Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tìm hiểu nội dung phần phong cách học trong SGK ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.18 KB, 67 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu quy tắc,
quy luật và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ nhằm
biểu hiện một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định trong những Phong cách chức
năng ngôn ngữ nhất định. Và nhiệm vụ chính của Phong cách học là đánh giá đúng
ngôn ngữ dân tộc, tiên đoán con đường phát triển của nó, xây dựng những khuôn
mẫu diễn đạt tối ưu trong việc sử dụng ngôn ngữ, góp phần phát triển tiếng Việt,
làm cho nó ngày càng giàu đẹp.
Vì Phong cách học là một bộ phận của hệ thống ngôn ngữ, mang những đặc
trưng cơ bản của ngôn ngữ ấy, nên cũng như ngôn ngữ nói chung, Phong cách học
có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động giao tiếp. Khi giao tiếp, mỗi người vận
dụng cái vốn ngôn ngữ đã có trong kí ức của mình để tạo ra những phát ngôn
(những văn bản), tức là những phương tiện giúp người nói đạt dến những mục đích
thực tiễn trong đời sống. Người nói cần phải lựa chọn, kết hợp như thế nào đó
những yếu tố ngôn ngữ mà xã hội cho là thích hợp nhất trong việc giải quyết một
nhiệm vụ giao tiếp nhất định. Nhưng sự lựa chọn đó chủ yếu dựa vào sự chuẩn
mực hay còn gọi là chuẩn mực ngôn ngữ, là toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ đã
sử dụng và được mọi người thừa nhận được coi là đúng và mẫu mực trong xã hội,
và đó cũng là những quy tắc sử dụng của xã hội đó đối với ngôn ngữ.
Bên cạnh đó Phong cách học còn có vai trò quan trọng. Đó là cùng với nó và
phần ngữ nghĩa của câu đã khép lại toàn bộ chương trình Tiếng Việt ở trường phổ
thông. Điều này cho chúng ta thấy rằng việc học tiếng mẹ đẻ của học sinh không
thể dừng lại ở từ và câu. Việc học tiếng cần tiến tới chỗ giúp học sinh biết cách tổ
chức văn bản. Văn bản thì bao giờ cũng thuộc về một phong cách nhất định.
Hơn nữa cung cấp Phong cách học cho học sinh chính là cung cấp cho học
1


sinh những tri thức về Phong cách học đã được hệ thống hóa, được nâng cao so với
lớp dưới, đảm bảo cho các em có cơ sở lý thuyết cần thiết để rèn luyện kỹ năng lĩnh


hội văn bản, kỹ năng tạo lập văn bản và kỹ năng nói, viết thích hợp với các điều
kiện giao tiếp.
Như vậy chúng ta thấy rằng phần Phong cách học ở THPT nhằm giúp cho
học sinh cũng cố các tri thức về Phong cách học, tu từ học đã tiếp thu ở lớp dưới
sau đó nâng cao dần thành cơ sở lý thuyết vận dụng nó vào việc tự xây dựng văn
bản của mình, tự sửa chữa những sai sót, và hình thành dần năng lực nói, viết có
nghệ thuật. Nói một cách khác nó giúp học sinh thưởng thức cái hay của một văn
bản viết, nói đúng phong cách và tự mình biết xây dựng cách viết cách nói đúng
chuẩn.
1.2. Suốt một quá trình dài trước đây, nói đến môn Văn, người ta chỉ coi
trọng Giảng văn mà không quan tâm mấy đến phần Phong cách học nói riêng và
phân môn Tiếng Việt nói chung trong nhà trường phổ thông. Việc dạy tiếng Việt
chưa thực sự được chú trọng và đầu tư đúng mức. Do đó hiệu quả học tập của phân
môn này chưa cao. Điều này dẫn đến tình trạng trong quá trình viết bài, kiểm tra,
thi cử,… cũng như trong giao tiếp hàng ngày học sinh thường phạm phải những lỗi
như: dùng sai phong cách, sai kỹ năng viết văn bản.
Hơn nữa, việc thay đổi chương trình SGK Ngữ văn mới dù đúng đắn, tích
cực nhưng cũng gây ra rất nhiều khó khăn, lúng túng cho cả giáo viên và học sinh
trong quá trình dạy và học.
Vì những lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài: Tìm hiểu nội dung phần phong cách
học trong SGK Ngữ văn THPT. Phong cách học nếu được nghiên cứu một cách sâu
sắc kỹ lưỡng, thì sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực, có thể giúp ích nhiều cho
giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học ở trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
Như chúng ta đã biết cùng với Từ ngữ, Ngữ pháp, Phong cách học cũng là
một bộ phận nằm trong phân môn Tiếng Việt, là bộ phận quan trọng của hệ thống
2


ngôn ngữ. Do đó, Phong cách học đã thực sự quan tâm chú ý của rất nhiều nhà

nghiên cứu. Đã có nhiều công trình khác nhau bàn về Phong cách học, tuy nhiên ở
đây chúng tôi không bàn về lịch sử vấn đề của tiếng Việt nói chung, mà chúng tôi
có điểm nhấn riêng – nghĩa là chỉ nói riêng phần Phong cách học được đưa vào
giảng dạy ở chương trình phổ thông.
Trước đây, nội dung phần Phong cách học đã được đưa vào SGK Tiếng Việt
THPT nhưng thực sự chưa được chú trọng đúng mức. Phần Phong cách học, mặc
dù cũng được nghiên cứu nhưng chưa mang tính toàn diện, sâu sắc mà nó còn
mang tính nhỏ lẻ, sơ sài và rất ít được chú ý. Nghĩa là, khi nghiên cứu về Tiếng việt
hầu như các tài liệu chỉ tập trung quan tâm đến phần Từ ngữ, Ngữ pháp. Tiêu biểu
có các công trình như: Sổ tay tiếng Việt THPT của hai tác giả Đinh Trọng Lạc, Lê
Xuân Thại, Tiếng Việt trong trường học của Lê Xuân Thại và cuốn Sổ tay kiến thức
tiếng Việt THPT Đỗ Việt Hùng. Trong những công trình này, Tiếng Việt được
nghiên cứu một cách chung chung, không phân ra từng hợp phần cụ thể. Nhưng
thực ra, phân môn Tiếng Việt là một hệ thống trong đó bao gồm các hợp phần Từ
ngữ, Ngữ pháp, Phong cách học.
Hiện nay nội dung Phong các học đã được quan tâm chú ý, các nhà nghiên
cứu đã có cách nhìn hệ thống hơn về nó. Phong cách học dần dần khẳng định tầm
quan trọng của mình.
Nội dung phần Phong cách học phải kể đến một số giáo trình đại học.
Phong cách học tiếng Việt do Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa biên soạn đã
miêu tả tỉ mỉ sáu phong cách chức năng trong tiếng Việt. Đối với mỗi phong cách,
các tác giả đều chú ý nêu khái niệm, đặc trưng và yêu cầu sử dụng ngôn ngữ. Bên
cạnh đó, cũng phải kể đến cuốn Phong cách học chức năng của Hữu Đạt. Vấn đề
quan niệm, đặc điểm ngôn ngữ, kết cấu của phong cách đã tác giả quan tâm, dù sự
lí giải chưa phải đã thấu đáo.
Là một giáo trình về phương pháp dạy học, cuốn Phương pháp dạy học
Tiếng Việt của tác giả Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán cũng không thể
3



