Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Tìm hiểu nội dung Đường thi trong SGK phổ thông ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.94 KB, 74 trang )

Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
“Lịch sử văn học Việt Nam phát triển trong những điều kiện hoàn cảnh
đặc thù dân tộc đồng thời luôn có quan hệ mật thiết với các nền văn hoá, văn
học ngoài biên giới của đất nước. Đó là mối quan hệ có tính vĩ mô trên dòng
thời gian lịch sử từ cổ chí kim và không gian từ khu vực đến toàn thế giới”
(Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực, Đặng
Thanh Lê, tạp chí văn học số 1 năm 1992 , trang 1). Nằm trong văn hoá vùng
chịu sự ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, văn chương nước ta từ khi ra đời
văn học viết đã thể hiện sự hấp thụ sáng tạo những tinh hoa của đất nước thi ca
này. “Giai đoạn từ thế kỉ X trở về trước là giai đoạn thịnh đạt của văn chương
bác học theo thể chế, khuôn thước thơ Đường, Tống gồm thơ, phú và rất ít cổ
văn” (Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam
thời trung đại: Tiếp nhận - Cách tân - Sáng tạo, Bùi Duy Tân, Tạp chí văn học,
số 1 năm 1992, trang11 ).
Kể cả sau này, khi nền văn học Việt Nam bước sang giai đoạn hiện đại
hoá, chúng ta vẫn lưu giữ những nét tinh hoa hấp thụ từ thi ca Trung Quốc. Nói
khác đi, dấu vết ảnh hưởng của thi ca Trung Hoa trong thơ văn nước nhà vẫn
không mất hẳn. Nó đã chuyển thành một mạch ngầm văn hoá nuôi dưỡng hồn
dân tộc ta.
Việc nghiên cứu để khẳng định vai trò, ý nghĩa của những tác động tích
cực từ thơ văn Trung Quốc đã được chú ý từ thời giai đoạn văn học viết dân tộc
hình thành không được bao lâu. Trong lĩnh vực nghiên cứu nói chung, lí luận
phê bình nói riêng, vấn đề tiếp nhận văn học nói chung và văn học nước ngoài
nói riêng được thể hiện trên các bình diện: Tổng thuật, dịch thuật, giảng dạy
trong nhà trường phổ thông. Trước đến nay, chúng ta chỉ mới quan tâm đến việc
xem xét những yếu tố cho thấy sự ảnh hưởng của văn tàu đối với văn ta, còn
công việc xem xét vấn đề giảng dạy Thơ văn Trung Quốc được tiến hành như
thế nào lại chưa chiếm một sự quan tâm xứng đáng. Đây có thể nói là một sự
thiếu sót cần phải được bổ khuyết để việc nghiên cứu lịch sử tiếp nhận văn


chương nước ngoài ở nước ta có một cái nhìn toàn vẹn.
1
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
Trong khuôn khổ một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi chỉ có thể đi vào
một mảng nhỏ trong công việc giảng dạy, qua đó phần nào thấy được đời sống
của văn chương Trung Quốc trong chương trình dạy học của nhà trường Việt
Nam. Đó là : Tìm hiểu nội dung Đường thi trong SGK phổ thông ở Việt
Nam. Công việc này không thể tiến hành tách biệt và cô lập với sự xem xét mục
tiêu, chính sách và chương trình giáo dục phổ thông của nền giáo dục nước nhà.
Lịch sử vấn đề:
Trong chương trình môn Ngữ văn PTCS và PTTH, Đường thi là một
trong số những nội dung văn học nước ngoài được chọn đưa vào giảng dạy.
Có một vấn đề đặt ra: Đường thi có giá trị như thế nào trong vai trò định
hướng và giáo dục nhân cách cho học sinh? Liệu việc đưa Đường thi vào
chương trình giáo khoa giảng dạy có phải chỉ đơn thuần cho phong phú nội dung
văn học thế giới để giới thiệu cho Học sinh?
Thực tế lịch sử đất nước Trung Hoa nói riêng, lịch sử nhân loại nói chung
đã minh chứng cho sức sống của Đường thi - một tinh hoa của văn học nhân
loại, vì thế việc giảng dạy nhằm mục đích giúp HS hiểu và trân trọng một giá trị
văn hoá tinh thần đẹp. Từ đó giáo dục các em biết suy nghĩ, diễn đạt ý vị, tinh tế,
kiệm lời.
Tuy nhiên, đây là một nội dung khó vì gặp trở ngại của ngôn ngữ. Chữ
Hán là thứ ngôn ngữ tượng hình, thể hiện tư duy cổ của người Trung Hoa, xa lạ
đối với HS.
Việc giảng dạy nội dung này hiện nay vẫn chưa đạt hiệu quả như mong
muốn của người biên soạn, như tâm nguyện của người thầy.
Một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho việc giảng dạy Đường
thi có thể xét đến là: chưa một công trình nghiên cứu nào đánh giá một cách
tổng thể để thấy vai trò của Đường thi trong chương trình NGữ văn và ý nghĩa
của việc giới thiệu những tác giả, tác phẩm đưa vào chương trình SGK. Trong

quá trình làm việc, chúng tôi lác đác bắt gặp những bài tiểu luận, những ý kiến
đả động tới công việc giảng dạy Đường thi trong nhà trường phổ thông nước ta.
Ví dụ: Giảng văn học Châu átrong trường phổ thông ( T.S Nguyễn Thị Bích
Hải ), Văn học Trung Quốc với nhà trường - tập tiểu luận ( PGS.TS Hồ Sĩ Hiệp )
trong đó có một bài duy nhất trực tiếp bàn tới vấn đề thơ Đường trong chương
2
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
trình phổ thông là: Cái vỏ hình thức thơ Đường trong sách giáo khoa văn học
(Trang 248), Bình giảng thơ Đường (T.S Nguyễn Thị Bích Hải), trong đó có
phần Vị trí của thơ Đường và việc dạy học thơ Đường ở trường phổ thông…
Các bài viết đã có công đề cập tới một lĩnh vực quan trọng trong giảng
dạy cho HSPT, nhiều bài viết đã có những nhận xét xác đáng về mặt ưu điểm và
hạn chế của công tác giảng dạy Đường thi.Tuy nhiên các bài viết đó chủ yếu
xem xét vấn đề theo quan điểm của Lí luận phương pháp dạy học bộ môn Ngữ
văn. Chưa có một tác phẩm nào tìm hiểu lịch sử việc đưa nội dung văn học đặc
sắc này vào sách giáo khoa để qua đó thấy được côi nguồn sâu xa chi phối công
tác biên soạn sách, một cơ sở để tiến hành đổi mới phương pháp dạy học. Một
trong các nhân tố hàng đầu quy đinh chính là các quan điểm mới về lí luận văn
học. N. S. Sécnưsepski đã nhận định một cách đúng đắn là: Không có lịch sử
của đối tượng thì cũng sẽ không có lí luận về nó. Do đó kì vọng của chúng tôi là
đưa ra một cái nhìn có tính lịch sử đối với Số phận Đường thi trong đời sống của
nó ở Việt Nam, được giói hạn lại trong khuôn khổ giáo dục phổ thông.
Tính cấp thiết của vấn đề:
Một trong những biểu hiện cho việc cải cách giáo dục chính là nỗ lực đổi
mới chương trình học, đổi mới phương pháp dạy học. Cải tiến SGK nhằm giải
quyết một vấn đề trung tâm của cải cách giáo dục. Môn Ngữ văn không nằm
ngoại lệ. Việc tìm hiểu nội dung biên soạn và những biến đổi của nội dung này
qua một quãng thời gian dài là công việc cần thiết giúp người nghiên cứu thấy
sự biến đổi của phương pháp dạy học tương ứng.
Dạy học Ngữ văn trong nhà trường cũng là một trong những hình thức

