LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khoá luận này, tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm giúp
đỡ của thầy cô và bạn bè. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban chủ
nhiệm cùng các thầy cô giáo khoa Giáo dục tiểu học - Những người đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, các giáo viên và các cháu trường Mầm
non trên địa bàn Thành phố Vinh đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
khoá luận lần này.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã quan tâm, động
viên, khích lệ tôi trong suốt thời gian thực hiện khoá luận.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn –
ThS. Trần Thị Hoàng Yến – người đã dành cho tôi sự chỉ bảo tận tình.
Bước đầu tôi làm công tác nghiên cứu khoa học nên không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô giáo, bạn
bè, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học giáo dục để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Vinh, tháng 5 năm 2010
Sinh viên: Nguyễn Thị Xoan
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................2
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu..............................................2
4. Giả thiết khoa học........................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................3
7. Đóng
góp
của
đề
tài......................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1.
Lịch
sử
nghiên
cứu
vấn
đề........................................................................4
1.2.
Một
số
khái
niệm
cơ
bản
liên
quan
đến
đề
tài...........................................7
1.2.1.
Khái
niệm
ngôn
ngữ
hội
thoại...................................................................7
1.2.2.
Ngôn
ngữ
hội
thoại
của
trẻ
mầm
non.......................................................8
1.2.3.
Phát
triển
ngôn
ngữ
hội
thoại
cho
trẻ
5
-
6
tuổi.........................................9
1.3. Quá trình tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5- 6
tuổi......................................................................................................................1
0
1.3.1. Sự hình thành và phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ lứa tuổi mầm
non......................................................................................................................1
2
01.3.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ 5 - 6
tuổi........................11
1.3.3 Vai trò của việc phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ lứa tuổi mầm
non.......................................................................................................................
12
1.3.4. Mục tiêu, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ
mẫu
giáo
5-
6
tuổi................................................................................................13
1.4. Làm quen với thơ, truyện và việc phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với thơ,
truyện.............................................15
1.4.1. Hoạt động làm quen với thơ, truyện cho trẻ 5- 6
tuổi...............................15
1.4.2. Vai trò của hoạt động làm quen với thơ, truyện đối với việc phát triển
ngôn
ngữ
hội
thoại
cho
trẻ
5
-
6
tuổi..................................................................16
1.4.3. Các hình thức tổ chức hoạt động làm quen với thơ, truyện trong chương
trình chăm sóc giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi nhằm phát triển ngôn ngữ hội thoại
cho
trẻ.................................................................................................................17
1.4.4. Các phương pháp được sử dụng trong quá trình cho trẻ 5 – 6 tuổi làm
quen
với
thơ,
truyện
nhằm
phát
triển
ngôn
ngữ
hội
thoại...................................21
1.5.
Kết
luận
chương
1........................................................................................23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
HỘI THOẠI CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI TRONG QUÁ TRÌNH
LÀM QUEN VỚI THƠ, TRUYỆN
3
Phần 1. Thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ 5- 6 tuổi trong quá
trình
làm
quen
với
thơ,
truyện.....................................................................................25
2.1. Khái quát về tình hình nghiên cứu thực trạng phát triển ngôn ngữ hội
thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi trong quá trình làm quen với thơ,
truyện.................................25
2.1.1.
Mục
đích
nghiên
cứu.................................................................................25
2.1.2.
Đối
tượng
khảo
sát....................................................................................25
2.1.3.
Nội
dung
nghiên
cứu.................................................................................25
2.1.4.
Phương
pháp
nghiên
cứu...........................................................................26
2.2. Phân tích kết quả nghiên cứu thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại cho
trẻ
5
-
6
tuổi
thông
qua
hoạt
động
làm
quen
với
thơ,
truyện...............................26
2.2.1. Nhận thức của giáo viên mầm non về việc phát triển ngôn ngữ hội thoại
cho
trẻ
thông
qua
hoạt
động
làm
quen
với
thơ,
truyện.......................................26
2.2.2. Thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
hoạt
động
làm
quen
với
thơ,
truyện.............................................................................28
Phần 2. Một số hình thức, biện pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5- 6
tuổi
trong
quá
trình
làm
quen
truyện......................................................37
Kết luận chương
2...............................................................................................51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM
4
với
thơ,
1. Kết
luận...........................................................................................................52
2. Kiến
nghị.........................................................................................................53
TÀI LIỆU THAM
KHẢO.................................................................................54
PHIẾU ĐIỀU
TRA...........................................................................................73
5
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Usinxki đã từng nói: “Tất cả mọi hiểu biết đều bắt đầu từ ngôn ngữ và
trở lại với ngôn ngữ. Ngôn ngữ là cơ sở đầu tiên của mọi sự phát triển, là kho
tàng của mọi tri thức, là nền tảng của mọi hoạt động sau này”. Thật vậy, để
trở thành con người hoàn thiện với sự hiểu biết, khả năng nhận thức, đời sống
tình cảm phong phú thì ngay từ nhỏ đứa trẻ phải được sống trong môi trường
xã hội, môi trường ngôn ngữ nhất định. Chính vì vậy, “Việc dạy tiếng mẹ đẻ
một cách có hệ thống , việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cơ sở cho toàn bộ
hệ thống giáo dục mầm non” (Theo E.Tikheva – “Phương pháp phát triển
ngôn ngữ trẻ em” – NXBGD, 1977).
