó có Nho giáo.
Trải qua những bớc thăng trầm của lịch sử Nho giáo ra đời gắn liền
với công lao sáng lập của Khổng Tử.

10


Khổng Tử (551 - 479 tr.CN) thuộc dòng dõi nhà Chu, ông đ ợc sinh ra
ở nớc Lỗ - do Chu Công Đán xây dựng. Khổng Tử rất mến phục tài đức của
Chu Công Đán, ngời đã đem lại cho nớc Lỗ một nền văn hoá tốt đẹp, kế
thừa tinh hoa của các đời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn. Khổng Tử cũng
thờng hết lời ca ngợi các triều đại Hạ, Thơng, Chu; đặc biệt là nhà Chu :
Nhà Chu thịnh vợng thay, ta theo nhà Chu [8,16]. Ông khen chính sự của
nớc Lỗ và cho rằng chỉ có nớc Vệ và nớc Tề mới có khả năng theo kịp. Tự

hào là ngời nớc Lỗ, nơi coi trọng lễ giáo, tôn sùng tín nghĩa, giữ đ ợc phong
tục của các tiên vơng, Khổng Tử cảm thấy đau xót trớc sự suy thoái của xã
hội đơng thời. Chứng kiến sự hỗn loạn, rối ren đó Khổng Tử rất muốn có
thể làm một điều gì đó để ngăn chặn những cảnh xấu xa tàn bạo đang diễn
ra.
Trớc tình hình đó, Khổng Tử đã nêu lên những tấm gơng của thời xa
để răn dạy ngời đời. Ông ca ngợi vua Nghiêu: vĩ đại thay sự nghiệp vua
Nghiêu, cao vời vợi thì chỉ có trời, mà bắt trớc đợc trời thì chỉ có vua
Nghiêu. Ông nói về vua Thuấn, vua Vũ: Vời vợi thay vua Thuấn, vua Vũ,
làm vua cả thiên hạ mà không lấy làm yêu thích. Ăn uống thì đạm bạc,
quần áo thì thờng xấu, nhà cửa thì nhỏ hẹp [8,17].
Khổng Tử muốn lấy chuyện đời xa để giáo dục đời nay. Ông tuyên bố
Ta chỉ thuật lại chứ không sáng tác, ta chỉ tin và ham thích cái cũ mà thôi.
Ông thấy rằng, đối với xã hội đơng thời lời nói và việc làm của Nghiêu,
Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Chu Công có trọng lợng hơn rất nhiều lần là chính
ông nói ra. Hơn nữa, ông cũng đã từng thú nhận: Lễ nhà Hạ ta có thể lấy
đợc nhng nớc Kỷ không có đủ bằng chứng. Vì văn hiến không đủ, nh ng nếu
đủ ta có thể chứng minh đợc lời nói của ta [8,18]. Vì không đủ bằng
chứng để chứng minh cho lời nói của mình Khổng Tử đã dành nhiều công
phu thu thập tài kiệu lịch sử và di sản t tởng ngày xa, ông đã chép lại và
soạn lại kinh Thi, kinh Th, kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Xuân Thu. Dựa vào
những t liệu ấy Khổng Tử đã phát biểu ý kiến với học trò, bình luận và mở
rộng thêm, tạo nên học thuyết hoàn chỉnh và bền vững của ông, mà ngời ta
gọi là Nho giáo (hay Khổng giáo).
1.2. Quá trình phát triển của Nho giáo
1.2.1. Nho giáo nguyên thuỷ (tiền Tần)
Không ít tài liệu có tính kinh điển của các nhà Nho vốn đã là sẵn có
trớc thời Xuân Thu hàng trăm năm hoặc lâu hơn nữa. Nhng đến thời Xuân

11



Thu trong hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể của nó mới có một con ng ời dùng
hết công sức của mình đa các đạo lí ấy lên thành một hệ thống vừa là một
học thuyết, vừa là phần nào mang màu sắc một tôn giáo với những kinh
điển chính thức rõ ràng. Hai khái niệm Nho gia và Nho giáo cũng đã đ ợc
hình thành. Nho giáo ra đời gắn với tên tuổi của Khổng Tử .
Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích các bộ Kinh Thi, Kinh
Th, Kinh Lễ, Kinh Dịch và biên soạn cuốn Xuân Thu - một cuốn sử biên
niên ghi chép những sự việc diễn ra từ năm đầu đời vua Ân Công đến năm
14, đời vua Ai Công (kéo dài 242 năm qua 12 đời vua), đến năm 41 đời vua
Kim Vơng nhà Chu, Khổng Tử qua đời [9,40].
Nho giáo thời Khổng Tử cơ bản là bảo thủ. Điểm trung tâm trong học
thuyết của Khổng Tử là chữ nhân, với hiếu đễ là căn bản. Một mặt, việc
nêu chữ nhân, đối với đơng thời, cũng có ý nghĩa tích cực, có mang tích
chất nhân bản, nhng mặt khác, và mặt này là chủ yếu, trong quan niệm của
Khổng Tử về chữ nhân, có bao hàm sự thừa nhận chế độ đẳng cấp và chế
độ tông pháp. Nhân không phải chỉ có yêu, mà có cả ghét. Trong lĩnh vực
yêu thơng, chữ nhân cũng đề ra những mức độ khác nhau, dựa theo quan
hệ thân sơ, sang hèn. Gắn bó với chữ nhân còn có các khái niệm trung
và thứ mà nội dung là: Kỉ sử bất dục, vật thi nhân, kỉ dục lập nhi lập
nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân (điều gì mình không muốn thì chứ làm cho
ngời, mình muốn lập thân thì cũng nên giúp ngời lập thân, mình muốn
thành đạt thì cũng nên giúp ngời thành đạt) [27,236]. Chữ nhân lại gắn
chặt với chữ lễ, bao gồm những điều cụ thể, chi tiết nhằm duy trì chế độ
đẳng cấp và quan hệ tông pháp.
Trải qua ba, bốn mơi năm dạy ngời không mỏi, Khổng Tử trớc sau
thu nhận trên dới ba nghìn đệ tử. Sau khi ông mất, học trò của ông đã tập
hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Trong số các học trò của Khổng
Tử, có 72 ngời đợc coi là hiền triết, xuất sắc nhất có Nhan Uyên và Tăng