tiếp nhận văn học, hơn thế còn là con đường tiếp nhận chính thống, có định
hướng và chịu ảnh hưởng của tưởng chính trị. Và nghiên cứu Đường thi trong
toàn bộ chương trình SGK phổ thông là một trong những công việc có ý nghĩa to
lớn cần tiến hành ngay trong thời điểm hiện nay góp phần giúp giáo viên vững
vàng kiến thức chuyên môn, làm tiền đề cho việc phát huy hiệu quả phương
pháp dạy học mới.
Dựa trên cơ sở tiếp thu những lí thuyết được giới thiệu gần đây ở Việt
Nam, quan trọng nhất là lí thuyết về thi pháp học hiện đại, trong đó mới nhất là
lí luận về mỹ học tiếp nhận, chúng tôi hy vọng tái hiện và mô tả được phần nào
3
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
diện mạo quá trình tiếp nhận Đường thi ở Việt Nam, cụ thể trong phạm vi
chương trình giáo dục phổ thông. Từ đó cung cấp thêm ít nhiều tư liệu giúp cho
việc lí giải đời sống văn học dân tộc.
Bản thân là một Sinh viên sư phạm ngành Ngữ văn, thấy được ý nghĩa của
việc nghiên cứu chương trình SGK bộ môn có ảnh hưởng lớn đến vấn đề tìm
phương pháp dạy học hiệu quả. Đối với nội dung Đường thi, để một giờ dạy
hiệu quả đòi hỏi nỗ lực lớn của giáo viên để tìm hiểu về bài học và những vấn đề
văn hoá, văn học cổ Trung Quốc và nhất là nội dung Đường thi.
2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc Tìm hiểu Đường thi trong SGK phổ thông ở Việt Nam
qua những giai đoạn những năm 1990 đến nay, chúng tôi muốn đưa ra những
đánh giá và tổng kết về sự lựa chọn cũng như sự thay đổi của nội dung Đường
thi trong bối cảnh đổi mới chương trình và SGK hiện thời.
Giảng dạy Ngữ văn là công việc tiếp nhận văn học và định hướng tiếp
nhận văn học cho HSPT. Chương trình SGK sẽ là căn cứ rõ nhất để nghiên cứu
tìm hiểu vấn đề tiếp nhận văn học theo hướng chính thống trong nhà trường
được triển khai như thế nào. Sự biến đổi của nội dung chương trình phản ánh
mức độ thích ứng giữa thực tế giảng đạy với lí luận mới về tiếp nhận văn học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:

- Khách thể nghiên cứu: Chương trình SGK môn Ngữ văn THCS và
PTTH phần văn học cổ Trung Quốc: Thơ Đường
- Đối tượng nghiên cứu: Tác phẩm Đường thi trong SGK Ngữ văn và
nội dung Hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm
4. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Nhiệm vụ:
- Mô tả nội dung Đường thi đưa vào giảng dạy ở PT từ những năm 1980.
- Mô tả và phân tích nội dung phần Hướng dẫn học bài trong SGK qua
từng năm.
4
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
- Lý giải sự thay đổi của nội dung chương trình theo các phương diện:
Văn hoá xã hội, ý thức chính trị, sự thay đổi của lí luận tiếp nhận văn học…
4.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
Mục đích ban đầu của chúng tôi là có một cái nhìn toàn diện và hệ thông
svề nội dung Đường thi từ những năm đầu tiên được đưa vào giảng dạy ở
chương trình môn văn trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên do nhiều hạn chế
về vấn đề tư liệu, phạm vi khảo sát của chúng tôi sẽ là SGK: khoảng thời gian
từ 1989 đến nay. Chúng tôi chia Phạm vi này thành 3 hệ:
- SGK trước 1990
- SGK từ 1990 - 2000
- SGK thí điểm và bộ mới (hiện hành)
5. Đóng góp của đề tài:
5.1. Đề tài là một sự cố gắng của người viết bằng cái nhìn lịch sử và hệ
thống nhằm chỉ ra đặc điểm và những nét mới trong cách lựa chọn, trình bày và
Hướng dẫn tìm hiểu Đường thi trong SGK văn . Đồng thời, việc giải quyết đề tài
trên cơ sở xem xét chương trình Ngữ văn trong mối quan hệ với sự phát triển
của lí luận văn học hiện đại, chúng tôi mong muốn làm một công việc thiết thực
đối với nghề nghiệp của mình là nắm được bản chất của thực tế thay đổi chương
trình và SGK nói chung để phát huy hiệu quả phương pháp dạy học mới.

5.2. Với những kết quả thu được, đề tài không chỉ cho chúng ta một cái
nhìn hệ thống về câu chuyện Đường thi được giảng dạy ở Việt Nam như thế
nào. Hơn thế, đây sẽ là một gợi ý để những công trình sau này của giới nghiên
cứu có thể vận dụng làm sáng rõ vấn đề tiếp nhận Đường thi nói riêng và Văn
học nước ngoài nói chung trong nhà trường phổ thông Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Mô tả.
- Thống kê
- Phân tích
- Lí giải
5
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
7. Cấu trúc đề tài:
Ngoài Phần mở đầu và phần kết luận, nội dung có 2 chương
Chương I: Quá trình Đường thi được đưa vào giảng dạy trong chương trình
Ngữ văn PT ở Việt Nam.
Chương II: Hướng dẫn Giảng dạy Đường thi trong SGK Ngữ văn phổ thông
ở Việt Nam.
6
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
Chương một
QUÁ TRÌNH ĐƯỜNG THI ĐƯỢC ĐƯA VÀO GIẢNG DẠY TRONG
TRƯỜNG PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM
1.1. Ngữ văn và văn học nước ngoài trong chương trình phổ thông
Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí
đặc biệt, có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những kiến thức về tiếng Việt và văn
học, hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt và năng lực
tiếp nhận tác phẩm văn học. Qua đây, các em còn được trang bị những hiểu biết
về văn hoá, xã hội, lịch sử, đời sống tinh thần và tình cảm của mỗi con

người.Thông qua việc tiếp cận với tiếng Việt văn hoá và các tác phẩm văn học,
môn học có khả năng làm giàu xúc cảm thẩm mĩ, định hướng thị hiếu lành mạnh
và phát triển cá tính cho học sinh. Nhưng trước hết, khi học xong chương trình
Ngữ văn phổ thông, các em đã có được cái nhìn mới mẻ và ngợi ca nền văn học
trong nước và có những hiểu biết nhất định về văn học trên thế giới.
Những tác phẩm văn học nước ngoài đưa vào chương trình được lựa chọn
kĩ lưỡng do đó đều là những đỉnh cao của văn học các nước. Các tác phẩm đó
không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn về mặt tư tưởng và phẩm chất nghệ thuật mà còn
có khả năng minh hoạ cho quá trình phát triển của lịch sử văn học thế giới qua
các thời đại. Mặc dù chúng dường như tòn tại độc lập với nhau, trải rộng theo
phạm vi không gian và kéo dài theo thời gian nhưng trong SGK đã được sắp xếp
theo trật tự nhất định: Trật tự thời gian và do đó phần nào tương ứng với các
hiện tượng của văn học Việt Nam được xếp theo tiến trình lịch sử.
Văn học cổ Trung Quốc là phần nội dung trọng yếu được giới thiệu trong
chương trình bao quát ở các thể loại: Thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Việc dạy và
học văn học Trung Quốc trong trường phổ thông sẽ giúp học sinh hiểu thêm về
đặc trưng văn học nước mình.
1.2. Văn học Trung Quốc và mối quan hệ với Văn học Việt Nam
“Sự hân thưởng văn chương nước ngoài có 2 điều kiện : một là sự quen
biết giữa hai dân tộc, hai là sự tương tự về ngôn ngữ của hai quốc gia” (Nguyễn
7
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
Tuyết Hạnh - Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam). Việt Nam hội tụ đủ 2 điều
kiện đó nên sự ảnh hưởng, giao lưu và tiếp nhận với văn học Trung Hoa rất hợp
quy luật.
“Giao lưu và tiếp nhận ảnh hưởng cấp vùng là một thực tế hiển nhiên của
văn hoá và văn học Việt Nam thời trung đại, hiển nhiên đến nỗi sự mô tả nền
văn hoá trung đại mà không chú ý đến thực tế đó sẽ dẫn đến cự hiểu biết một
cách hời hợt nông cạn nền văn học dân tộc” (Trần Nho Thìn: Văn học Trung đại
Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, Tr. 19). Tính từ thời điểm nền văn học viết ra