không đề cập đến vấn đề dạy học phần Phong cách học trong chương trình Tiếng
Việt THPT. Đây là giáo trình được biên soạn dựa theo chương trình và SGK Tiếng
Việt cũ nên hiện nay, có một số nội dung không phù hợp. Do vậy, người sử dụng
sách phải có sự đối chiếu để nắm được những vấn đề không còn cập nhật.
Và hiện nay, Tiếng Việt không còn là một phân môn độc lập tách rời như
trước nữa mà có liên quan chặt chẽ với các phân môn: Đọc - hiểu, Làm văn trong
chương trình SGK Ngữ văn. Vì vậy, tìm hiểu về Phong cách học, phải xem xét
trong các tài liệu về môn Ngữ văn nói chung trong nhà trường THPT. Đáng chú ý ở
đây là cuốn: Kỷ yếu hội thảo khoa học dạy học Ngữ văn ở trường THPT theo
chương trình SGK mới của Nxb Nghệ An 2007. Cuốn sách đã tập hợp bài viết của
hơn 50 tác giả, bàn về vấn đề đổi mới dạy học Ngữ văn, trong đó có các bài viết về
môn Tiếng Việt của tác giả: Đặng Lưu, Hoàng Trọng Canh, Dương Đức Thọ,
Nguyễn Hoài Nguyên, Nguyễn Bản Nhã….
Trên đây, chúng tôi đã cố gắng nêu lịch sử nghiên cứu vấn đề về Phong cách
học trong chương trình THPT từ trước đến nay. Qua đó, chúng tôi nhận thấy rằng:
các công trình nghiên cứu đã khai thác nội dung phần Phong cách học chưa phải
đã có sự thống nhất về các nội dung khoa học.
Thiết nghĩ phần Phong cách học có nội dung đa dạng và phong phú cho nên
chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói của mình vào sự phong phú và đa dạng
đó. Hơn nữa phần Phong cách học trong SGK Ngữ văn cơ bản và nâng cao có
nhiều sự thay đổi về nội dung, chương trình và kết cấu nên cần tìm hiểu kỹ để có
phương pháp tiếp cận và học tập có hiệu quả hơn. Đề tài nghiên cứu này hi vọng
sẽ góp phần nhỏ vào giải quyết những vấn đề cấp thiết đó.
3. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tiến hành tìm hiểu về nội dung phần Phong cách học trong SGK
Ngữ văn THPT ở cả hai bộ sách cơ bản và nâng cao. Cụ thể nghiên cứu tri thức ở
sáu bài Phong cách chức năng mà cả hai bộ sách đã đề cập tới.
4



+ Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
+ Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
+ Phong cách ngôn ngữ báo chí.
+ Phong cách ngôn ngữ chính luận.
+ Phong cách ngôn ngữ khoa học.
+ Phong cách ngôn ngữ hành chính.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói vào việc
khẳng định tầm quan trọng của phần Phong cách học nói riêng và phần Tiếng Việt
nói chung trong nhà trường THPT. Đặc biệt chúng tôi mong muốn giúp cho giáo
viên và học sinh THPT hiểu rõ hơn về chương trình và SGK Ngữ văn cơ bản, SGK
Ngữ văn nâng cao, đồng thời đưa đến một cái nhìn sâu sắc toàn diện về nội dung
phần Phong cách học trong hai bộ sách. Từ đó sẽ có những biện pháp, nâng cao
hiệu quả trong quá trình dạy và học.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một cách khái quát chung SGK Ngữ văn và nội dung phần Phong
cách học cả trong 2 bộ sách cơ bản và nâng cao.
- Trình bày một cách chi tiết, cụ thể và đầy đủ tri thức trong các bài Phong
cách học.
- Phân tích đưa ra những nhận xét về phần Phong cách học trong SGK Ngữ
văn THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt các mục đích, nhiệm vụ đã nêu, luận văn chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
5



- Chương 1: Tổng quan về phần Tiếng Việt trong các bộ SGK Ngữ văn THPT
- Chương 2: Nội dung phần Phong cách học trong SGK Ngữ văn THPT.
- Chương 3: Nhận xét về nội dung phần Phong cách học trong SGK Ngữ văn
THPT.
Sau cùng là Tài liệu tham khảo.

6


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHẦN TIẾNG VIỆT
TRONG CÁC BỘ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN THPT
1.1. Những quan điểm mới trong biên soạn SGK Ngữ văn
Sau năm 1975, chương trình và SGK môn Văn - Tiếng Việt trong nhà trường
bắt đầu tiến hành đổi mới. Từ năm 1980-1992 xong một vòng. SGK THPT được
biên soạn từ năm 1990-2000 (10 năm) mới tiến hành hợp lý hai bộ sách làm một.
Cũng có thể nói rằng SGK Văn – Tiếng Việt chỉnh lí THPT năm 1995 và SGK hợp
nhất THPT năm 2000 không có gì thay đổi lớn.
Mãi đến năm 2000 (sau 15 năm), chương trình Ngữ văn THPT mới thực sự có
những điều đổi căn bản. Nhưng sự đổi mới này là hoàn toàn cần thiết, vì thế mới
được Chính phủ phê duyệt và Quốc hội thông qua bằng nghị quyết số 40 NQBGD.
Tiếp nối SGK Ngữ văn THCS, SGK Ngữ văn THPT đã đưa vào thí điểm ở 50
trường trong toàn quốc từ năm 2003 và sau một thời gian thí điểm, năm 2006 SGK
Ngữ văn lớp 10 đã chính thức được đưa vào giảng dạy với hai chương trình và hai
bộ sách: Ngữ văn 10 và Ngữ văn 10 nâng cao. Đến năm 2007, chương trình và
SGK Ngữ văn 11, năm 2008 SGK Ngữ văn 12 cũng được đưa vào giảng dạy trong
nhà trường THPT.
So với chương trình SGK cũ (chỉnh lý và hợp nhất) thì chương trình và SGK

mới hiện nay có rất nhiều điểm đổi mới, tích cực. Và điểm đổi mới tích cực nhất
chính là quan điểm tích hợp.
Xu thế phất triển chương trình và đổi mới quan niệm về SGK THPT của các
nước trong khu vực và trên thế giới buộc Việt Nam phải đổi mới. Qua tìm hiểu tài
liệu, chúng tôi được biết: một số nước trên thế giớ như: Mĩ, Đức, Nga, Pháp, Trung
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,… cũng đã xây dựng chương trình và SGK theo quan
điểm tích hợp. Các phân môn tiếng dân tộc, Văn học và Tập làm văn trong nhà
trường của các nước nói trên đều được thể hiện ngay trong một cuốn SGK. Học
7