Sâm. Nhan Uyên chết non, không thấy để lại trớc tác gì. Tăng Sâm vào học
sau nhng đợc coi là ngời lĩnh hội tốt nhất học thuyết của Thầy Khổng.
Viết cuốn Đại học, Tăng Sâm gắn chặt triết học với chính trị và đồ đệ của
Tăng Sâm đã hình thành nên một trờng phái triết học - chính trị có uy tín.
Sau thế hệ Tăng Sâm, trong hàng ngũ học trò ngời đợc các nhà Nho
đề cao nhất là Khổng Cấp, thờng gọi là Tử T. Từ thế hệ Tăng Sâm đến Tử T
sự phân hoá của Khổng giáo thành những trờng phái khác nhau ít nhiều

12


càng ngày càng rõ dần. Tử T đợc coi là đích phái và sách do ông viết ra
tức cuốn Trung Dung đợc coi là chân truyền.
Sang thời Chiến Quốc, sự bất đồng giữa các hiền triết đã làm bùng nổ
một cuộc tranh luận sôi nổi và rộng rãi. Bên trong bản thân các nhà Nho
cũng có những quan điểm, những đạo lý không thống nhất với nhau. Giữa
lúc ấy, nổi lên một ngọn cờ mới là Mạnh Kha thờng gọi là Mạnh Tử. Ông
thuộc dòng đầu đệ của Tử T. Cũng đi nhiều nớc, gặp nhiều vua trong hàng
ngũ ch hầu nhà Chu, Mạnh Tử ra sức bảo vệ và đề cao Nho giáo, thờng
xuyên tỏ thái độ tôn sùng vơng đạo, khinh bỉ bá đạo, tôn sùng nhân nghĩa,
khinh bỉ thói mu lợi. Thuyết tính thiện, quan điểm dân là quý và lập trờng chống chiến tranh là những điểm nổi bật của t tởng Mạnh Tử. Do
những đòi hỏi nóng bỏng của tình hình xã hội đơng thời, ông chú ý đề cập
những vấn đề cụ thể của đời sống chính trị và đời sống kinh tế nhiều hơn
thầy trò Khổng Tử thời Xuân Thu. Mạnh Tử đã có một công trình tr ớc tác là
một tập bảy thiên ghi lại những cuộc biện luận của mình trong mấy m ơi
năm giảng dạy, thờng đợc gọi là Bảy thiên Mạnh Tử cùng với cuốn Luận
ngữ, cuốn Đại học và cuốn Trung dung hợp thành bộ Tứ th có giá trị là
những tài liệu kinh điển chính thức của Nho giáo đi liền với Ngũ kinh.
Cùng với Tăng Sâm, Tử T, rõ ràng Mạnh Tử đã góp phần rất quan trọng và
đắc lực vào việc truyền bá học huyết của Khổng Tử trong xã hội.

Kể từ khi Khổng Tử san định các cuốn kinh Thi, kinh Th, kinh Lễ,
kinh Dịch và viết cuốn Xuân Thu cho đến khi Bảy thiên Mạnh Tử hoàn
thành, sự phát triển của Nho giáo đã trải qua trên dới hai trăm năm lịch sử.
Từ đó hình thành nên Nho giáo nguyên thuỷ (còn gọi là Khổng giáo hay t tởng Khổng Mạnh).
Sau đó, cùng với thời kì hỗn loạn của xã hội Trung Hoa, Nho giáo
của Khổng Mạnh đã trải qua những bớc thăng trầm theo dòng lịch sử.
1.2.2. Hán Nho
Nho giáo sau giai đoạn khủng hoảng dới thời Tần Thuỷ Hoàng, với
chủ trơng đốt sách chôn Nho trở thành khẩu hiệu của xã hội Trung Hoa
dới triều đại nhà Tần. Mũi nhọn bạo lực của Tần Thuỷ Hoàng chĩa vào con
ngời và kinh điển đạo Nho. Chính ngọn lửa đốt sách và cái hố chôn Nho
của nhà Tần đã làm cho đạo Nho lao đao, điêu đứng một thời gian. Trong
khi đó nhà Tần lại không có đợc một học thuyết hay đạo lý mới để ổn định

13


t tởng và đời sống chính trị - xã hội. Nhà Tần dần rơi vào suy vong và sụp
đổ.
Sang đời Hán, thấy rõ vai trò của Khổng giáo trong việc sắp xếp trật
tự tôn ti, góp phần khép chặt thần dân trong cái l ới thống trị bao la của
Hoàng đế. Do đó, Nho giáo đợc phục hồi và dần trở thành vũ khí tinh thần
của nhà Hán. Hán Vũ Đế đã đa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó
làm công cụ thống nhất đất nớc về t tởng. Từ đây, Nho giáo trở thành hệ t tởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa suốt hai ngàn năm.
Nho giáo thời kì này đợc gọi là Hán Nho.
Hán Nho nổi lên với lá cờ đầu là Đổng Trọng Th và một số danh nhân
nh T Mã Thiên, Dơng Hùng, Vơng Thông, Ch Cát Lợng Phần thêm vào rõ
nhất của Hán Nho là những phần nói về trời đất, quỷ thần, âm d ơng, ngũ
hành mà Khổng Mạnh cố tránh hoặc nói lớt qua. Sự bổ sung ấy vừa nhằm
làm cho học thuyết Khổng Mạnh đợc hệ thống hoá một cách tơng đối hoàn