đời, sự ảnh hưởng đó thể hiện trong việc chữ Hán được xem là chữ viết của nhà
nước. Suốt 10 thế kỉ phong kiến, bộ phận văn học chữ Hán là bộ phận không thể
tách rời với nền Quốc văn.Văn học Việt Nam đã kế thừa các các thể loại truyền
thông của văn học Trung Quốc: Phú, Hịch, Cáo, Chiếu, Biểu, Tiểu thuyết
chương hồi…và ảnh hưởng sâu sắc nhất là thơ ca.
Thơ Việt Nam bất kể là thơ chữ Hán hay chữ Nôm đều sáng tác theo
những thể: thơ cổ phong, thơ Đường luật, ngũ ngôn, thất ngôn. Về phương diện
đề tài, thi nhân ta vẫn chủ yếu khai thác các long mạch: tình yêu thiên nhiên,
tình cảm bạn bè, tình yêu con ngưòi, tình yêu đất nước. Các nhà thơ cổ điển của
ta cũng chịu ảnh hưởng các quan niệm vũ trụ nhân sinh từ Phật giáo, Lão giáo.
Trong khi kế thừa và tiếp thu tinh hoa của văn học Trung Quốc, Việt Nam
có cách ứng xử riêng nên văn thơ nước nhà vẫn thấm nhuần tinh thần dân tộc.
Khi nền văn học nước nhà bước vào thời kì hiện đại hoá dưới ảnh hưởng của sự
du nhập văn hoá phương Tây, ảnh hưởng của thơ văn Trung Quốc, đặc biệt là
thơ ca vẫn không hề giảm sút. Nhứng yếu tố ảnh hưởng đó đã tạo nên nguồn
mạch ẩn ngầm làm nên sức mạnh nội tại cho thi ca Việt Nam.
1.3. Đường thi được đưa vào nội dung giảng dạy ở Ngữ văn Phổ
thông
1.3.1. Vị trí của Đường thi trong nền thơ ca Trung Quốc nói riêng và thơ
ca nhân loại nói chung
Người ta thường nói: “Thịnh Đường, Long Tống” để chỉ hai đỉnh cao của
thơ ca cổ điển Trung Quốc. Thơ Đường là một bước phát triển cao về mặt hình
thức thơ ca với nhiều trường phái và phong cách khác nhau: Lí Bạch sở trường ở
8
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
thể cổ phong, Đỗ Phủ thành công với Luật thi, Bạch Cư Dị lại kết hợp được cả
hai thể loại… Với 2300 thi sĩ và gần 5 vạn bài thơ, Thơ Đường là đỉnh cao nghệ
thuật thơ ca, đỉnh cao của sự phát triến hình thức thơ ca Trung Quốc trên cơ sở
kế thừa thể thơ truyền thống và các hình thức thơ ca của các thời đại trước (nhất
là Kinh thi, Sở từ và Nhạc phủ). Có thể nói, chính thành tựu 15 thế kỉ thơ ca đã

chuẩn bị cho sự hưng thịnh của thơ đời Đường.
Thơ Đường không chỉ trở thành mực thước cho lớp thi nhân đời sau của
Trung Quốc học tập mà tinh hoa ấy còn lan toả khắp các quốc gia lân cận. Đó là
những đất nước nằm trong vùng ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa (đặc biệt là Nhật
Bản, Triều Tiên và Việt Nam). Từ xưa đến nay, chưa có nền thơ ngoại quốc nào
lại có ảnh hưởng sâu rộng và được ngợi ca, nghiên cứu nhiều như Thơ Đường.
Càng nghiên cứu càng phát hiện nhiều vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tư duy Trung
Hoa- đại diện tiêu biểu cho tư duy phương Đông, và rõ nhất là nhân sinh quan
của con người Á Đông. Có thể khẳng định: Thơ Đường chính là tinh hoa văn
hoá của toàn nhân loại
G.S Lương Duy Thứ trong cuốn Thi Pháp Thơ Đường đã khẳng định: Văn
hoá đời Đường là đỉnh cao văn hoá nhân loại ở thế kỉ VII - X (Will Durrant) và
thơ Đường là đỉnh cao văn hoá đời Đường (bên cạnh hội hoạ, kiến trúc, điêu
khắc…).
1.3.2. Vị trí của Đường thi trong chương trình Ngữ văn PT ở Việt Nam
Bên cạnh tiểu thuyết chương hồi (Tam quốc diễn nghĩa), truyện ngắn hiện
đại (Thuốc, Cố hương của Lỗ Tấn). Đường thi là một trong những nội dung của
Văn học Trung Quốc được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông Việt Nam. Do
đó, triển khai đề tài không thể không điểm qua vấn đề giảng dạy Văn học Trung
Quốc nói chung.
Cách đây gần 60 năm, Dương Quảng Hàm là người đầu tiên đưa môn văn
học Trung Quốc vào chương trình nhà trường Phổ thông trung học. Ông là tác
giả của cuốn sách giáo khoa văn học dùng trong nhà trường trước cách mạng
tháng Tám. Ngay chương mở đầu cuốn Việt Nam văn học sử yếu ông viết: “
Riêng về đường văn học, dân ta học chữ Nho, theo đạo Nho, thâu thập dần tư
tưởng và học thuật của người Tàu. Bởi thế ta phải xét đến cái ảnh hưởng ấy là
9
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
những nguyên do khiến cho văn học Tàu truyền sang nước ta”. Trong cuốn sách
giáo khoa dạy ở bậc phổ thông trung học nhà trường Việt Nam dưới thời thực

dân Pháp, Tác giả đã dành hẳn 6 chương để dạy văn học Trung Quốc từ dân
gian, cổ điển đến hiện đại. Đó là nhận thức và chủ trương sáng suốt. Trong
chương trình năm thứ 2 (lớp nhất trong các trường Trung học Pháp ) với 5 thiên,
20 chương thì Dương Quảng Hàm dành 3 chương cho Văn học Trung Quốc.
Trong thiên thứ 1 nhan đề “ Các văn sĩ và thi sĩ Tàu có ảnh hưởng lớn nhất đến
văn chương Việt Nam: Khuất Nguyên, Đào Tiềm, Lí Bạch”, Dương Quảng Hàm
đã giới thiệu tiểu sử và phần trích giảng tác phẩm của nhà thơ lớn đời Đường:
Lí Bạch với tác phẩm Tương tiến tửu (Vô danh dịch). Sang chương 3, tác giả
giới thiệu thêm nhà văn Hàn Dũ cũng đời Đường. Nhìn tổng thể, Dương Quảng
Hàm đã giới thiệu 7 tác giả thuộc văn học cổ điển và hiện đại Trung Quốc.
Riêng thời Đường, tác giả không chọn tức giả và tác phẩm của Đỗ Phủ, Bạch Cư
Dị. Đó là một hạn chế của ông. Tuy vậy, phải công nhận đóng góp lớn của tác
giả là đã cho ra đời một “cuốn lịch sử văn học Việt Nam phổ thông đầu
tiên được biên soạn bằng chữ quốc ngữ” (Trần Hữu Tá). Dương Quảng Hàm là
người đặt nền móng cho việc giảng dạy và học tập văn học Trung Quốc ở nước
ta nói chung và thơ Đường nói riêng.
Tóm lại: Thơ Đường được du nhập vào nước ta từ rất sớm và việc tiếp
nhận Đường thi dã diễn ra ngay từ buổi sơ khai của nền văn học viết của dân
tộc. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Đường trong chương trình phổ
thông chỉ thực sự diễn ra vào thế kỉ XX và càng về sau, khi các chính sách về
kinh tế, nggoại giao của nhà nước cởi mở hơn, ý thức về vai trò của Đường thi
đối với nền thơ ca dân tộc được nhìn nhận thẳng thắn và công bằng thì việc tìm
hiểu Đường thi một cách chính thống trông nhà trường mới thực sự được chú
trọng.
Vậy Đường thi chính thức được đưa vào chương trình Ngữ văn phổ thông
từ bao giờ?
Theo một số tài liệu chúng tôi thu thập được, giai đoạn từ 1956 đến 1979,
kể cả sau đợt chỉnh lí SGK năm 1979, SGK môn văn vốn không giới thiệu thơ
Đường trong chương trình phổ thông. Tác giả cuốn sách cung cấp thông tin:
Trong chương trình thực hiện từ năm 1956, được chỉnh lí từ năm 1979, phần văn