sinh chỉ học theo cuốn sách này thì đã đạt đến trình độ chuẩn của môn học.
Bên cạnh đó, những em còn có ý muốn đi sâu vào tìm hiểu hay mong muốn
học tiếp thì cũng đã có những cuốn sách tham khảo riêng. Còn ở Việt Nam, SGK
các phân môn Tiếng Việt, Đọc - hiểu, Làm văn cũng được biên soạn theo quan
diểm tích hợp.
Ở chương trình cũ, Tiếng Việt, Văn học, Tập làm văn có bộ sách riêng,
chúng hoàn toàn đứng riêng, tách rời, ít liên quan ràng buộc lẫn nhau.
Nay chương trình mới được gọi là Ngữ văn và SGK chỉ còn một cuốn chung
cho cả ba phân môn. Như thế có sự thay đổi này là sự tiếp tục, nối với môn Ngữ
văn THCS thành một chỉnh thể thống nhất đảm bảo tính liên thông đồng bộ và nhất
quán.
Chương trình mới được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp, tích hợp ớ đây
được hiểu là sự gắn kết, phối hợp các lĩnh vực tri thức gần nhau của các phân môn
Đọc - hiểu, Tiếng Việt, Làm văn nhằm hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết cho học sinh.
Ba phân môn Tiếng Việt, Văn học, Tập làm văn được in chung thành một
cuốn có tên chung Ngữ văn. Theo đó, số lượng các đầu sách bắt buộc của giáo viên
và học sinh cũng có sự thay đổi. Trước đây mỗi phân môn Tiếng Việt, Văn học,
Tập làm văn có ba đầu sách bắt buộc, không kể sách tham khảo bao gồm: một cuốn

cho học sinh, một cuốn hướng dẫn cho giáo viên và một cuốn là sách bài tập (trừ
phân môn Văn học chưa có sách bài tập). Như vậy, tổng số của ba phân môn ở một
lớp có tám đầu sách, trong đó có năm cuốn dành cho học sinh, ba cuốn dành cho
giáo viên – lượng đầu sách nhiều như vậy đã tạo nên sự rườm rà trong quá trình
dạy và học. Còn hiện nay, toàn bộ môn Văn chỉ có ba đầu sách: một cuốn dành cho
giáo viên, một cuốn dành cho học sinh và một dành chung cho cả giáo viên và học
sinh (cuốn sách bài tập).
Do có sự đổi mới khác biệt như vậy, cho nên việc tổ chức đội ngũ các tác giả
biên soạn chương trình và SGK cũng khác nhau. Trước đây, do các phân môn đứng
8


độc lập tách rời nhau nên đội ngũ biên soạn cũng độc lập, tách rời nhau. Chẳng hạn
tổ biên soạn sách Tiếng Việt chỉ còn quan tâm dến chương trình và SGK Tiếng
Việt, không cần quan tâm đến người biên soạn chương trình và SGK Văn học,
SGK Làm văn soạn theo chương trình gì bao gồm cách nào bài nào. Ngược lại,
người biên soạn SGK Văn học hay Tập làm văn lại không cần phải để ý đến lĩnh
vực của Tiếng Việt, nghĩa là giữa ba phân môn này hoàn toàn độc lập không có một
sợi dây liên kết nào. Nó không chi phối, không quy định và phụ thuộc vào nhau.
Tuy nhiên, việc biên soạn SGK Ngữ văn mới lại hoàn toàn không phải như vậy.
Vấn đề được đặt ra ở đây khó khăn và phức tạp hơn nhiều.
Thứ nhất là phải tập hợp được đội ngũ các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên
ngành khác nhau, sau đó tổ chức phân công nhiệm vụ cụ thể, trong đó có một tổng
chủ biên, ba chủ biên phụ trách ba phân môn khác nhau đó là: Đọc - hiểu, Làm văn,
Tiếng Việt. Còn những người được mời tham gia biên soạn sách thì làm việc dưới
sự chỉ đạo của các chủ biên. Tổng chủ biên chịu trách nhiệm điều hành. Do có phối
hợp chặt chẽ như vậy nên lẽ dĩ nhiên là trong quá trình biên soạn chương trình, các
tác giả cũng phải phụ thuộc vào nhau, làm việc theo sự tổ chức, điều hành của một
người đứng đầu là tổng chủ biên. Nghĩa là khi nghiên cứu xây dựng phân môn này
thì bắt buộc họ phải theo dõi, nghiên cứu nội dung chương trình của các phân môn

kia làm sao để nội dung các bài của các phân môn đều có quan hệ chặt chẽ với
nhau theo đúng tinh thần của nguyên tắc tích hợp. Vậy nội dung và cấu trúc của
sách được biên soạn như thế nào theo nguyên tắc ấy?
Do mỗi phân môn đều có phần chung nhưng cũng có phần riêng bởi tính độc
lập của chúng và do một số yêu cầu của khoa học, nên trong một bài thường khai
thác ở cả ba nội dung: Đọc - hiểu văn bản, Tiếng Việt và Làm văn. Ba nội dung này
liên quan đến nhau làm sáng tỏ cho nhau. Cho nên khi dạy Đọc - hiểu văn bản cho
học sinh thì nhà trường phải hình thành cho các em năng lực vận dụng tổng hợp các
kiến thức Tiếng Việt, Làm văn và kiến thức lịch sử, văn hóa - nghệ thuật khác nữa.
Học tiếng Việt cũng là Đọc - hiểu văn bản cho tốt, và cũng là để viết tiếng Việt
9


đúng và hay hơn. Bên cạnh đó, ta còn thấy rằng: mục tiêu trực tiếp của môn Ngữ
văn THPT là hình thành và rèn luyện cho học sinh năng lực Đọc - hiểu cũng như
tạo lập các loại văn bản. Vì thế, chương trình cũng được xây dựng theo hai mục
đích tích hợp là đọc văn và làm văn. Đó không phải là hai phân môn mà là hai hoạt
động chính cần tập trung và hình thành rèn luyện cho học sinh trong môn học này.
Tất cả tri thức và kĩ năng của ba phân môn Văn học được tích hợp theo trục này và
gọi là tri thức Đọc - hiểu văn bản. Lâu nay, có một số người quan niệm: học tiếng
là để phục vụ cho học văn, điều đó hoàn toàn không đúng, vì nó làm cho ta có cảm
giác học Tiếng và học Văn về bản chất không có quan hệ với nhau, Tiếng phục vụ
Văn như là phục vụ một cái gì đó bên ngoài mình. Quan niệm như trên là lệch lạc.
Vì thực ra về bản chất ngôn ngữ là phương tiện tạo nên cái đẹp – là hình tượng
nghệ thuật, học Văn học, học sinh sẽ thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ, yêu văn
chương lại càng yêu tiếng Việt hơn. Không những thế, mối quan hệ khăng khít giữa
ba phân môn này còn được thể hiện ở chỗ: các vấn đề riêng của mỗi phân môn
được hệ thống lại, xâu chuỗi lại trong bài tổng kết hoặc ôn tập cuối năm cho mỗi
lớp ở mỗi cuốn sách.
Tóm lại, so với chương trình và SGK trước đây thì chương trình và SGK hiện