chỉnh hơn trớc, vừa nhằm làm cho quân quyền và thần quyền gắn bó với
nhau một cách chặt chẽ hơn, toàn diện hơn. Trong đó điều sửa đổi đáng chú
ý nhất về mặt đạo đức là đức trung đối với vua dần dần trở thành tuyệt
đối và nổi lên cao nhất so với các tính khác (ở thời Khổng Mạnh, trung và
thứ là đức tính nhất quán thể hiện trong quan hệ đối với mọi ngời). Rõ ràng,
Hán Nho qua cuộc chuyển biến lớn từ Đông Chu đến Tây Hán đã có sự
san định lại. Những cái mất đi sau ngọn lửa đốt sách chôn Nho của nhà
Tần thực tế là rất khó xác định cho rõ ràng. Nhng những thứ còn lại thì
cũng không phải chỉ là ghi chép theo trí nhớ của bậc thánh hiền. Đến đây,
đã đa Nho giáo trở nên phù hợp hơn với hoàn cảnh lịch sử của Nhà n ớc
phong kiến tập quyền mà quyền lực của Hoàng đế là tối cao. Nh vậy điểm
khác biệt cơ bản so với Nho giáo nguyên thuỷ đó là Hán Nho đã đề cao
quyền lực của giai cấp thống trị, thiên tử là con trời, dùng lễ trị để che
đậy pháp trị.
Từ Đông Hán, Phật giáo đã xuất hiện trên đất nớc Trung Hoa, Đạo
giáo cũng trở nên phổ biến, vì vậy Nho giáo dù vẫn chiếm địa vị cao song
từ đây đã bắt đầu bớc vào thời kì tam giáo đồng nguyên.
1.2.3. Tống Nho
Sự thịnh hành của đạo Phật dới triều đại nhà Đờng làm cho Nho giáo
dù không bị bỏ nhng cũng không còn vị trí nh trớc và hầu nh không có biến
chuyển gì đáng kể. Sau khi nhà Đờng suy tàn và sụp đổ thì đến đời Tống,

14


đã thấy lần lợt nổi lên những ngọn cờ mới của đạo Nho. Trớc hết, thời Bắc
Tống có Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trơng Tái và hai anh em Trình Hạo, Trình
Di.
Mặc dù có sự tịch Phật nhng cả trong triều đình và trong dân gian
ngời ta đều không tách biệt hẳn và càng không đối lập Hán Nho với Phật

hay với Lão nh ở các thời đại trớc. Cả Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo cùng
đồng hành, không chống đối mà ảnh hởng qua lại với nhau. Nho giáo thời
kì này đợc gọi là Tống Nho. Với việc các nhà Nho đời Tống ngay từ buổi
đầu đã có hớng đi sâu vào vũ trụ quan và vào những lĩnh vực vô hình khác.
Đây chính là điểm khác biệt của Tống Nho với Nho giáo tr ớc đó, bổ sung
các yếu tố tâm linh (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố siêu hình (lấy từ
Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại cai trị. Tuy nhiên điều đó
không có nghĩa là các nhà Nho đã chịu ảnh hởng của Tam giáo thì cũng coi
những ngời lập ra các giáo đều ngang nhau. Mà họ càng đặc biệt đề cao
Khổng Tử, nâng phu tử của mình lên tận mây xanh. Thiên Ung đã nói:
Đạo của Hoàng là sự nghiệp nghìn đời, Đạo của Đế là sự nghiệp trăm đời,
Đạo của Vơng là sự nghiệp mời đời, Đạo của Bá là sự nghiệp một đời, còn
Đạo của Khổng Tử là sự nghiệp muôn đời [9,49].
Do đi sâu vào những cái vô hình, lý học của Tống Nho mà làm nảy
sinh cuộc tranh luận gay gắt và làm xuất hiện nhiều tr ờng phái hơn bao giờ
hết. Nổi tiếng bậc nhất ở thời kì Bắc Tống, có trờng học của hai anh em
Trình Hạo, Trình Di, thờng đợc coi là tiêu biểu cho nhà trờng Nho giáo sau
nhà trờng đầu tiên của Khổng Khâu.
Sang thời Nam Tống, nét nổi bật nhất của hoạt động Nho giáo là sự
chú giải các sách kinh điển do Chu Hy (Chu Tử) tiến hành. Ông đã dành
nhiều công sức chú giải kỹ các tài liệu kinh điển của Khổng Tử, Tăng Sâm,
Tử T, Mạnh Tử. Nhờ đó, mặc dù không có sự sáng tạo đặc sắc gì, Chu Hy
vẫn đợc đánh giá rất cao, đợc công nhận là làm đợc việc lớn Tập đại
thành những sự nghiệp của thánh hiền. Ngời ta càng biết rõ về sự nghiệp
của các bậc vĩ nhân nh: Phúc Hy, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu
Công. Việc làm này của Chu Hy đã tạo một niềm tin lớn của kẻ sĩ, để coi
những điều ông giảng giải là khuôn vàng thớc ngọc muôn đời.
Rõ ràng, Tống Nho với cái học lý tính nếu so với cái học huấn hổ
của Hán Nho thì nó có hệ thống, tổ chức và giá trị lý luận hơn nhiều. Ba
vấn đề trọng tâm của Tống Nho là: Vũ trụ luận, tính luận và thực tế luận.