10
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
học nước ngoài được giới thiệu là tác phẩm của 8 tác giả của 4 nước châu Âu
(Hi Lạp, Anh, Pháp Nga) và 1 nước Châu á(Trung Quốc). Tác giả duy nhất của
văn học Trung Quốc được giới thiệu tác phẩm là Lỗ Tấn.
Từ năm 1989 đến 1990 bắt đầu tiến hành đợt cải cách chương trình THPT
với quy mô rộng, trong đó có môn văn học nói chung và bộ phận văn học nước
ngoài nói riêng. Trên cơ sở chương trình thống nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo
cho phép triển khai song song hai bộ SGK văn do hai tập thể các nhà khoa học
của trường Đại học sư phạm Hà Nội và Hội nghiên cứu văn học Thành phố Hồ
chí Minh biên soạn. Trong khuôn khổ các tác giả, tác phẩm do chương trình ấn
định, Bộ cho phép hai bộ sách có thể chọn những đoạn trích giảng khác nhau.
Đến năm 2000, sau khi rút kinh nghiệm ưu, nhược điểm của bộ sách thí điểm,
SGK môn văn ở THPT được tổ chức lại thành một bộ duy nhất (SGK chỉnh lí
hợp nhất) dùng trong cả nước. Lúc đó, bộ phận văn học nước ngoài được giới
thiệu trong cả 3 lớp là 21 tác giả của 2 nước Châu á(Trung Quốc, Ấn Độ), 5
nước châu Âu (Hi Lạp, Anh, Pháp, Nga, Đức), 1 nước châu Mĩ (Hoa Kì). Như
vậy, mảng văn học nước ngoài có quy mô phát triển đột biến. Số lượng các nhà
văn tăng gấp đôi. Ngoài một vài nền văn học quen thuộc từ trước, HS được tiếp
xúc với những nnền văn học khác. Riêng phần tác giả Trung Quốc, SGK giới
thiệu 6 tác giả: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu (thế kỉ thứ VIII), Bạch Cư Dị (thế kỉ
thứ IX), La Quán Trung (Thế kỉ thứ XIV) và Lỗ Tấn (thế kỉ XX).
Như vậy có thể khẳng định, Đường thi chính thức được đưa vào SGK văn
bậc THPT từ những năm 1989 - 1990.
Khảo sát chương trình Ngữ văn bậc THCS, trong quá triình tìm kiếm tư
liệu, chúng tôi bắt gặp cuốn “ Các tác phẩm căn chương cổ và văn chương nước
ngoài dạy ở lớp 8 và lớp 9 cải cách giáo dục”. Trong phần Lời nói đầu có đoạn
viết “Trong tập tài liệu này chúng tôi chỉ lựa chọn các tác phẩm mới đưa vào
SGK văn 8 và 9 và là những tác phẩm khó, ít tài liệu tham khảo” (Trang 3).
Xem nội dung cuốn sách, chúng tôi thấy có phần bài viết về các bài thơ Đường:

Kẻ lại ở Thạch Hào (Thạch Hào lại), Bài hát gió thu tốc nhà (Mao ốc vị thu
phong sở phá ca), Đường đi khó (Hành lộ nan). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung
Đường thi chính thức được đưa vào SGK văn bậc THCS chỉ từ năm 1989 -
11
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
1990. Các tác giả Lí Bạch, Đỗ Phủ được giới thiệu những bài trữ tình, đơn giản
về bút pháp thì sang cấp THPT giới thiệu những bài thơ khác của hai tác giả đó,
cùng với một số tên tuổi: Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị.
SGK Ngữ văn sau chỉnh lí 1995 ở cấp THCS gồm 26 bài văn học nước
ngoài (có 5 tác giả Trung Quốc).
Sau năm 2000, chương trình Ngữ văn cấp THCS có giói thiệu 18 tác giả
của 2 nước châu Á, 7 nước châu Âu, 1 nước châu Mĩ.
Chương trình Ngữ văn THCS năm 2006: 25 văn bản (trích tác phẩm hoặc
toàn bộ) của 9 nước, trong đó, thơ Đường chiém 5 tác giả.
Chương trình chuẩn Ngữ văn THPT năm 2006: 19 bài của 7 nước. Trong
đó thơ Đường chiếm 5 tác giả.
1.4. Mô tả phần nội dung Đường thi được đưa vào chương trình SGK
phổ thông ở Việt Nam:
1.4.1. Đường thi trong mối tương quan với các nội dung văn học khác
cùng chương trình Văn học nước ngoài.
Văn chương là chuyện của muôn người và của muôn đời. Những tác
phẩm có giá trị nhân văn cao đẹp không chỉ là tài sản của một dân tộc mà còn là
thứ của cải tinh thần vô giá của nhân loại. Bởi vì giá trị thanh lọc và bồi dưỡng
tâm hồn người đọc của một áng văn đích thực không bị ràng buộc bởi vấn đề
biên giới quốc gia. Việc tìm hiểu, học hỏi và cao hơn là tiếp thu tinh hoa của kho
tàng văn học thế giói là một công việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Giảng dạy văn học trong nhà trường, như đã phân tích trên, không dừng
lại ở mục tiêu truyền đạt kiến thức cho HS mà còn có tác dụng định hướng
những mô hình nhân cách cho các em. Chất lượng môn học cũng góp một phần
lớn quyết địch vào chất lượng của sản phẩm giáo dục nước nhà.

Học văn trước hết là học lấy những cái hay caí đẹp của tiếng nói dân tộc.
Nhưng cao hơn, đó là rèn tập cho HS những phẩm chất, lối sống lành mạnh,
mang đậm tính nhân văn. Do đó bên cạnh nền văn học nước nhà, việc học văn
chương nước ngoài cũng chiếm vai trò to lớn. Cho dù khác màu da, ngôn ngữ,
tiếng nói nhưng tiến nói tâm hồn, những quy luật tâm lí, tình cảm của con người
vẫn vậy: Thay đổi và biểu hiện đều mang tính quy luật chung. Qua tìm hiểu văn
12
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
chương nước ngoài, giải quyết khâu đa dạng và phong phú hoá nội dung tri thức
văn chương nhân loại, trên cơ sở đó, giúp các em khắc sâu các luồng chính về
nội dung tư tưởng của văn chương nhân loại. Đời sống tâm hồn con người là
một ẩn số, và cũng là thử thách cho những con người làm công việc sáng tác văn
bản nghệ thuật. học văn không phải là học xem giảng dạy những vấn đề xã hội
như thê nào?
Chính vì không chỉ Đường thi mà các áng văn nước ngoài khác đều có
mục đích chung như vậy. Trước khi xem cụ thể Đường thi trong chương trình
phôr thông có sự quan tâm, và được phân chia lượng thời gian như thế nào,
chúng ta hãy nhìn lại Nó trong tương quan với các nội dung khác, cũng ở trong
SGK. Thuộc chương trình chúng tôi lọc ra để chon tư liệu phục vụ cho việc triển
khai đề tài.
** Số trang viết của nội dung giảng dạy các tác phẩm văn học nước ngoaì
(chỉ khảo sát qua các cuốn SGK văn có chứa nội dung thơ Đường):
Chương trình văn THCS:
Bảng tương quan về dung lượng trang viết:
Tên sách VHNN
Thơ
Đường
Tỉ lệ
Văn 9, tập hai (năm 1989) 87 11 12,7%
Văn học 9, tập hai (năm 1995) 31 21 67,7%