nay tạo một bước cải tiến mới, vừa phù hợp về mặt khoa học, mặt sư phạm vừa phù
hợp với cả xu thế thời đại.
1.2. Vài nét về các bộ SGK Ngữ văn THPT
1.2.1. Sự khác nhau giữa hai bộ sách
Điều đặc biệt trong chương trình SGK Ngữ văn mới tồn tại song song hai bộ
sách: bộ SGK Ngữ văn cơ bản và bộ SGK Ngữ văn nâng cao.
Chương trình SGK Ngữ văn cơ bản giành cho học sinh ở các ban: KHTN và
ban cơ bản. Chương trình nhằm đáp ứng cho các em học sinh có nhu cầu nắm vững
các nội dung môn học để có thể hoàn thành tốt kỳ thi tốt nghiệp THPT.
Chương trình SGK Ngữ văn nâng cao, ngoài những nội dung có trong chương
trình cơ bản còn có thêm một số yêu cầu và nội dung khác biệt nhằm đáp ứng nhu
10


cầu của học sinh không chỉ thi tốt nghiệp mà còn thi vào đại học, vào các nghành
khoa học xã hội và nhân văn.
Do vậy, yêu cầu về nội dung, về khối lượng kiến thức và về kỹ năng của hai
chương trình không quá chênh lệch: nội dung chương trình cơ bản được xác định là
mặt bằng kiến thức, kỹ năng cơ bản (tối thiểu đại trà). Sau đó bổ sung một số tri
thức và kỹ năng trong chương trình nâng cao. Việc nâng cao bằng cách thêm thời
gian, số lượng tác phẩm, tri thức đọc văn, yêu cầu viết bài hoặc là cùng một tác
phẩm nhưng có thời gian nhiều hơn để có điều kiện khai thác nhiều hơn. Ngoài ra,
còn có một số hình thức luyện tập trong Làm văn chỉ dành cho học sinh nâng cao
(chương trình nâng cao).
Việc thể hiện hai bộ sách Ngữ văn có ưu điểm là giúp giáo viên và học sinh có
thêm tài liệu tham khảo, đối chiếu, so sánh …từ đó có định hướng học tập cho bản
thân. Tuy nhiên, cách thể hiện cụ thể của hai bộ sách nếu không chú ý sẽ gây khó
khăn trong việc kiểm tra, đánh giá, thi cử. Trong nhà trường phổ thông, một giáo
viên có thể dạy cả hai bộ sách vì thế cần nắm được những điểm giống và khác nhau
giữa hai bộ sách để thực hiện tốt yêu cầu của mình.

Do liên quan chặt chẽ với nhau như vậy nên, hai chương trình này có những
điểm thống nhất như sau:
Thống nhất về hệ thống văn bản, hệ thống thuật ngữ, khái niệm, quan niệm về
các vấn đề lịch sử văn học, lý luận văn học, tiếng Việt, và Làm văn. Tất cả những
văn bản Đọc - hiểu có trong SGK Ngữ văn cơ bản đều có trong SGK Ngữ văn nâng
cao.
Thống nhất vế sự phân bổ nội dung dạy học cho mỗi lớp.
Thống nhất về phương pháp dạy học và những yêu cầu đổi mới về phương
pháp, phương tiện dạy học cơ bản là giống nhau (tính tích cực, tích cực hóa hoạt
động của người học, hình thành phương pháp đọc - hiểu và thói quen tự học, vận
dụng đúng và có hiệu quả các phương tiện dạy học đặc biệt là công nghệ và thông
tin).
11


Nội dung kiến thức và kỹ năng của các văn bản, đọc - hiểu văn bản trùng nhau
giữa hai bộ sách: cùng bám sát và đảm bảo yêu cầu của chuẩn chương trình đề ra.
Nội dung yêu cầu kiến thức, kỹ năng của phần tiếng Việt, Làm văn giữa hai bộ
sách là giống nhau.
Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở hai bộ sách là thống nhất.
Tuân thủ những yêu cầu của chương trình và chương trình chuẩn.
Do đối tượng người học tính chất và yêu cầu của mục tiêu đào tạo khác nhau
nên việc biên soạn hai bố sách vừa có sự thống nhất nhưng cũng có điểm khác biệt.
Điểm khác biệt thể hiện rõ:
- Thời lượng dạy và học khác nhau
Ngữ văn
Nâng cao
Cơ bản

Lớp 10

4 tiết/ tuần
3 tiết/ tuần

Lớp 11
4 tiết/ tuần
3,5 tiết/ tuần

Lớp 12
4 tiết/ tuần
3 tiết/ tuần

Tổng
12 tiết/ tuần
9,5 tiết/ tuần

Về nội dung học tập: bộ SGK Ngữ văn nâng cao có thêm một số nội dung học
tập mà SGK Ngữ văn cơ bản không có. Trong chương trình nâng cao, số lượng văn
bản được học và đọc thêm nhiều hơn, học kỹ hơn một số tác gia văn học. Trang bị
thêm một số kiến thức về lý luận văn học, tri thức Đọc- hiểu, kiến thức và kỹ năng
tạo lập văn bản.
Về cấu trúc sách: do đối tượng học khác nhau cho nên cấu trúc và cách biên
soạn của hai bộ sách cũng khác nhau.
Cấu trúc SGK Ngữ văn cơ bản: có phần ghi nhớ, không có bài tập nâng cao.
Cấu trúc SGK Ngữ văn nâng cao không có phần ghi nhớ có thêm mục tri thức
đọc- hiểu và bài tập nâng cao.
Về cách khai thác bài học: khai thác ở hệ thống câu hỏi và cách dẫn dắt vấn đề
cần trình bày.
Về trí thức: Hai bộ sách khác nhau vế số lượng từ ngữ cần chú thích và mức
độ chi tiết của nội dung được chú thích. Trong trường hợp này nên tránh chú thích
cùng một từ nhưng có nội dung trái ngược nhau giữa hai bộ sách.