15


Trong đó, nhìn chung các nhà hiền triết thời Tống nghiên cứu về Nho giáo
để giải thích thế giới đều dựa trên thuyết nhị nguyên luận. Mọi việc diễn ra
ở đời dù là thiện hay là ác đều sinh từ cái lý của nó. Những lý luận mà Tống
Nho xây dựng đã đa nó vơn xa hơn các học thuyết Nho giáo trớc kia.
Tống Nho là thời kỳ đánh dấu những thay đổi của Nho giáo. Ngời phơng Tây đã gọi đó là Tân Khổng giáo. Cho thấy rõ bớc chuyển biến của
học thuyết Nho giáo. Cho đến suốt cả thời kì đất nớc Trung Hoa đặt dới sự
thống trị của thời đại Nguyên Mông thì nền nếp Tống Nho vẫn đợc duy trì
và tôn trọng.
1.2.4. Minh Nho
Sau khi dành lại ngôi Hoàng đế về ngời tộc Hán, nhà Minh tạo điều
kiện cho nhiều danh Nho nổi lên. Tuy vậy con đờng hoạt động của Nho
giáo chủ yếu vẫn là con đờng giảng dạy thi cử, theo tinh thần học không
chán, dạy không mỏi và theo phơng châm học giỏi thì làm quan, làm
quan giỏi thì học. Nề nếp của Tống Nho qua thời đại nhà Nguyên cho đến
thời điểm này vẫn đợc tôn trọng và đợc thực hiện thành những kỷ cơng chặt
chẽ hơn. Đến đầu thế kỉ XVI, Nho giáo có một bớc phát triển mới với sự ra
đời của một trờng phái mới khác với trờng phái Hán Nho và Tống Nho.
Ngọn cờ nổi lên trên bớc phát triển này là Vơng Thủ Nhân, Tự Bá Ân, thờng có tên gọi quen thuộc hơn là Vơng Dơng Minh.
Vừa là một ngời nổi tiếng về mặt khoa giáo, vừa là một tớng lập
nhiều võ công xuất sắc, Vơng Dơng Minh có u thế về học thuật lại có u thế
về kinh nghiệm các mặt, đã góp phần đa đạo lý Nho giáo có đợc một số nét
mới độc đáo. Có thể khẳng định học thuyết của Vơng Dơng Minh là học
thuyết duy tâm chủ quan triệt để nhất ở Trung Quốc qua việc: cũng nói đạo,
cũng nói trời và nói sự vật nhng cho rằng tất cả đều là tâm Tâm tức là đạo,
đạo tức là trời, biết tâm thì biết đạo, biết trời. Ông còn nói: ngoài tâm
không có ý, ngoài tâm không có lý, ngoài tâm không có sự và chủ thể của

thân chính là tâm, tâm phát ra chính là ý; bản thể của ý chính là tri, chỗ sở
tại của ý chính là vật [9,50]. Từ đó ta có thể thấy cái gọi là Minh Nho đợc
tập trung trong triết lý Học của thánh nhân là tâm học, nắm đ ợc tâm cũng
là nắm đợc trí, biết đợc đạo, biết đợc trời, biết đợc sự vật. Tâm vốn hoàn
toàn sáng, tâm học nhằm đạt tới lơng tri và đã trí lơng tri (thực hiện
triệt để điều hiểu biết tốt lành) thì cũng đồng thời cách vật đ ợc nghĩa là
hành đợc, làm cho đạo trở thành cuộc sống hiện thực trong cuộc sống.

16


Trên cơ sở đó mà xây dựng nên học thuyết tri hành hợp nhất (biết và làm
hợp nhất). Có thể lý giải nh sau : biết là khởi đầu của làm, làm là thành quả
của biết; đạo học của Thánh chỉ có một công phu, biết và làm không thể
chia làm hai việc.
Về cơ bản thuyết của Vơng Dơng Minh đợc kết tinh lại trong bốn câu
đó là: Không thiện, không ác là cái thế của tâm. Có thiện, có ác là ý phát
động. Biết thiện, biết ác là lơng tri. Làm thiện, bỏ ác là cách vật [30,90].
Với Vơng Dơng Minh, rõ ràng Nho giáo đã có những bớc tiến lên tuy
không thể thực sự thoát ra khỏi những vòng luẩn quẩn, bế tắc từ trớc. Mặc
dù là những bớc tiến nhng cũng phải thấy rằng nó tiến lên theo hớng duy
tâm nhất nguyên, duy tâm cực đoan.
Vơng Dơng Minh đợc đánh giá rất cao trong giới Nho học. Ông đợc
tôn là một trong 4 vị thầy vĩ đại nhất của đạo Nho, sánh ngang với Khổng
Tử, Mạnh Tử và Chu Hy. Ông đã thành lập ra phái Dơng Minh tâm học hay
còn gọi là Diêu giang phái. Đạo học của ông gọi chung là Dơng Minh phái
hay Dơng Minh học, có ảnh hởng lớn đến Nho học thời Minh, Thanh đồng
thời có ảnh hởng đặc biệt lớn với Nhật Bản. Nhng nhìn chung, tâm học của
Vơng Dơng Minh đã không làm mờ đợc lý học của Tống Nho và không làm
sáng đợc phơng hớng tiến lên cho xã hội Trung Quốc.

Lịch sử phát triển của Nho giáo tiếp tục kéo dài, nhng về cơ bản sau
cải cách Nho giáo do Vơng Dơng Minh tiến hành thì Nho giáo không có bớc phát triển gì thêm. Đặc biệt với sự xâm nhập của văn hoá Tây Âu vào xã
hội Trung Hoa đã đặt ra nhiều vấn đề không thể giải quyết dới ánh đèn của
thánh hiền. Đến đây, tuy rằng Nho giáo vẫn còn ám ảnh chi phối xã hội
Trung Quốc về mặt t tởng, nhng lịch sử Nho giáo kết hợp chặt chẽ với ngai
vàng các triều đại phong kiến để thống trị đời sống tinh thần của nớc Trung
Hoa cũ cơ bản đã kết thúc.