Ngữ văn 7, tập một (năm 2001) 17 17 100%
Bảng tương quan về số lượng tiết dạy:
Tên sách
Văn học
nước ngoài
Thơ
Đường
Tỉ lệ
Văn 9, tập hai (Năm 1989) 11 4 36,4%
Văn học 9, tập hai (năm 1995) 10 7 70%
Ngữ văn 7, tập một (năm 2001) 4 4 100%
Chương trình văn THPT:
Bảng tương quan về dung lượng trang viết:
Tên sách
Văn học
nước ngoài
Thơ
Đường
Tỉ lệ
13
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
Văn học 10, tập hai, (năm 1990) 108 16 14,8%
Văn học 10, tập hai, Ban KHTN, 1993 68 16 23,5%
Văn học 10, tập hai, Ban KHXH, 1993 119 33 27,7%
Văn học 10, tập hai, 1995 87 18 20,7%
Văn học 10, tập hai, Ban KHTN, 1997 69 17 24,6%
Văn học 10, tập hai, Ban KHXH, 1997 110 33 30%
Văn học 10, tập hai, 2000 101 25 24,8%
Ngữ văn 10, Bộ 1, 2003.
Sách thí điểm

Ban KHTN
41 11 26,8%
Ban KHXH
67 20 29,85%
Ngữ văn 10, Bộ 2, 2003
Sách thí điểm
Ban KHTN 43 14 32,6%
Ban KHXH 76 21 27,6%
Ngữ văn 10, chương
trình chuẩn, 2006.
Cơ bản 37 12 32%
Nâng cao 63 20 31%
Bảng tương quan về số tiết dạy
Tên sách
Văn học
nước ngoài
Thơ
Đường
Tỉ lệ
Ngữ văn 10, tập một, Bộ
1
2003.
Ban KHTN
7 2 28,6%
Ban KHXH 16 4 25%
Ngữ văn 10, tập hai, Bộ 2
Ban KHTN
7
Ban KHXH 16
Số trang viết dành cho thơ Đường trong mối tương quan với chương trình

văn học nước ngoài:
Nhận xét:. Đường thi là một nội dung trong bộ phận văn học Trung Quốc
đưa vào giảng dạy ở phổ thông. Bên cạnh văn học Trung Quốc, chương trình
VHNN ở THCS còn giới thiệu thêm văn của các nước khác: Anh (Sêchxpia, Đi-
phô), Pháp (A.Đô-đê, Mô-li-e, Mô-pa-xăng), Mĩ (Giắc Lơn-đơn, O.Hen-ri), Nga
(I.Êrenbua, M.Gorki), Ấn Độ (Ta-go), Đan Mạch (An-đec-xen), Tây Ban Nha
(Xec-van-tec)… và ở chương trình THPT thì giới thiệu thêm sử thi Hi Lạp, Ấn
14
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
Độ, Kịch phục hưng Anh (Sêchxpia), Thơ văn Pháp (Huy-gô, Ban-dăc), Nga
(Sê-khôp, Puskin, Đốt-xtôi-ep-xki), Ấn Độ (Ta-go)…
Đường thi được ưu tiên như thế nào?
Có thể thấy tỉ lệ về dung lượng trang viết cũng như về tiết dạy được phân
công của Đường thi không nhiều.
Như vậy, với dung lượng được phép không nhiều, chúng ta buộc lòng
phải tinh tuyển vài tác phẩm có giá trị của Đường thi để giới thiệu. Thành công
ở đây là đã giới thiệu những tác phẩm có giá trị tiêu biểu và là sáng tác của các
tác giả nổi tiếng của đời Đường. Họ là những nét tính cách cũng như phong cách
rất đặc trưng không ai giống ai, mỗi người là một gương mặt làm nên sự đa dạng
phong phú của nền thi ca chói lọi này. Đó là: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,
Thôi Hiệu. Gần đây, thêm Vương Duy, Hạ Tri Chương, Mạnh Hạo Nhiên…
1.4.2. Cấu trúc trình bày nội dung một bài thơ Đường trong SGK các
thời điểm:
1.4.2.1. Mô tả chi tiết:
* Năm 1989: Văn 9, tập hai:
- Bài giảng chính: 5 bài thơ (chỉ in phần dịch thơ): Kẻ lại ở Thạch Hào,
Bài hát gió thu tốc nhà, Đường đi khó, Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc
bố), Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tĩnh dạ tư)
Tên tác phẩm (Bằng tiếng Việt); Bản dịch thơ; I. Chú thích; II. Yêu cầu
đọc ; III. Hướng dẫn học bài.

- Bài đọc thêm: 4 bài thơ (chỉ in phần dịch thơ): Năm sắp hết, Khúc hát
hái sen, Đôi én rời nhau, Lầu Hoàng Hạc: được bố trí xen kẽ và không có phần
câu hỏi gợi ý tìm hiểu bài.
Lưu ý :
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Đỗ Phủ, Lí Bạch, Thôi Hiệu.
+ Bản dịch: Không ghi rõ xuất xứ bản dịch
+ Kích cỡ chữ: in chữ thường: Riêng tác phẩm được in bằng cỡ chữ lớn
hơn)
* Năm 1990:
Bản 1: Văn học 10, tập hai (Nguyễn Lộc, Phan Nhật Chiêu, Trần Xuân
Đề, Lê Ngọc Trà, Lương Duy Trung)
15
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
- Bài khái quát: Thơ Đường: 3 trang giấy khổ 14,5 x 20,5 (Có tranh minh
hoạ: Bức tranh thuỷ mặc Trung Quốc thế kỉ XII)
1. Tình hình xã hội thời Đường.
2. Nguyên nhân thơ Đường phát triển.
3. Các thời kì phát triển chính và các tác giả tiêu biểu
4. Thành tựu Thơ Đường về Nghệ thuật.
Và câu hỏi hướng dẫn học bài khái quát
- Giảng văn: 3 bài thơ: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng
Lăng, Đăng cao, Tì bà hành (trích)
Tên tác phẩm (bằng chữ Hán); Tiểu dẫn (về tác giả và đặc điểm chính
trong phong cách); Giới thiệu văn bản (Tên tác phẩm: in chữ đậm, phần dịch văn
xuôi và dịch thơ); Chú thích (in chữ nhỏ); Hướng dẫn học tập (chữ thường)
- Phần đọc thêm: 2 bài thơ: Tảo phát Bạch Đế thành, Hoàng Hạc lâu:
Trình bày thành một phần riêng (sau các bài giảng văn); Phần Hướng dẫn tìm
hiểu bài (Không đặt câu hỏi mà trình bày theo lối bình giảng).
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu.