12


Về số bài viết: Bộ SGK Ngữ văn nâng cao có số bài viết nhiều hơn so với
SGK Ngữ văn cơ bản, học sinh học theo chương trình nâng cao sẽ được luyện viết
nhiềuhơn.
Tóm lại, hai bộ SGK Ngữ văn cơ bản và nâng cao có nhiều điểm giống nhau
nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Khi tìm hiểu và giảng dạy hai bộ sách này,
giáo viên cần chủ động phân biệt và đánh giá sự khác nhau mốt cách cẩn thận và
chính xác.
1.2.2. Sự khác nhau giữa sách tiếng Việt 11 cũ và phần Tiếng Việt trong
SGK Ngữ văn 11 mới
SGK Ngữ văn 11 biên soạn theo chương trình chuẩn đã được đưa vào hoạt
động dạy và học ở THPT 2007 - 2008. Tuy nhiên, mặc dù được biên soạn theo
nguyên tắc tích hợp nhưng vẫn có phần dành riêng cho tiếng Việt (cũng như phần
dành riêng cho Văn học và Tập làm văn). So với chương trình SGK hợp nhất năm
2000 thì SGK Ngữ văn nói chung và phần tiếng Việt nói riêng có những điểm khác
biệt về nội dung, cấu trúc, sự phân bố, nguyên tắc, phương pháp biên soạn. Những
điều đó tất nhiên phải dẫn đến những cách thức dạy và học khác với trước đây.
Sách Tiếng Việt lớp 11 (2000)
Phân môn Tiếng Việt trong sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000 được biên soạn
thành một quyển sách riêng (sách Tiếng Việt 11).
Nội dung và cấu trúc của cuốn sách này là: Biên soạn theo nguyên tắc hệ
thống trong nội bộ ngôn ngữ. Ngoài các chương, bài trình bày về ngôn ngữ và tiếng
Việt nói chung thì lần lượt dạy học tiếng Việt theo đơn vị ngôn ngữ bậc thấp đến
ngôn ngữ bậc cao. Ở lớp 10 dạy về từ ngữ, về cấu tạo của câu, liên kết câu trong
văn bản và các biện pháp tu từ. Về câu thì đến chương trình lớp 11 ngoài một
chương dạy và học nghĩa của câu còn lại dành hẳn một chương lớn cho tất cả các
phong cách ngôn ngữ. Cách biên soạn như vậy khiến cho sách gần như một giáo
trình tiếng Việt ở bậc đại học thu nhỏ.

Cụ thể ở chương Phong cách học tiếng Việt: gồm những bài khái quát về
13


Phong cách học (Những hiểu biết cơ bản về Phong cách học) và các bài lần lượt về
tất cả các phong cách ngôn ngữ.
+ Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
+ Phong cách ngôn ngữ gọt giũa.
+ Phong cách ngôn ngữ khoa học và Phong cách ngôn ngữ chính luận.
+ Phong cách ngôn ngữ báo chí – công luận và Phong cách ngôn ngữ hành
chính.
+ Phong cách ngôn Ngữ văn chương.
Có thể nói sách Tiếng Việt 11 năm 2000 chưa thể hiện được rõ sự liên thông
tiếp nối kiến thức và kỹ năng về tiếng Việt mà học sinh đã tiếp nhận ở THCS. Có
những bài gần như lặp lại nội dung đã học ở THCS.
Chẳng hạn: Phong cách ngôn ngữ được định nghĩa một cách đơn giản, là sự
diễn đạt bằng hai dạng nói và viết có thể quy về một số kiểu nhất định [6, tr. 27].
Tất cả các bài chương đều có hai phần rõ rệt: phần kiến thức lý thuyết và phần bài
tập thực hành.
+ Phần lý thuyết chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh, ít chú ý đến gợi mở để
hình thành kiến thức.
+ Phần bài tập thực hành: Phần này có ở phía sau phần lý thuyết.
Như vậy nhìn chung SGK Tiếng Việt 11 chỉnh lý năm 2000 chưa được chú trọng
đúng mức đến việc phát huy tính tích cực trong việc học tập của học sinh. Trong
khi đó thời lượng dành cho việc dạy môn Tiếng Việt là 33 tiết, nhiều gấp đôi so với
sách Ngữ văn 11 mới hiện hành.
SGK Ngữ văn 11 mới có những điểm khác biệt so với trước. Thời lượng
dành cho tiếng Việt chỉ có 16 tiết, bằng một nửa thời lượng của chương trình cũ.
Tuy nhiên, các bài Đọc văn, Làm văn cũng tham gia vào việc dạy tiếng Việt cho
học sinh và ngược lại. Cho nên không chỉ dạy tiếng Việt trong 16 tiết này mà còn

có sự liên quan chặt chẽ với các phân môn khác.
Ví dụ: Chỉ có 2 tiết phần tiếng Việt dành cho Phong cách ngôn ngữ báo chí
14


nhưng ở phần Làm văn lại có những tiết học và luyện viết bản tin, trả lời phỏng
vấn… là những loại dùng phổ biến trong ngôn ngữ báo chí. Hoặc phần Đọc – hiểu
văn bản khi học một số tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Ngô Đức Kế,
Nguyễn Tuân,… cũng đã gợi nhắc ra đặc trưng của ngôn ngữ báo chí.
Nội dung phần Tiếng Việt SGK Ngữ văn 11 có bốn bài duy trì tên như SGK
Tiếng Việt 11 cũ, đó là:
+ Đặc điểm loại hình của tiếng Việt
+ Nghĩa của câu
+ Phong cách ngôn ngữ báo chí
+ Phong cách ngôn ngữ chính luận.
Ngoài ra, còn một số bài mới nâng cao hơn hay là những bài thực hành để
củng cố kiến thức
Cấu trúc chung của phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 11 mới: không căn
cứ vào hệ thống ngôn ngữ mà chú ý đến các phần Văn học, Tập làm văn. Các bài
tiếng Việt bố trí xen kẽ với các bài Đọc-hiểu, Làm văn vào những vị trí tích hợp tốt
nhất.
Ví dụ: Bài Phong cách ngôn ngữ chính luận được bố trí đồng thời khi phần
giảng văn học một số văn bản nghị luận (Về luân lý xã hội nước ta, Ba cống hiến vĩ
đại của C. Mác…) và xen kẽ phần Làm văn dạy về Thao tác lập luận bình luận.
Có khi nội dung tích hợp thể hiện ngay trong từng bài, từng nội dung của bài
đó. Phần lớn tiếng Việt dựa trên ngữ liệu của các văn bản văn học để tạo nên tác
động hai mặt:
+ Văn bản cung cấp ngữ liệu cho Tiếng Việt
+ Tiếng Việt lại đóng góp vào việc §ọc - hiểu văn bản văn học và Làm văn.
Ngoài ra phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 11 mới tiếp tục biên soạn theo

nguyên tắc đề cao tính tích cực trong học tập của học sinh. Trong mỗi bài lượng
kiến thức không đơn phương đưa vào cho học sinh mà thông qua các hoạt động tìm
hiểu của bản thân học sinh để học sinh tự hình thành kiến thức và kĩ năng. Hoạt
15