1.3. Nội dung cơ bản của Nho giáo
Nho giáo vốn là một học thuyết t tởng chính trị - xã hội mà từ lâu ta
quen coi nó là một tôn giáo. Nội dung cơ bản của Nho giáo gắn với quan
niệm của Khổng Tử để xây dựng một xã hội thịnh trị. Theo Khổng Tử để tổ
chức một xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho đ ợc
ngời cai trị kiểu mẫu - gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ

17


tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với tiểu nhân - những ng ời thấp kém
về địa vị xã hội; về sau quân tử còn để chỉ cả phẩm chất đạo đức: những
ngời cao thợng, phẩm chất tốt đẹp phân biệt với tiểu nhân là những kẻ
thiếu đạo đức hay đạo đức cha hoàn thiện. Điều này có thể đợc lý giải bởi
đối tợng của Nho giáo hớng đến trớc tiên là những ngời cầm quyền).
Để trở thành ngời quân tử con ngời ta trớc hết phải tự đào tạo và
tu thân. Sau khi tu thân xong, ngời quân tử có bổn phận phải hành
đạo (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lý. Nho giáo hình dung cả vũ trụ đợc
cấu thành từ các nhân tố đạo đức và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lý vận
hành chung của vũ trụ, vấn đề nguyên lý đó là những nguyên lý do Nho
giáo đề xớng và cần phải tuân theo: Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có
Đạo, tức là nắm đợc đạo trời, biết sợ mệnh trời).

Vì vậy có thể diễn trình nội dung cơ bản của Nho giáo ở hai mặt, đó
là: tu thân và hành đạo.
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cơng, Ngũ Thờng, Tam
Tòng, Tứ Đức để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã
hội.
Tam Cơng và Ngũ Thờng là lẽ đạo đức mà nam giới phải tuân theo;
Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho
rằng ngời trong xã hội giữ đợc Tam Cơng, Ngũ Thờng,Tam Tòng, Tứ Đức
thì xã hội đợc an bình.
1. Tam Cơng: Là ba mối quan hệ quân thần (vua - tôi), phụ tử (cha - con),
phu thê (vợ - chồng).
Trong quan hệ vua - tôi: Vua thởng phạt công minh, tôi trung thành
một dạ.
Trong quan hệ cha - con: Cha hiền, con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi
dạy con cái, con phải hiếu thảo để phụng dỡng cha khi về già.
Trong quan hệ vợ - chồng: Chồng phải yêu thơng và đối xử công
bằng với vợ, vợ chung thuỷ tuyệt đối với chồng.
2. Ngũ Thờng: Là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín.
Nhân: Lòng yêu thơng đối với muôn loài vạn vật.
Nghĩa: C xử với mọi ngời công bình theo lẽ phải.
Lễ: Sự tôn trọng, hoà nhã trong khi c xử với mọi ngời.
Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.

18


Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
3. Tam Tòng: Là ba điều ngời phụ nữ phải theo, gồm tại gia tòng phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tòng tử.

Tại gia tòng phụ: Ngời phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
Xuất giá tòng phu: Lúc lấy chồng phải theo chồng.
Phu tử tòng tử: Nếu chồng mất phải theo con.
4. Tứ Đức: Là 4 tính nết tốt mà ngời phụ nữ phải có, là Công - Dung Ngôn - Hạnh.
Công: Là khéo léo trong việc làm.
Dung: Hoà nhã trong sắc diện.
Ngôn: Mềm mại trong lời nói.
Hạnh: Nhu mì trong tính nết.
Biết Thi, Th, Lễ, Nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về đạo và đức, ngời
quân tử còn phải biết Thi, Th, Lễ, Nhạc tức là phải có một vốn văn hoá
toàn diện.
Về hành đạo: Sau khi tu thân, ngời quân tử phải hành đạo, tức là phải
làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này đợc công thức hoá
thành Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Kim chỉ nam cho mọi hành động
của ngời quân tử trong việc cai trị là hai phơng châm: Nhân trị và Chính
danh.
Nhân trị: Nhân là tình ngời, Nhân trị là cai trị bằng tình ngời, là
yêu ngời và coi ngời nh bản thân mình. Nhân đợc coi là điều cao nhất của
luân lí, đạo đức.
Chính danh: Là mỗi sự vật phải đợc gọi đúng tên của nó, mỗi ngời
phải làm đúng chức phận của mình Danh không chính thì lời không thuận,
lời không thuận tất việc không thành.
Từ cơ sở triết lí trên có thể cụ thể hoá nội dung cơ bản của Nho giáo
ở một số vấn đề nh sau:
Rõ ràng Nho giáo ủng hộ chế độ phong kiến, rất mực tôn vua. Nhng
phong kiến theo kiểu Khổng Tử là phong kiến quan liêu. Nghĩa là ng ời ra
làm quan phải đợc tuyển lựa trong lớp sĩ tử đã qua học tập Nho giáo, thi đỗ
có bằng cấp chứ không phải là phong kiến quý tộc (Ng ời ra làm quan là con
em quý tộc cử ra, không có học vấn bằng cấp).
Nho giáo theo Khổng Tử, trong phép trị nớc trị dân không thiên về

hình pháp mà thiên về lễ trị, theo thuyết Chính danh tự định danh phận,

19


nghĩa là trong xã hội từ vua cho đến thứ dân ai cũng phải xác định cho đúng
chức danh của mình và hành động cho hợp lẽ, tất cả nhằm đạt đến Quân
quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, phu phu, thê thê (tức là vua ra vua, tôi ra
tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ) [3,446].
Theo Nho giáo, mọi ngời đều phải nêu cao phẩm chất đạo đức, coi
nếp sống đạo đức là một hành vi chính trị, vì thế mới gọi là Đức trị. Đạo
đức theo Khổng Tử có đủ cả Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng. Và ng ời có
đủ đợc những đức trên gọi là quân tử.
Nho giáo còn coi trọng gia đình quyền huynh thế phụ (ngời con
trai cả thay cha) để đối phó lại chế độ Tôn pháp từ nhà Thơng để lại là: Vua
chết nhờng ngôi cho em trai, em trai chết mới lại nhờng ngôi cho con anh
trai. Nh thế gây ra hậu hoạ, anh em tranh giành ngôi vua chém giết lẫn
nhau, dân tình rất khốn khổ.
Khổng Tử cũng rất coi trọng chữ hiếu đễ trong gia đình, nh ng chữ
hiếu ở ông còn đợc mở rộng ra Hiếu là để phụng sự vua.
Về làm giàu, Khổng Tử nói Nếu nớc có đạo mà mình nghèo và hèn
thì đó là điều xấu hổ, nhng nếu nớc vô đạo mà mình giàu và sang thì cũng
là điều xấu hổ [3,447]. Nh vậy Nho giáo cũng coi trọng giàu sang, nhng
giàu sang trong lễ đạo, làm giàu nông nghiệp khai thác đất đai có sẵn, chứ
không phải làm giàu bằng công thơng nghiệp vì đó là vi phú bất nhân.
Về vai trò của nhân dân, Khổng Tử sống trong thời Xuân Thu - Chiến
Quốc, các nớc ch hầu luôn gây chiến dành đất dành dân, ông đã nhìn thấy
sức mạnh của binh sĩ, của dân, nên ông đã đề ra dân nh nớc, nớc có thể chở
thuyền, nhng nớc cũng có thể lật thuyền. Nhng với lập trờng tôn quân, ủng
hộ chế độ phong kiến nên ở t tởng của ông chỉ có thể dỡng dân, nuôi dân