+ Bản dịch: (Đều in rõ xuất xứ bản dịch)
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố dịch -
Thơ Đường, tập hai, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987); Đăng cao (Nam Trân dịch -
Thơ Đường, tập hai, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987); Tì bà hành (Phan Huy Thực
dịch - Thơ Đường, tập một, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987); Tảo phát Bạch Đế
thành (Tương Như dịch - Thơ Đường, tập hai, Nxb Văn học, 1987); Hoàng Hạc
lâu (Tản Đà dịch - Ngày nay, số 80, 1937).
+ Kích cỡ chữ: Tên tác phẩm: in chữ đậm; Tiểu dẫn, phần văn bản in chữ
nghiêng; Bài khái quát và câu hỏi hướng dẫn học tập in chữ thường; Phần chú
thích in chữ nhỏ.
Bản 2: Văn 10: Phần văn học nước ngoài và Lí luận văn học: Nguyễn
Đăng Mạnh (Chủ biên), Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu Đức Trung, Nguyễn Khắc
Phi, Lương Duy Thứ, Lê Khắc Hoà.
- Bài khái quát: Thơ Đường: 5 trang giấy in khổ 14,5 x 20,5 (không có
tranh minh hoạ và câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu)
16
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
I. Nguyên nhân phát triển:
II. Một số đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật thơ Đường.
1. Khái quát nội dung
2. Hình thức nghệ thnật
- Bài giảng về tác phẩm: 4 bài thơ: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên
chi Quảng Lăng, Thu hứng, Hoàng Hạc lâu, Tì bà hành: Tên bài thơ (bằng chữ
Hán); văn bản: in phiên âm, dịch nghĩa (tên tác phẩm bằng tiếng Việt) và dịch
thơ (Cùng một cỡ chữ); chú giải (đôi nét về tác giả và các từ khó hiểu); Hướng
dẫn học bài (in chữ nhỏ).
- Phần đọc thêm: 2 bài thơ: Tảo phát Bạch Đế thành, Nguyệt dạ: Trình bày
xen kẽ các bài học chính (in theo cụm tác giả) và có phần câu hỏi hướng dẫn học
bài.
Lưu ý:

+ Trình tự giới thiệu tác giả: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị
+ Bản dịch: Không ghi rõ xuất xứ bản dịch (trừ bản dịch thứ hai của bài
Tảo phát Bạch Đế thành)
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố dịch);
Tảo phát Bạch Đế thành (bản dịch thứ nhất: Tương Như; Bản dịch thứ hai: Theo
Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 1, Nxb giáo dục, 1987); Thu hứng (Công Trứ
dịch); Nguyệt dạ (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch thứ hai: Khương Hữu
Dụng); Hoàng Hạc lâu (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch thứ hai: Khương
Hữu Dụng); Tì bà hành (không in dịch giả).
+ Kích cỡ chữ: Tên tác phẩm: in chữ đậm, Văn bản in chữ thường; bài
khái quát, chú giải, câu hỏi hướng dẫn học bài in chữ nhỏ
* Năm 1993: Văn học 10, tập hai, ban KHTN và Ban KHTN - KT:
Nguyễn Khắc Phi (Văn học Trung Quốc), Nguyễn Hoàng Tuyên (Văn học cổ Hi
Lạp và Văn học Anh), Lưu Đức Trung (Văn học Ấn Độ), Trần Đình Sử (lí luận
văn học)
- Bài khái quát: Thơ Đường: 6 trang khổ giấy in 14,5 x 20,5 (Không chia
các đề mục, không có tranh minh hoạ, không có câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu)
- Bài giảng về tác phẩm: 3 bài thơ: Hoàng Hạc lâu, Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Đăng cao: Tên tác giả, Giới thiệu nét chính
17
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
về tác giả, tên tác phẩm (bằng chữ Hán, có chú thích bằng tiếng Việt liền sau),
văn bản (nguyên bản, dịch nghĩa, dịch thơ), chú giải, hướng dẫn học bài.
- Bài đọc thêm: Tì bà hành trình bày trong phần dành riêng cho đọc thêm
văn học nước ngoài, có câu hỏi hướng dẫn đọc thêm.
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Thôi Hiệu, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị
+ Bản dịch: Chỉ ghi dịch giả, không ghi rõ xuất xứ (Trừ Đăng cao, Tì bà
hành không ghi tên dịch giả)
Hoàng Hạc lâu (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch thứ hai: Khương

Hữu Dụng); Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố
dịch).
+ Kích cỡ chữ: Tên bài, tên tác phẩm, tác giả in đậm, cỡ chữ lớn; Bài khái
quát, văn bản, câu hỏi hướng dẫn in chữ thường; Phần giới thiệu nét chính về tác
giả và chú giải in chữ nhỏ.
* Năm 1993: Văn học 10, tập hai, ban KHXH: Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu
Đức Trung, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử.
- Bài khái quát: 10 trang khổ giấy in 14,5 x 20,5 (Không chia các đề mục,
không có tranh minh hoạ, không có câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu)
- Bài giảng về tác phẩm: 5 bài thơ: Hoàng Hạc lâu, Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thu hứng, Đăng cao, Tì bà hành: Tên tác
phẩm (bằng chữ Hán, có chú thích bằng tiếng việt liến sau), giới thiệu nét chính
về tác giả, văn bản: Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, câu hỏi hướng dẫn
học bài.
- Bài đọc thêm: 2 bài thơ: Tảo phát Bạch Đế thành, Nguyệt dạ: Trình bày
xen kẽ giữa các bài giảng chính và theo cụm tác giả; có câu hỏi hướng dẫn đọc
thêm (Tảo phát Bạch Đế thành), gợi ý những nội dung chính của bài (Nguyệt
dạ).
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Thôi Hiệu, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
+ Bản dịch: Ghi dịch giả nhưng không ghi xuất xứ bản dịch (Trừ bản dịch
thứ hai của bài Tảo phát Bạch Đế thành và bản dịch Tì bà hành không in dịch
giả)
18
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
Hoàng Hạc lâu (bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch thứ hai: Khương
Hữu Dụng); Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố
dịch); Tảo phát Bạch Đế thành (Bản dịch thứ nhất: Tương Như, Bản dịch thứ
hai: Theo Lịch Sử văn học Trung Quốc, tập I, Nxb Giáo dục, 1987), Thu hứng
(Nguyễn Công Trứ dịch); Đăng cao (Nam Trân dịch); Nguyệt dạ (Khương Hữu

Dụng dịch).
+ Kích cỡ chữ: Tên bài, tên tác phẩm: in chữ to và đậm; Bài khái quát,
phần văn bản, câu hỏi hướng dẫn học bài in chữ thường; phần giới thiệu tác giả
và chú giải in chữ nhỏ; phần tên tác phẩm bằng tiếng Việt: in chữ nghiêng cỡ
nhỏ).
* N ăm 1995 : Văn học 9, tập hai (chỉnh lí năm 1995): Biên soạn: Đỗ
Quang Lưu, Nguyễn Lộc, Nguyễn Quốc Tuý; Chỉnh lí: Đỗ Bình Trị, Hoàng
Ngọc Hiến, Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Văn Long
- Bài giảng chính: 6 bài thơ: Đường đi khó, Xa ngắm thác núi Lư, Cảm
nghĩ trong đêm thanh tĩnh, Viên lại ở Thạch Hào, Một mình dạo chơi tìm hoa ven
sông, Tuyệt cú (chùm thơ 4 bài chọn 1): Tên bài thơ (Bằng tiếng Việt, có chú
thích tên phiên âm chữ Hán liền sau), tiểu dẫn, văn bản (phiên âm, dịch nghĩa,
dịch thơ), chú giải, hướng dẫn học bài.
- Bài đọc thêm: 4 bài thơ: Khúc hát hái sen, Thu Phố ca, Bài hát nhà tranh
bị gió thu phá nát, Tuyệt cú (chùm thơ 6 bài chọn 1): Tên tác phẩm, văn bản
(phiên âm, dịch nghĩa, dicịh thơ), chú giải, Hướng dẫn học bài dưới dạng câu
hỏi. Trình bày xen kẽ các bài giảng chính, theo cụm tác giả.
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Lí Bạch, Đỗ Phủ
+ Bản dịch: Ghi dịch giả, không ghi xuất xứ bản dịch (Trừ bản dịch bài
Xa ngắm thác núi Lư, Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
Đường đi khó ( N.K.P dịch), Xa ngắm thác núi Lư ( Tương Như dịch -
Thơ Đường, tập hai, Nxb Văn học, H, 1987, tr. 59); Cảm nghĩ trong đêm thanh
tĩnh (Tương Như dịch - Thơ Đường, tập hai, Nxb Văn học, 1987, tr. 47); .Khúc
hát hái sen (Tản Đà dịch); Thu phố ca (N.K.P dịch); Viên lại ở Thạch Hào
(Khương Hữu Dụng dịch); Một mình dạo chơi tìm hoa ven sông (N.K.P dịch);
Tuyệt cú - 1 trong chùm thơ 4 bài (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch thứ hai:
19
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
Tương Như); Bài hát nhà tranh bị gió thu phá nát ( Khương Hữu Dụng dịch);