động luyện tập thực hành được diễn ra thường xuyên liên tục trong các bài thực
hành thì chỉ có thực hành để mở rộng, củng cố và nâng cao kiến thức cho học sinh
khi kiến đó đã dươc học ở THCS. Tuy không hợp thành một quyển sách riêng và
không phân bố theo bản thân ngôn ngữ nhưng kiến thức và kĩ năng tiếng Việt vẫn
có quan hệ đến kiến thức và kĩ năng ở lớp dưới. Tức là khi dạy về bài thực hành
giáo viên và học sinh cần nhớ lại nội dung tương ứng đã học ở lớp dưới để mở rộng
nâng cao kiến thức và kĩ năng. Mặt khác ngay ở trong những bài học thì kiến thức
và kĩ năng luôn có sự so sánh và đối chiếu.
Ví dụ: học đến phong cách ngôn ngữ chính luận cần so sánh phong cách ngôn
ngữ báo chí (lớp 11) và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt (lớp 10).
Qua sự khác nhau cơ bản đó ta thấy SGK Ngữ văn 11 mới có nhiều điểm tiến
bộ và chuyên sâu hơn. Nguyên tắc tích hợp giữa ba phân môn Tiếng Việt, Đọc
-hiểu văn bản, Làm văn đã phát huy được tính tích cực của học sinh. Nguyên tắc
chú trọng dạy thực hành trong dạy học cũng phù hợp và hỗ trợ cho một nguyên tắc
cần yếu trong dạy học tiếng Việt đó chính là nguyên tắc giao tiếp (hướng vào hoạt
động giao tiếp, phục vụ cho hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ).
1.3. Phần tiếng Việt trong các bộ SGK Ngữ văn THPT
1.3.1. Bộ SGK Ngữ văn cơ bản
Hiện nay ở trường THPT, Tiếng Việt có cương vị là một môn học chính
thức. Nhưng cần thấy rằng nó có vai trò khác hơn so với các bộ môn khác như
Toán, Hóa, Lí… Sự khác nhau ở chỗ là chúng ta có một bộ môn nghiên cứu về
tiếng Việt (thường gọi là Việt Ngữ học) thường xuyên nghiên cứu các vấn đề liên
quan tiếng Việt. Do vậy việc biên soạn SGK Ngữ văn thành hai bộ sách cơ bản và

nâng cao cũng nhằm thể hiện mục đích của nó là phù hợp với đối tượng người học.
SGK Ngữ văn cơ bản (chuẩn) cung cấp lượng kiến thức đúng, đủ cho học
sinh, trong đó có sự kết hợp chặt chẽ của ba phân môn tiếng Việt, Đọc - hiểu và
Làm văn. Tuy nhiên nó vẫn đảm bảo được tính độc lập của từng phần, mỗi phần lại
16


có sự khác nhau về cấu trúc, cuối mỗi phân môn thể loại lại có phần đọc thêm hoặc
luyện tập
1.3.1.1. Nội dung phần tiếng Việt trong bộ SGK Ngữ văn cơ bản
Nếu tiếng Việt trong chương trình giáo dục phổ thông là một môn khoa học
trước hết có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản, hiện đại, phổ
thông về tiếng Việt trên cơ sở đó mà xây dựng và phát triển các kĩ năng, kĩ xảo
nghe, nói, đọc, viết trong hoạt động ngôn ngữ của các em thì cái quan trọng hàng
đầu ở đây tất nhiên sẽ phải là công việc trang bị cho học sinh những tri thức
về từ ngữ, ngữ pháp, ngữ âm, phong cách, văn bản…với những đơn vị và các quy
tắc sử dụng chúng. Trong SGK Ngữ văn cơ bản (chuẩn) đã đảm bảo được những
yêu cầu đó. Những bài tiếng Việt được phân bố rất phù hợp ở trong cả ba cuốn sách
của ba lớp: Lớp 10, lớp 11, lớp 12.
Cụ thể như sau:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10
Tổng

LỚP 10

Bài
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Văn bản
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ
Khái quát lịch sử tiếng Việt
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Những yêu cầu sữ dụng tiếng Việt
Thực hành phép tu từ: phép điệp, phếp đối
Ôn tập phần tiếng Việt
Mười bài

Số tiết
2
1
2
2
1
1
2
2
1
1
15


LỚP 11
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Bài
Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân
Thực hành về thành ngữ và điển cố
Tực hành về nghĩa của từ trong sữ dụng
Phong cách ngôn ngữ báo chí
Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu
Thực hành về sữ dụng một số kiểu câu trong văn bản
Nghĩa của câu
Đặc điểm loại hình của tiếng Việt
Phong cách ngôn ngữ chính luận

17

Số tiết
1
1
1

2
1
1
1
2
2


10
Ôn tập phần tiếng Việt
Tổng 10 bài

1
13

LỚP 12
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Bài
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

Phong cách ngôn ngữ khoa học
Thực hành phép tu từ ngữ âm
Thực hành một số phép tu từ cú pháp
Quá trình văn học và phong cách văn học
Nhân vật giao tiếp
Thực hành về hàm ý
Phong cách ngôn ngữ hành chính
Tổng kết phần tiếng Việt: Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngứ
Tổng kết phần tiếng Việt: Lịch sử, đặc điểm, loại hình

và cách phong cách ngôn ngữ
Tổng 10 bài

Số tiết
1
2
1
1
1
1
1
2
1
1
15

Nhận xét:
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy rằng các đơn vị bài học của phần Tiếng Việt
trong SGK Ngữ văn cơ bản có đầy đủ các hợp phần: Từ ngữ, Ngữ pháp, Phong

cách học. Các hợp phần đó được phân bố đều ở cả ba lớp: lớp 10, lớp 11, lớp 12.
Trong bài dạy đảm bảo được nguyên tắc tích hợp vừa tích hợp bên trong vừa tích
hợp bên ngoài. Tích hợp bên ngoài nghĩa là ở những bài học thuộc những môn học
khác với môn tiếng Việt tức là qua ngữ liệu ở các bài học của những môn học khác.
Đặc biệt là giờ dạy văn có thể hướng dẫn học sinh phân tích nghệ thuật sử dụng
ngôn từ (trong cách dùng từ, đặt câu) của các đoạn trích (hoặc bài được biên soạn
lại). Từ tác phẩm văn học giúp học sinh tăng thêm vốn từ vốn câu, học thêm được
những nguyên tắc sử dụng tiếng Việt, những cách sử dụng mới bằng tiếng Việt phù
hợp với các phong cách chức năng khác nhau ở các bộ môn. Đặc biệt phong cách
chức năng được phân bố đều ở ba lớp, mỗi lớp đảm nhận hai phong cách riêng cụ
thể:
18


Lớp 10:

Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

Lớp 11:

Phong cách ngôn ngữ báo.
Phong cách ngôn ngữ chính luận.

Lớp12:

Phong cách ngôn ngữ khoa học.
Phong cách ngôn ngữ hành chính.

1.3.2. Bộ SGK Ngữ văn nâng cao

SGK Ngữ văn nâng cao cũng được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp, trong
đó, các phân môn Tiếng Việt, Văn học, Làm văn được sắp xếp đan xen nhau nhằm
bổ sung tích hợp cho nhau. Tuy nhiên, SGK Ngữ văn nâng cao ngoài đưa nội dung
đảm bảo chương trình chuẩn nhằm “đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết, phát huy
khả năng tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ và văn học của những học sinh có thiên
hướng Ngữ văn, qua đó góp phần phát triển, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu,
tạo nguồn cho các ngành khoa học, xã hội và nhân văn” (Bộ Giáo dục và đào tạo,
chương trình Giáo dục phổ thông mới).