cho no đủ, đánh thuế nhẹ đối với dân để sai khiến dân, chứ không hề tôn
dân lại càng không thể có dân chủ.
Nho giáo theo Khổng Tử cũng đề cập đến trời và quỷ thần. Ông tin
có trời, trời nh là một nhân cách có cái lý vô hình. Còn đối với thần, ông
nói tế thần nh thần tại nhng ông lại khuyên quỷ thần thì kính trọng, tuy
vậy không nên mong đợi thần cứu giúp.
Nội dung của học thuyết Nho giáo tập trung đề cao việc học dạy,
Khổng Tử đã nói Học không biết chán, dạy không biết mỏi.
Thực chất đạo Nho là một hệ thống ứng xử của một thành viên tự xng
là quân tử với một thành viên khác: với cha mẹ thì hiếu; với vua thì

20


trung; với bạn bè thì tín với ngời nói chung thì nhân nghĩa để bảo
vệ một trật tự đợc xem là mẫu mực: lễ, với tất cả sự khôn khéo: trí.
Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội Trung Quốc đã đợc
các thế hệ học trò bổ xung và học thuyết Nho giáo đã ngày càng đợc biến
đổi và hoàn thiện hơn.
Tóm lại, lịch sử Nho giáo từ khi hình thành trải qua các b ớc phát
triển đã kéo dài hơn hai mơi lăm thế kỷ ở Trung Hoa, ảnh hởng của Nho
giáo đối với các nớc xung quanh khá sâu sắc, góp phần tạo nên những quốc
gia đợc gọi là đồng văn với nhau, tiêu biểu nh Nhật Bản và Việt Nam đã
trải qua hàng nghìn năm từ tiếp thu và chịu tác động mạnh mẽ của t tởng
Nho giáo trên mọi mặt đời sống chính trị - xã hội.

Chơng 2
Quá trình tiếp thu Nho giáo ở Nhật Bản và
Việt Nam thời kỳ cổ trung đại
2.1. Quá trình tiếp thu Nho giáo ở Nhật Bản

Là đất nớc của đảo và biển, Nhật Bản có phần tách rời với lục địa để
phát triển một cách độc lập. Giữa cái không gian địa lý có quá nhiều biến
động và vô cùng khắc nghiệt ấy con ngời Nhật Bản đã không ngừng vơn lên
xây dựng một nớc Nhật lớn mạnh mà vẫn luôn mang đậm bản sắc của dân
tộc. Nói về ngời Nhật nhiều học giả đã khẳng định: ngoài tình yêu thiên

21


nhiên bởi những ân huệ mà thiên nhiên ban tặng, họ còn là những con ngời
kiên cờng, nhẫn nại, có ý thức tự chủ và sự khéo léo. Hơn hết, xuất phát từ
cuộc sống nông nghiệp, ngời Nhật còn thể hiện tình yêu lao động với tính
kỉ luật cao và tinh thần đoàn kết cộng đồng mạnh mẽ. Những đức tính đó
trải qua nhiều biến động của lịch sử xã hội vẫn không thay đổi, nó đ ợc ghi
nhận là đặc trng tiêu biểu trong tính cách của ngời Nhật. Trong đó, ý thức
tự chủ dân tộc mạnh mẽ đã giúp ngời Nhật giữ vững bản sắc văn hoá dân
tộc trong xu thế lan truyền của văn hoá ngoại lai. Bằng chứng cụ thể nhất
chính là việc Nhật Bản tiếp thu Nho giáo gốc Trung Hoa trong sự biến tấu
cho phù hợp với điều kiện đất nớc.
Nhật Bản sản sinh ra rất ít nhà t tởng lớn và ít triết gia - là nhận xét
của nhà báo Pháp Rôbe Ghilanh và đã đợc nhiều nhà nghiên cứu tơng đối
đồng tình. Hầu nh Nhật Bản không mang lại cho nhân loại một học thuyết
triết học nào độc đáo, phần nhiều là chịu ảnh hởng và tiếp thu triết học, t tởng của nớc Trung Hoa. Trong xu thế đó, Nho giáo thâm nhập vào Nhật
Bản, tồn tại và phát triển qua một quá trình dài lâu, đợc ngời Nhật tiếp thu
một cách triệt để phục vụ cho nhu cầu cần có một học thuyết về chính trị và
đạo lý sống cho xã hội Nhật. Tìm hiểu quá trình tiếp thu Nho giáo ở Nhật
Bản thời cổ trung có thể thấy nó trải qua các giai đoạn kế tiếp nhau.
2.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ V đến thế kỷ VII
Từ cuối thế kỷ IV, Nhật Bản đã đặt quan hệ với các vơng quốc ở bán
đảo Triều Tiên. Qua con đờng Triều Tiên, Nhật Bản nhập nhiều kỹ thuật