Tuyệt cú - 1 trong chùm thơ 6 bài (Khương Hữu Dụng dịch).
+ Kích cỡ chữ: Tên tác phẩm in chữ đậm, cỡ to (phần chú thích tên tác
phẩm bằng phiên âm chữ Hán: chữ đậm, cỡ nhỏ); tiểu dẫn in chữ nghiêng cỡ
thường; văn bản in chữ thường; Chú giải và câu hỏi hươngns dẫn học bài in chữ
nhỏ.
* Năm 1995: Văn 10, phần văn học nước ngoài và Lí luận văn học:
Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoàn Tuyên, Nguyễn Khắc Phi, Lưu Đức Trung,
Lương Duy Thứ, La Khắc Hoà.
- Bài khái quát: Thơ Đường: 4 trang giấy in khổ 14,5 x 20,5.(không tranh
minh hoạ và câu hỏi hướng dẫn học bài)
I. Nguyên nhân phát triển
II. Một số đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật:
1. Khái quát nội dung
2. Hình thức nghệ thuật
- Bài giảng tác phẩm: 4 bài: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng, Thu hứng, Hoàng Hạc lâu, Tì bà hành: Tên tác phẩm (bằng Phiên
âm chữ Hán), văn bản phiên âm, dịch nghĩa (tên tác phẩm bằng tiếng Việt, văn
bản dịch nghĩa), dịch thơ, chú giải và Hướng dẫn học bài dưới dạng câu hỏi.
- Bài đọc thêm: 2 bài thơ: Tảo phát Bạch Đế thành, Nguyệt dạ: Văn bản
(Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ), chú giải và hướng dẫn học bài. Trình bày xen
kẽ các bài giảng chính theo cụm tác giả.
Lưu ý:
+ Trình tự giói thiệu tác giả: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị.
+ Bản dịch: chỉ in dịch giả, không in xuất xứ bản dịch (Trừ bản dịch thứ
hai của bài Tảo phát Bạch Đế thành chỉ in xuất xứ, Tì bà hành không in dịch giả)
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố dịch);
Tảo phát Bạch Đế thành ( Bản dịch thứ nhất: Tương Như; Bản dịch thứ hai:
Theo Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 1, Nxb Giáo dục, 1987) ; Thu hứng
(Nguyễn Công Trứ dịch); Nguyệt dạ (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà,; Bản dịch thứ
hai: Khương Hữu Dụng); Hoàng Hạc lâu (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch

thứ hai: Khương Hữu Dụng).
20
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
+ Kích cỡ chữ: Tên bài in chữ đậm cỡ lớn, văm bản in chữ thường, Bài
khái quát, chú giải, hướng dẫn học bài in chữ nhỏ).
* Năm 1997: Văn học 10, tập hai, Ban KHTN và Ban KHTN - KT:
- Bài khái quát: Thơ Đường: 6 trang giấy in khổ 14,5 x 20,5 (Không chia
đề mục, không in tranh minh hoạ)
- Bài giảng tác phẩm: 3 bài thơ: Hoàng Hạc lâu, Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Đăng cao: Tên tác giả, Giới thiệu nét chính
về tác giả, tên tác phẩm (bằng chữ Hán, có chú thích bằng tiếng Việt liền sau),
nguyên bản, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, hướng dẫn học bài.
- Bài đọc thêm: Tì bà hành trình bày trong phần dành riêng cho đọc thêm
văn học nước ngoài, có câu hỏi hướng dẫn đọc thêm.
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Thôi Hiệu, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị
+ Bản dịch: Chỉ ghi dịch giả, không ghi rõ xuất xứ (Trừ Đăng cao, Tì bà
hành không ghi tên dịch giả)
Hoàng Hạc lâu (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch thứ hai: Khương
Hữu Dụng); Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố
dịch).
+ Kích cỡ chữ: tên bài, tên tác phẩm, tác giả in đậm, cỡ chữ lớn; Bài khái
quát, văn bản, câu hỏi hướng dẫn in chữ thường; Phần giới thiệu nét chính về tác
giả và chú giải in chữ nhỏ.
* Năm 1997: Văn học 10, tập hai, Ban KHXH
- Bài khái quát: Thơ Đường: 10 trang giấy in khổ 14,4 x 20,5 (chia đề
mục, không có tranh minh hoạ và câu hỏi hướng dẫn học bài).
- Bài giảng chính: 5 tác phẩm: Hoàng Hạc lâu, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng lăng, Thu hứng, Đăng cao, Tì bà hành. Tên tác phẩm
(bằng chữ Hán, có chú thích bằng tiếng việt liền sau), giới thiệu nét chính về tác

giả, văn bản (Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ), chú giải, câu hỏi hướng dẫn học
bài.
- Bài đọc thêm: 2 bài thơ: Tảo phát Bạch Đế thành, Nguyệt dạ: Trình bày
xen kẽ giữa các bài giảng chính và theo cụm tác giả; có câu hỏi hướng dẫn đọc
21
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
thêm (Tảo phát Bạch Đế thành), gợi ý những nội dung chính của bài (Nguyệt
dạ).
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Thôi Hiệu, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
+ Bản dịch: Ghi dịch giả nhưng không ghi xuất xứ bản dịch (Trừ bản dịch
thứ hai của bài Tảo phát Bạch Đế thành và bản dịch Tì bà hành không in dịch
giả)
Hoàng Hạc lâu (bản dịch thứ nhất: Tản Đà; Bản dịch thứ hai: Khương
Hữu Dụng); Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng ( Ngô
Tất Tố dịch); Tảo phát Bạch Đế thành (Bản dịch thứ nhất: Tương Như,; Bản
dịch thứ hai: Theo Lịch Sử văn học Trung Quốc, tập I, Nxb Giáo dục, 1987), Thu
hứng (Nguyễn Công Trứ dịch); Đăng cao (Nam Trân dịch); Nguyệt dạ (Khương
Hữu Dụng dịch).
+ Kích cỡ chữ: Tên bài, tên tác phẩm: in chữ to và đậm; Bài khái quát,
phần văn bản, câu hỏi hướng dẫn học bài in chữ thường; phần giới thiệu tác giả
và chú giải in chữ nhỏ; phần tên tác phẩm bằng tiếng Việt: in chữ nghiêng cỡ
nhỏ).
* Năm 2000: Văn học 10, tập hai (Sách chỉnh lí hợp nhất)
- Bài khái quát: Thơ Đường: 6 trang giấy in khổ 14,5 x 20,5 (chia đề mục,
không có tranh minh hoạ và câu hỏi hướng dẫn học bài)
I. Nguyên nhân phát triển
II. Một số đặc điểm về hình thức nghệ thuật
1. Thể thơ.
2. Ngôn ngữ thơ và tứ thơ