Chẳng hạn, cuối mỗi thể loại của văn học có tri thức Đọc - hiểu và bài đọc
thêm, cuối phần lý thuyết của phân môn Tiếng Việt đều có phần luyện tập, các bài
luyện tập chiếm tối đa, phân môn Làm văn cũng có các bài lý thuyết kèm theo đó là
những bài luyện tập. Lượng viết bài ở các em chuyên ban C cũng nhiều hơn so với
ban cơ bản.
Văn học (đọc văn) là phần lớn nhất gồm những văn bản đọc chính và đọc
thêm. Những văn bản này được lựa chọn trong kho tàng văn học dân tộc và nhân
loại. Đọc - hiểu văn bản là một việc khó, nhất là văn bản văn học, vì thế phải đọc
văn mới hiểu được văn một cách chính xác và sâu săc. Và SGK Ngữ văn nâng cao
đã đáp ứng được nhu cầu đó. Là sắp xếp các tác phẩm, đoạn trích theo thể loại, phù
hợp với từng thời kỳ lịch sử văn học, cung cấp tri thức về tác giả, tác phẩm, chú
thích từ ngữ, nêu câu hỏi hướng dẫn học bài, bổ sung bài tập nâng cao, tri thức Đọc
- hiểu,…Học sinh sẽ được cung cấp một cách đúng đắn các tri thức trong quá trình
19


học tập.
Phần Làm văn nhằm rèn luyện kỹ năng nói, viết cho học sinh. Đó là điều
kiện cần thiết để học tập và tham gia các hoạt động xã hội. Nội dung phần này chủ
yếu là hệ thống bài luyện tập và các bài lý thuyết được viết ngắn gọn nhằm giúp
người học thực hành tốt. Đọc văn và Làm văn không tách rời nhau, Đọc - hiểu văn

bản tốt sẽ giúp học sinh hiểu cách sắp xếp bố cục, liên kết bài văn, cách hành văn
và sử dụng từ ngữ,…do đó sẽ nâng cao được năng lực trong bài làm văn. Ngược
lại, có năng lực làm văn tốt, học sinh sẽ thuận lợi trong việc Đọc - hiểu văn bản,
biết cách khái quát, tóm tắt, diễn đạt chính xác những điều tâm đắc khi đọc văn, kết
hợp đọc văn và làm văn có hiệu quả hơn.
Phục vụ cho việc Đọc văn và Làm văn, ngoài một số bài lý thuyết giới thiệu
đặc điểm loại hình, lịch sử tiếng Việt, Phong cách ngôn ngữ, phần Tiếng Việt sẽ
cung cấp hệ thống bài tập tích hợp nhằm mục đích nâng cao năng lực Đọc - hiểu và
tạo lập văn bản của học sinh.
Nội dung cụ thể của từng phần:
Tên văn bản: tên văn bản do căn các tác giả đặt, hoặc di người soạn đặt. Đối
với văn bản chữ Hán hay chữ Nôm đều dùng tên dịch hoặc phiên âm ra tiếng Việt
có ghi chú tên phiên âm chữ Hán. Nếu nguyên tác không có tên thì người dịch cũng
tự đặt cho những tên dễ đọc, dễ nhớ.
Kết quả cần đạt: được trình bày ngắn gọn những điều cơ bản mà học sinh
phải nắm được sau khi học bài.
Ví dụ: Bài Ra – Ma buộc tội
(Trích Sử thi Ra – ma – ya - na)

Kết quả cần đạt giúp học sinh hiểu được hành động của Ra – ma và Xi – ta
trong việc bảo vệ danh dự. Giúp học sinh nắm được nghệ thuật trần thuật và xây
dựng nhân vật qua đoạn trích.
Tiểu dẫn: cung cấp kiến thức cơ bản, cô động về tác giả, tác phẩm, hoàn
cảnh sáng tác, thể loại, … giúp học sinh có ý niệm về văn bản.
20


Văn bản: chủ yếu là lấy văn bản gốc. Đối với tác phẩm chữ Hán hoặc văn
bản chữ Nôm thì chọn văn bản dịch phiên âm là tốt nhất. Cuối trang của phần văn
bản bao giờ cũng dành cho việc giải thích những từ khó.

Hướng dẫn học bài: đó là hệ thống của những câu hỏi xoay quanh vấn đề
văn bản để làm “vỡ tan” văn bản đó.
Tri thức đọc hiểu: cung cấp cho học sinh về lịch sử và lý luận văn học. Riêng
về phần này thì không giảng thành bài nhưng giáo viên có thể sử dụng chúng để
gợi mở, khuyến khích học sinh tìm hiểu về nó.
Bài tập nâng cao: là những bài tập với mục đích nhằm nâng cao kiến thức
cho học sinh. Ngoài những bài tập đã được học thì các em làm quen với bài tập này
để chuyên sâu hơn về phần đọc - hiểu.
Văn bản “đọc thêm”: dùng để mở rộng phạm vi tiếp nhận kiến thức.
1.3.2.1. Nội dung phần tiếng Việt trong SGK Ngữ văn THPT nâng cao
Phân môn Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn THPT nâng cao được biên soạn
dựa trên chương trình chuẩn. Ngoài những bài đã đưa vào dạy và học ở SGK Ngữ
văn THPT cơ bản, thì còn đưa thêm vào một số bài mới.
Cụ thể:
Lớp 10: Phân môn tiếng Việt có tổng số là 15 bài được dạy trong 9 tiết ngoài
những bài đã có ở sách cơ bản, thì sách này còn có thêm các bài:
- Phân loại văn bản theo phương thức biểu đạt.
- Phân loại văn bản theo phong cách chức năng ngôn ngữ.
- Luyện tập về các kiểu văn bản và phương tiện biểu đạt.
- Luyện tập về nghĩa của từ.
- Luyện tập về biện pháp tu từ.
- Luyện tập về từ Hán Việt.
Lớp 11: tổng số 16 bài tiếng Việt được dạy trong 18 tiết, một số bài nâng cao
hơn so với SGK Ngữ văn cơ bản:
- Luyện tập về hiện tượng tách từ.
21


- Luyện tập về trường từ vựng và từ trái nghĩa.
- Ngữ cảnh.