phát triển ở Trung Quốc từ đời Hán nh dệt, thuộc da, làm kim khí, đóng
thuyền vợt biển. Nhật Bản học tập của Trung Quốc và Triều Tiên văn hoá,
nghệ thuật, tri thức về lịch tính thời gian, thiên văn học. Hai hệ t tởng quan
trọng đợc hấp thụ cũng từ con đờng này là Nho giáo và Phật giáo. Trong đó
Nho giáo với tác động mạnh về mặt triết lý và biện pháp trị quốc từ Trung
Quốc đã đến Nhật Bản qua một quá trình du nhập lâu dài.
Theo Cổ sự ký và Nhật Bản th kỷ - hai bộ sử tối cổ của Nhật Bản
có ghi chép về sự kiện Nho giáo truyền vào nớc này nh sau:
Vào thế kỷ V, thời ứng Thần Thiên Hoàng (Ojintennô) vua nớc Bách
Tế là Tiêu Cổ (Shôko) có phái sứ giả là Achigi (A Trực Kỳ) dâng hai con
ngựa tốt. (Bách Tế là một trong ba tiểu quốc ở bán đảo Triều Tiên thời ấy,
cùng với Tân La và Cao Câu Ly). Achigi là ngời hay đọc sách nên khi đợc
hỏi về các độc giả nỗi tiếng trong nớc Bách Tế, Ông đã giới thiệu một nhân

22


vật là Vơng Nhân (Wani) rất u tú. Vì vậy triều đình Nhật Bản liền cho mời
Vơng Nhân sang. Vua nớc Bách Tế đã cử Vơng Nhân cùng với đó đã dâng
10 quyển Luận ngữ và một quyển Thiên tự văn cho Triều đình Nhật Bản. V ơng Nhân dạy cho Thái tử Ujino Wakiratsuko (Thố Đạo Trĩ Lang Tử) Kinh
điển Nho gia. Câu chuyện kể trên thờng đợc coi là cái mốc chính thức đánh
dấu sự truyền bá Nho giáo vào Nhật Bản. Tuy nhiên trong thực tế Nho giáo
có thể đã vào sớm hơn cùng với quá trình xâm nhập của chữ Hán vào Nhật
Bản. Lý giải điều này, ngời ta đa ra một số dẫn chứng: ở phía Bắc Bán đảo
Triều Tiên có hai quận Lạc Lãng (Rakurô), Đới Phơng thuộc hệ thống văn
hoá Hán, Nguỵ - đó là loại văn hoá sau khi Hán Vũ Đế dùng Nho giáo làm
quốc giáo. Sau khi hai quận ấy bị diệt vong, nhiều ngời Trung Quốc ở đó đã
phân tán vào các địa phơng của Triều Tiên, rồi bằng nhiều con đờng khác
nhau họ đã đến Nhật Bản. Qua đó có thể thấy hai dòng họ chuyên lo về
giấy tờ chữ nghĩa ở Nhật Bản Yamatonophumi (Đông Văn) có gốc là ngời

Trung Quốc ở quận Đới Phơng và dòng họ Kawachinophumi (Tây Văn) lại
chính là hậu duệ của những nhà Nho ở Bách Tế. Điều này để khẳng định
thêm một lần nữa con đờng du nhập Nho giáo vào Nhật Bản chính là qua
Triều Tiên.
Từ thế kỷ VI trở đi, các Ngũ kinh bác sĩ (học giả về Ngũ kinh) đến
Nhật Bản khá đông. Theo Nhật Bản th kỷ: Vào năm thứ 7 Kế Thể Thiên
Hoàng ( Kutaitennô) vì vấn đề tranh chấp đất đai, nớc Bách Tế đã cử sứ giả
đến Nhật Bản, cống Ngũ kinh bác sĩ Đoàn Dơng Nhĩ (Tanyôni) để đợc Triều
đình Nhật Bản công nhận quyền sở hữu đất đai của mình. Sau đó năm 516,
Bách Tế lại cử sứ giả sang cống Ngũ kinh bác sĩ Hán Cao An Mậu
(Ayanôkôanno) để đổi lại Đoàn Dơng Nhĩ. Trên cơ sở tiếp thu nền văn hoá
đơng thời từ Trung Quốc đặc biệt là t tởng Nho giáo đang rất thịnh hành thì
nhóm Ngũ kinh bác sĩ của Triều Tiên chính là những ngời đã truyền Nho
giáo vào Nhật Bản. Quá trình đó tiếp tục kéo dài trong suốt thời gian sau
đó.
Đến thế kỷ VII, lần đầu tiên ngời ta thấy xuất hiện những sử liệu ghi
lại rõ ràng ảnh hởng của Nho giáo vào Nhật. Từ những dữ liệu mà theo
truyền thuyết để lại thì đến đây đã đợc chứng thực bằng những văn kiện
lịch sử đáng tin cậy. Điều đó đợc thể hiện trong Hiến pháp 17 điều do Thái
tử nhiếp chính Shotôku soạn thảo. Ông đợc đánh giá là một trong những
nhân vặt lỗi lạc trong lịch sử Nhật Bản, là ngời đi đầu trong việc tiếp thu

23


các tri thức mới học đợc của Trung Hoa mang về xây dựng đất nớc. Bản
Hiến pháp 17 điều đã thể hiện trong đó những ảnh hởng nhất định của t tởng Nho giáo, ví nh :
Điều 1, nói về Hoà và Trung Hiếu: Lấy hoà làm quý, lấy thuận làm
tồn. Mọi ngời đều có bè cánh đảng phái, ít ngời sống cô độc một mình, tuy
có bè cánh đảng phái nhng mọi ngời đều phải tuỳ thuận theo đạo quân thần. Nếu thợng hoà hạ mục thì tất cả các sự tranh chấp đều đợc giải quyết