III. Thơ Đường với văn học Việt Nam.
- Bài giảng tác phẩm chính: 4 bài thơ: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng, Thu hứng, Hoàng Hạc lâu, Tì bà hành: Tên tác giả, giới
thiệu tác giả và tác phẩm, tên tác phẩm (bằng phiên âm chữ Hán, có chú thích
bằng tiếng Việt liền sau), văn bản (Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ), chú thích và
Hướng dẫn học bài.
- Bài đọc thêm: 2 bài thơ: Tảo phát Bạch Đế thành, Nguyệt dạ: Tên tác
phẩm (bằng phiên âm chữ Hán, có chú thích tiếng Việt liền sau), văn bản (phiên
22
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
âm, dịch nghĩa, dịch thơ), chú thích và Hướng dẫn học bài. Trình bày xen kẽ với
các tác phẩm giảng văn, theo cụm tác giả.
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị.
+ Bản dịch: Đều in rõ dịch giả và xuất xứ bản dịch.
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố dịch -
Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987); Tảo phát Bạch Đế thành (Bản
dịch thứ nhất: Tương Như - Thơ Đường, tập II, NXB văn học, Hà Nội, 1987;
Bản dịch thứ hai: N. K.P dịch - Theo Lịch sử văn học Trung Quốc, tập I, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1987); Thu hứng (Nguyễn Công Trứ dịch - Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987); Đăng cao (Nam Trân dịch - Thơ Đường, tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987); Hoàng Hạc lâu (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà dịch -
Ngày nay, số 80, 1937; Bản dịch thứ hai: Khương Hữu Dụng dịch - Thơ ca cổ
điển Trung Quốc, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1997); Tì bà hành (Phan
Huy Vịnh dịch - Thơ Đường, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1987).
+ Kích cỡ chữ: Tên bài học: in đậm, cỡ chữ lớn; Bài khái quát, giới thiệu
tác giả, tác phẩm, phiên âm, dịch nghĩa in chữ thường; Chú thích: in chữ nhỏ;
Dịch thơ, Hướng dẫn học bài, tên tác phẩm chú thích bằng tiếng Việt in chữ
nghiêng, cỡ nhỏ.
* Năm 2001: Ngữ văn 7, tập một:

- Không có bài khái quát.
- Các tác phẩm giảng chính: 4 bài thơ: Xa ngắm thác núi Lư, Cảm nghĩ
trong đêm thanh tĩnh, Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê, Bài ca nhà tranh bị
gió thu phá: Kết quả cần đạt, tên bài, Phiên âm, dịch nghĩa, giải thích chữ Hán,
dịch thơ, Chú thích, Đọc - hiểu văn bản Ghi nhớ.
- Bài đọc thêm: 1 bài: Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều: Văn bản (Tên tác
phẩm, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ).
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Lí Bạch, Trương Kế, Hạ Tri Chương, Đỗ
Phủ.
+ Bản dịch: Ghi rõ dịch giả và xuất xứ bản dịch.
23
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
Xa ngắm thác núi Lư ( Tương Như dịch - Thơ Đường, tập II, Nxb Văn
học, Hà Nội, 1987); Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều (Tản đà dịch - Thơ Đường,
tập I, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987); Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh (Tương Như
dịch - Thơ Đường, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987); Ngẫu nhiên viết nhân
buổi mới về quê ( Phạm Sĩ Vĩ dịch - Thơ ĐƯờng, tập I, Nxb văn học, Hà Nội,
1987; Trần Trọng San dịch - Thơ Đường, tập I, Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966); Bài ca
nhà tranh bị gió thu phá (Khương Hữu Dụng dịch - Thơ Đỗ Phủ, Nxb Văn học,
Hà Nội 1962).
+ Kích cỡ chữ: Tên tác phẩm: in chữ đậm, cỡ lớn; Phiên âm, dịch nghĩa,
dịch thơ, ghi nhơ, các từ cần chú thích và giải nghĩa in chữ nghiêng, Đọc - hiểu
in chữ thường (Bài Xa ngắm thác núi Lư); phiên âm, dịch nghĩa, chú thích in chữ
thường, Dịch thơ, tên các từ chú thích in nghiêng (bài Đêm đỗ thuyền ở Phong
Kiều) Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, giải thích chữ Hán, chú thích, Đọc - hiểu
văn bản in chữ thường; Ghi nhớ các chữ Hán cần giải nghĩa in nghiêng (Cảm
nghĩ trong đem thanh tĩnh, Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê, Bài ca nhà
tranh bị gió thu phá).
* Năm 2003: SGK thí điểm Ngữ văn 10, tập một (Bộ 1):

BAN KHTN:
- Không có bài khái quát nhưng có phần tri thức đọc hiểu
- Bài giảng tác phẩm chính: 2 bài thơ: Lầu Hoàng Hạc, Tại lầu Hoàng
Hạc tiến Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng: Tên tác phẩm (Bằng Tiếng Việt có
chú thích phiên âm chữ Hán liền sau), yêu cầu cần đạt, tiểu dẫn, văn bản (Phiên
âm, dịch nghĩa, dịch thơ), hướng dẫn học bài.
- Bài đọc thêm bắt buộc: Cảm hứng mùa thu (Thu hứng), Khe chim kêu
(Điểu minh giản): Tên tác phẩm (Bằng tiếng Việt, có chú thích bằng phiên âm
chữ Hán liền sau): Trình bày sau phần các bài giảng chính và phần tri thức đọc
hiểu về thơ Đường. Có câu hỏi hướng dẫn đọc thêm.
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Thôi Hiệu, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy
+ Bản dịch: ghi rõ dịch giả và xuất xứ bản dịch:
Lầu Hoàng Hạc (Bản dịch thứ nhất: Tản Đà dịch - Báo Ngày nay, số 80,
1937; Bản dịch thứ hai: Khương Hữu Dụng dịch - Thơ ca cổ điển Trung Quốc,
24
Mạnh Thị Minh Khóa luận: Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam
NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Miinh, 1997); Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo
Nhiên đi Quảng Lăng (Ngô Tất Tố dịch - Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà
Nội, 1987); Cảm hứng mùa thu (Nguyễn Công Trứ dịch - Thơ ĐƯờng, Tập II,
NXB Văn học, Hà Nội, 1987); Khe chim kêu (Bản dịch thứ nhất: Ngô Tất Tố -
Thơ Đường, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1987; Bản dịch thứ hai: Tương Như -
Thơ Đường, tập I, NXB Văn học Hà Nội, 1987).
+ Kích cỡ chữ: Phần học chính: in chữ thường, phần đọc thêm bắt buộc:
in chữ nhỏ. Cụ thể: Tên tác phẩm: in chữ to nét đậm, Phiên âm, dịch nghĩa,
Hướng dẫn học bài, Tri thứ đọc hiểu in chữ bình thưòng; tiểu dẫn, chú thích in
chữ thường cỡ nhỏ; yêu cầu cần đạt và dịch thơ in chữ nghiêng.
+ Phần chú thích: in cuối mỗi trang.
BAN KHXH VÀ NV:
- Không có bài khái quát nhưng có bài Tri thức đọc hiểu trình bày sau

những tác phẩm giảng chính.
- Bài giảng tác phẩm chính: 4 bài thơ: Nỗi oán của người phòng khuê
(Khuê oán), Lầu Hoàng Hạc, Đường đi khó, Trông xuân (Xuân vọng): Tên tác
phẩm (Bằng Tiếng Việt có chú thích phiên âm chữ Hán liền sau), yêu cầu cần
đạt, tiểu dẫn, văn bản (Phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ), hướng dẫn học bài, bài
tập nghiên cứu.
- Bài đọc thêm bắt buộc: 3 bài thơ: Cảm hứng mùa thu, Tì bà hành, Khe
chim kêu: In cỡ chữ nhỏ: Tên tác phẩm, Tiểu dẫn, Văn bản, chú thích, hướng dẫn
đọc thêm.
Lưu ý:
+ Trình tự giới thiệu tác giả: Vương Xương Linh, Thôi Hiệu, Lí Bạch, Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy.
+ Bản dịch: Ghi rõ dịch giả và xuất xứ bản dịch (Trừ Đường đi khó, Cảm
hứng mùa thu, Khe chim kêu: chỉ in dịch giả ).
Nỗi oán của người phòng khuê ( Bản dịch thứ nhất: Tản Đà - Thơ Đường -
tập I, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987; Bản dịch thứ hai: Trần Trọng Kim - Thơ
Đường, quyển I, Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1966); Lầu Hoàng Hạc (Bản dịch thứ nhất:
Tản Đà, báo Ngày nay, số 80, 1937; Bản dịch thứ hai: Khương Hữu Dụng: Thơ
ca cổ điển Trung Quốc, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1977); Đường đi
25

×