- Luyện tập về tách câu.
- Luyện tập về từ Hán Việt.
- Luyện tập thay đổi các thành phần của cụm từ và câu.
- Luyện tập về câu nghi vấn tu từ.
Lớp 12: cũng theo hướng thống kê, nội dung phần Tiếng Việt được dạy trong
17 bài với lượng tiết dạy là 18 tiết, những bài mà SGK Ngữ văn cơ bản đã có thì
SGK Ngữ văn nâng cao còn có những bài mới nâng cao hơn:
- Luật thơ.
- Luyện tập về Luật thơ.
- Luyện tập về cách tránh một số hiện tượng trùng nghĩa.
- Luyện tập về nhân vật giao tiếp.
- Luyện tập về cách sữa chữa văn bản.
- Luyện tập về cách dùng một số quan hệ từ.
- Luyện tập về cách diễn đạt có nhiều cách hiểu khác nhau.
- Luyện tập về cách tránh một số loại lỗi logic.
Dựa vào thống kê các đơn vị bài học của phần Tiếng Việt ở cả ba lớp, lớp
10, lớp 11 và lớp 12 của SGK Ngữ văn THPT nâng cao ta cũng thấy rằng: nội dung
phần Tiếng Việt có đầy đủ các hợp phần, những vấn đề lý thuyết chung về ngôn
ngữ và tiếng Việt, Từ ngữ, Ngữ pháp, Phong cách học.
Phần lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt
So với các học phần khác thì phần này có số bài chiếm tỷ lệ khá cao (16/48
bài) các bài chủ yếu tập trung ở lớp 11, cụ thể là:
- Văn bản.
- Phân loại văn bản theo phương thức biểu đạt.
- Luyện tập về các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt.
- Phân loại văn bản theo Phong cách chức năng ngôn ngữ.
22


- Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.

- Đặc điểm văn bản nói và văn bản viết.
- Luyện tập về liên kết trong văn bản.
- Khái quát lịch sử tiếng Việt.
- Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt.
- Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.
- Luyện tập về ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân.
- Đặc điểm loại hình tiếng Việt.
- Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (Ngữ văn 12 nâng cao, tập 1).
- Luyện tập về nhân vật giao tiếp (Ngữ văn 12 nâng cao, tập 2).
- Luyện tập về cách sữa chữa văn bản (Ngữ văn 12 nâng cao, tập 2).
Phần từ ngữ
Phần này có tất cả 9/48 bài chủ yếu là các bài luyện tập, cụ thể:
- Luyện tập về nghĩa của từ (Ngữ văn 10 nâng cao, tập 1).
- Luyện tập về biện pháp tu từ (Ngữ văn 10 nâng cao, tập 1).
- Luyện tập về từ Hán Việt (Ngữ văn 10 nâng cao, tập 2).
- Luyện tập về từ Hán Việt (Ngữ văn 11 nâng cao, tập 1).
- Luyện tập về hiện tượng tách từ (Ngữ văn 11 nâng cao, tập 1).
- Luyện tập về trường từ vựng và các từ trái nghĩa (Ngữ văn 11 nâng cao,
tập 1).
- Luyện tập về cách tránh hiện tượng trùng nghĩa (Ngữ văn 12 nâng cao, tập
1).
- Luyện tập về cách dựng biện pháp tu từ ẩn dụ (Ngữ văn 12 nâng cao, tập
1).
- Luyện tập về cách sử dụng một số quan hệ từ (Ngữ văn 12 nâng cao, tập
2).
Phần ngữ pháp
Số bài chiếm tỷ lệ không cao, tập trung chủ yếu ở lớp 11. tất cả những bài
23



học trong đơn vị này chủ yếu là luyện tập và luyện tập về câu. Tuy nhiên phần
luyện tập ở đây không nói đến các kiểu câu và các thành phần câu cụ thể.
Phần Phong cách học
Đây là một loạt bài mới trong chương trình THPT có đầy đủ sáu Phong cách
chức năng ngôn ngữ và nó cũng được phân bố đều ở cả ba lớp.
- Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (Ngữ văn 10, nâng cao, tập 1).
- Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (Ngữ văn 10, nâng cao, tập 2).
- Phong cách ngôn ngữ báo chí (Ngữ văn 11, nâng cao, tập 1).
- Phong cách ngôn ngữ chính luận (Ngữ văn 11, nâng cao, tập 2).
- Phong cách ngôn ngữ khoa học (Ngữ văn 12, nâng cao, tập 1).
- Phong cách ngôn ngữ hành chính (Ngữ văn 12, nâng cao, tập 2).
Ngoài những bài nói về hợp phần Từ ngữ, Ngữ pháp, Phong cách học thì
những bài ôn tập, tổng kết vào cuối kỳ, năm học giúp cho học sinh củng cố lại kiến
thức. Điều đó cũng có thể chứng minh rằng việc biên soạn hai chương trình cùng
một lúc là phù hợp với đối tượng người học.

Tiểu kết chương 1
Hiện nay vấn đề dạy học môn Văn trong nhà trường phổ thông ngày càng
được quan tâm nhiều hơn đó là một môn khoa học vừa có tính nghệ thuật ngôn từ,
vừa mang tính chất một môn học. Cho nên việc đổi mới cũng là một việc làm tất
yếu, sự thay đổi lớn nhất đó là việc biên soạn và xây dựng chương trình theo
nguyên tắc tích hợp, đó cũng là sự gắn kết, phối hợp các tri thức gần nhau của các
phân môn Làm văn, tiếng Việt, và Đọc-hiểu nhằm hình thành và rèn luyện tốt kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
Sự thay đổi thứ hai là việc biên soạn và xây dựng SGK Ngữ văn THPT tồn
tại cùng một lúc hai chương trình, chương trình chuẩn và chương trình nâng cao.
Yêu cầu về nội dung, khối lượng kiến thức và kỹ năng của hai chương trình khác
24



nhau nhưng không quá chênh lệch. Nội dung chương trình chuẩn được xác định là
mặt bằng kiến thức, kỹ năng cơ bản (tối thiểu, đại trà). Sau đó bổ sung một số tri
thức và kỹ năng trong chương trình nâng cao. Trong chương trình Ngữ văn nâng
cao có lượng kiến thức nhiều hơn, góp phần phát triển, bồi dưỡng cho học sinh có
năng khiếu, tạo nguồn cho các ngành khoa học và nhân văn.
Vì vậy, ta thấy rằng chương trình Ngữ văn THPT có rất nhiều vấn đề cần
quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu nhằm mục đích nâng cao hiệu quả dạy và học trong
nhà trường phổ thông.

Chương 2
NỘI DUNG PHẦN PHONG CÁCH HỌC
TRONG SGK NGỮ VĂN THPT
2.1. Tri thức các bài Phong cách học
Phong cách học, như đã biết là khoa học về các nguyên tắc, các quy luật nói
và viết có hiệu lực cao. Muốn chỉ ra nguyên tắc và quy luật như thế thì Phong cách
học bắt đầu từ việc phân tích mức độ hiệu lực của từng sự vật cụ thể, sự phân tích
này thực sự là sự phân tích ở khía cạnh tu từ học.
Phong cách có một vai trò to lớn trong việc nghiên cứu và xây dựng cái đẹp
của ngôn ngữ. Nghiên cứu Phong cách học là nghiên cứu tác động trở lại của hình
thức ngôn ngữ với nội dung diễn đạt, cũng tức là sự lựa chọn, sự dụng các phương
25


×