ổn thoả, tất cả sự lý đều cùng thông và mọi việc đều thành tựu. [9,288].
Điều 4, nói về Lễ: Quần thần thuộc hạ lấy lễ làm gốc. Cái gốc của
việc trị dân chính là ở Lễ. Trên phi lễ dới chẳng theo; dới phi lễ ắt có tội.
Cho nên quần thần giữ lễ, vị thứ bất loạn; trăm họ giữ lễ, quốc gia trị yên.
Điều 9, nói về Tín - Nghĩa: Tín là gốc của nghĩa, mọi việc đều phải
giữ tín. Thiện ác, thành bại chủ yếu ở tín. Quần thần giữ tín việc gì chẳng
thành? Quần thần bất tín mọi việc đều bại [33].
Hiến pháp 17 điều do Thái tử Shotôku đề ra đã đợc coi là một văn
kiện lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt đối với xã hội Nhật Bản vì nó
chuyển tải những t tởng lớn từ nền văn minh Trung Hoa vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể của Nhật Bản làm cơ sở cho đất nớc này đi vào cuộc sống tốt
đẹp hơn [22,84]. Ông đã sử dụng những quy tắc và t tởng của Đạo khổng
để thúc đẩy một thực thế quan lại dới quyền của Hoàng đế.
Rõ ràng, Nho giáo đã từng bớc xác lập địa vị của mình trên đất Nhật
Bản. Nhng cũng phải thấy rằng ở giai đoạn này chỉ mới là bớc khởi đầu
đánh dấu sự xâm nhập của một t tởng, tôn giáo mới vào đất nớc này.Trong
khi Phật giáo trở nên thịnh hành, thì trong buổi đầu này Nho giáo không thể
phổ biến nhanh chóng nh Phật giáo phạm vi của nó chỉ hạn chế trong một
bộ phận nhất định của giới thợng lu. Lý giải điều này nh thế nào? Trớc hết
đó là do phơng thức học tập dựa trên sự truyền thụ cá nhân nên việc học chỉ
phổ biến cho hoàng gia, thứ hai là do Nho giáo đơng thời chỉ chú trọng đến
cái học huấn hổ nên nó có vẻ chỉ phù hợp với ngời có học vấn cao mà lại xa
với quảng đại quần chúng. Mặc dù vậy không hẳn Nho giáo không thể
không phát triển ở Nhật Bản. Sau khi du nhập Nho giáo dần khẳng định vị
trí và ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển của xã hội Nhật
Bản. Đặc biệt, sau cải cách Taika một tơng lai mới đã mở ra đối với vận
mệnh của Nho giáo ở Nhật Bản.

24



Kết thúc thời Asuka để chuyển mình sang một thời đại mới, Nhật Bản
đã tiến những bớc dài trên con đờng kiến tạo văn minh của xứ sở mình.
Cùng với đó Nho giáo cũng đã tiếp tục có những bớc chuyển ở Nhật Bản.
2.1.2. Nho giáo dới thời Nara và Heian (thế kỷ VIII - XII)
Năm 710, dới triều Hoàng đế Genmei, kinh đô Nhật Bản từ Asuka
chuyển về Nara một nơi có phong cảnh đẹp, đất đai phì nhiêu thuộc vùng
lòng chảo Yamato và ở đây kinh thành mới Heijôkyô đã đợc xây dựng lên
với quy mô lớn, tợng trng cho thể chế nhà nớc tập quyền Trung ơng Nhật
Bản lúc bấy giờ. Với việc xác lập này đã chấm dứt thời kỳ di đô nay đây
mai đó của Hoàng gia làm cho dân c không an c lạc nghiệp đợc. Nhng phải
thấy rằng kinh thành Heijôkyô đợc xây dựng cũng theo đúng khuôn mẫu
của Kinh đô Trờng An của Đờng, điều này lý giải cho sự phát triển Nho
giáo ở Nhật Bản từ đây. Bởi Nho giáo đợc sử dụng để làm chuẩn mực cho
việc thiết lập một chính quyền tập trung ở Nhật Bản. Thời Nara kéo dài gần
một thế kỷ sau đó triều đình dới sự điều khiển của Tể tớng Fujiwara đã dời
đến Heian bắt đầu thời Heian. Thời Heian đợc gọi là thời quý tộc, vì đó là
thời kỳ dòng họ quý tộc Fujiwara nắm chính quyền, Thiên Hoàng chỉ là h
vị, dòng họ này đã gây ảnh hởng lên triều đình bằng quyền lực ngoại thích
(họ ngoại của vua) và bằng trình độ văn hoá cao của mình. Thành Heian đợc xây dựng từ đây và tồn tại cho đến năm 1868 (Minh Trị duy tân) cho
thấy sự phát triển bền vững của chế độ phong kiến bằng những thay đổi
trong phơng pháp cai trị để phù hợp với điều kiện thực tế trong n ớc. Mặc dù
vẫn dựa trên mô hình của Trung Hoa nhng không áp dụng một cách máy
móc, rập khuôn. Vì vậy đã đa xã hội đạt đợc những bớc tiến so với thời kỳ
trớc.
Trong suốt giai đoạn lịch sử từ Nara đến Heian, nhà nớc Nhật Bản rất
chú trọng tới việc học tập văn hóa Trung Hoa bằng cách th ờng xuyên cử các
đoàn Khiển Đờng sử sang Trờng An. Văn hóa Tùy, Đờng ở Trung Quốc đã
có ảnh hởng sâu rộng tới Nhật Bản trong suốt thời gian này. Tính trong
khoảng gần 200 năm từ thời Nara đến đầu thời Heian có tất cả 18 đoàn đợc

cử sang học tập chính thức. Mặc dù vợt biển Nhật Bản lúc bấy giờ là thật sự
gian nan và nguy hiểm, nhng số ngời tham gia lu học ở Trung Quốc vẫn rất
đông (Có đoàn đến 557 ngời) [31]. Sự hấp dẫn của văn hoá lục địa đã thôi
thúc những lớp ngời Nhật Bản tìm đến học tập, tiếp thu và mang về áp dụng
xây dựng đất nớc mình. Trong đó sức hút của t tởng Nho giáo cũng trở nên

25


×