Trẻ mầm non là độ tuổi có nhiều bước phát triển về tư duy và ngôn ngữ.
Vì thế, việc dạy ngôn ngữ giai đoạn này là rất quan trọng trong đó phát triển
ngôn ngữ hội thoại cho trẻ là cần thiết hơn cả. Bởi trong cuộc sống hằng ngày,
ngôn ngữ hội thoại là phương tiện giao tiếp căn bản thường xuyên và quan
trọng nhất. Thế nên để trẻ có khả năng giao tiếp với những người xung quanh,
ngoài việc giúp trẻ giao tiếp tốt bằng phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt,
nụ cười, những cử chỉ, hành động đẹp... cần giúp trẻ biết sử dụng ngôn ngữ
mẹ đẻ lưu loát để giao tiếp. Hình thành và phát triển những kỹ năng ngôn ngữ
hội thoại cho trẻ, trẻ mới có thể giao tiếp một cách thuận lợi, dễ dàng, hiệu quả
và thể hiện suy nghĩ một cách đầy đủ. Qua đó giúp trẻ lĩnh hội thông tin và
cảm nhận tình cảm của người đối thoại. Như vậy, ngôn ngữ hội thoại sẽ là
phương tiện giúp trẻ thực hiện tốt quá trình giao tiếp, vừa là mục đích thu
nhập thông tin có hiệu quả.
Đối với trẻ 5 - 6 tuổi nhu cầu giao tiếp của trẻ ngày càng lớn, cũng như
vậy môi trường giao tiếp của trẻ được mở rộng. Nên việc hội thoại của trẻ ở
độ tuổi này cần được tăng lên về số lượng cuộc thoại và phát triển chủ đề nội
6
dung cuộc thoại đa dạng và phong phú hơn. Quan tâm đến vấn đề này, thông
qua các hình thức giáo dục ở trường mầm non và phối kết hợp với gia đình là
rất quan trọng. Hiện nay ở trường mầm non việc tổ chức hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ nói chung và việc phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ đã
được quan tâm, tuy nhiên chưa thật đúng mức. Vì thế việc tìm hiểu “Thực
trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong quá
trình làm quen với thơ, truyện ” giúp chúng tôi nhằm tìm ra một số biện pháp
để phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi một cách tốt nhất,
tạo cho trẻ những tiền đề cần thiết để trẻ có công cụ giao tiếp hoà nhập với
cộng đồng.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Tìm hiểu thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi trong
quá trình làm quen với thơ, truyện nhằm đề xuất một số biện hình thức, biện
pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi
3. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi trong quá trình
làm quen với thơ, truyện.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Giáo viên mầm non và trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi ở một số trường mầm non trên
địa bàn thành phố Vinh
4. GIẢ THIẾT KHOA HỌC
Nếu trong quá trình cho trẻ 5 - 6 tuổi làm quen với thơ, truyện, giáo viên
mầm non nhận thức tốt ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ
và sử dụng các biện pháp phù hợp nhằm tích cực hoá hoạt động ngôn ngữ thì
sẽ góp phần phát triển kỹ năng hội thoại cho trẻ.
7
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về việc phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 6 tuổi và việc phát triển ngôn ngữ hội thoại trong quá trình làm quen với thơ,
truyện.
5.2. Nghiên cứu thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ 5- 6 tuổi trong
quá trình làm quen với thơ, truyện
5.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ
hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi trong quá trình làm quen với thơ, truyện.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Mục đích: Xây dựng cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiển
- Phương pháp quan sát
Mục đích: Tìm hiểu thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5– 6
tuổi thông qua quá trình làm quen với thơ, truyện.
- Phương pháp điều tra
Mục đích: Tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về việc phát triển
ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi làm quen với thơ, truyện.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lí kết quả điều tra thực tiễn
7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1. Góp phần hoàn thiện cơ sở lí luận về việc phát triển ngôn ngữ hội thoại
cho trẻ 5- 6 tuổi trong quá trình làm quen với thơ, truyện.
7.2. Làm rõ thực trạng phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5- 6 tuổi trong
quá trình làm quen với thơ, truyện.
7.3. Đề xuất một số biện pháp có hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ hội
thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua quá trình làm quen với thơ, truyện.
8
7.4. Giới thiệu một số giáo án thử nghiệm vận dụng các biện pháp giáo dục
nhằm phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi trong quá trình làm quen
với thơ, truyện.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
K.Mac đã từng nói: “Ngôn ngữ là một sự sáng tạo kì diệu của con
người. Ngôn ngữ cổ xưa như con người vậy”. Ngôn ngữ luôn song hành cùng
con người và là phương tiện giao tiếp quan trọng. Trong đó ngôn ngữ hội thoại
là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến nhất. Nó cũng là cơ sở của mọi
hoạt động ngôn ngữ khác.
Bởi vì thế, ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ hội thoại nói riêng luôn là
đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: triết học, ngôn ngữ học, tâm
lý học, giáo dục học, sinh lý học, xã hội học... Có thể nói vấn đề này có sự
đóng góp rất lớn của nhiều tác giả như: I.Acomenxki, I.Jrutxo, J.Hpestoloji,
K.Uxinsky, J.Piegie... Những công trình nghiên cứu của các tác giả đã trở
thành kinh điển. Và người đặt nền móng đầu tiên cho quá trình nghiên cứu sự
phát triển ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ hội thoại cho trẻ em có hệ thống
nhất là nhà giáo dục nổi tiếng bà E.Tikheeva (1867 - 1943) với tác phẩm
“Phát triển ngôn ngữ trẻ em”. Trong tác phẩm của mình, bà đã đề xuất một số
phương pháp, hình thức giáo dục ngôn ngữ cho trẻ trước tuổi đến trường mà
cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị khoa học của nó.
Vấn đề ngôn ngữ hội thoại cũng được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục
ở Việt Nam quan tâm. Tiêu biểu phải kể đến cuốn giáo trình nổi tiếng “Đại
cương ngôn ngữ học” của tác giả Đỗ Hữu Châu. Tác phẩm của ông nghiên
cứu rất sâu về những vấn đề: đặc điểm, quy tắc dạng vận động hội thoại... Với
9
tác phẩm của mình ông đã có đóng góp rất lớn cho ngôn ngữ học nước nhà khi
khai sáng lý thuyết ngôn ngữ hội thoại.
Liên quan đến vấn đề phát triển ngôn ngữ hội thoại nói chung và cho trẻ
mầm non nói riêng được nhóm tác giả Đinh Thị Oanh - Vũ Thị Kim Dung Phan Thị Thanh trong giáo trình của dự án phát triển giáo viên Tiểu học của
Bộ giáo và Đào tạo cũng đã quan tâm nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ hội thoại ở
công trình nghiên cứu:“Tiếng Việt và phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu
học”. Công trình nghiên cứu này đã trình bày những nét cơ bản nhất về lý
thuyết hội thoại: dạng vận động, cấu trúc, quy tắc hội thoại... Điều quan trọng
hơn nữa là giáo trình đã đề cao việc vận dụng ngôn ngữ hội thoại trong dạy
học và phát triển ngôn ngữ hội thoại cho học sinh tiểu học.
Đối với lĩnh vực giáo dục mầm non cũng có một số nhà nghiên cứu đã
đề cập đến vấn đề phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ như Đinh Hồng Thái
trong cuốn giáo trình “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non”.
Tác giả viết: “Cần đặc biệt chú ý phát triển các thói quen hội thoại cho trẻ.
Công việc này thể hiện khi trẻ học nghe và hiểu lời nói của người khác, trẻ trả
lời các câu hỏi được đặt ra một cách mạch lạc” (tr 91).
Các tác giả Hoàng Thị Oanh, Nguyễn Thị Việt, Nguyễn Kim Đức trong
giáo trình “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi” cũng đã
xây dựng hệ thống các phương pháp và một số bài tập thực hành tạo cơ sở cho
việc phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ một cách tốt nhất.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong giáo trình “Phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” của mình cũng đề xuất hệ thống phương pháp
phát triển ngôn ngữ: phương pháp trực quan, phương pháp dùng lời, phương
pháp thực hành trò chơi.
Với những góc độ nghiên cứu khác nhau các nhà khoa học, giáo dục đều
phát hiện ra “mảnh đất màu mỡ” đối với sự phát triển ngôn ngữ hội thoại của
trẻ. Đó là thông qua quá trình cho trẻ làm quen với thơ, truyện.
Tác giả Ph.A.Xôkhin và các cộng sự trong “Sự phát triển ngôn ngữ trẻ
em lứa tuổi mẫu giáo” cho rằng: các biện pháp dạy trẻ kể chuyện, kể lại tác
10
phẩm văn học... có tác dụng thúc đẩy quá trình phát triển ngôn ngữ hội thoại
cho trẻ mẫu giáo.
Tác giả Đinh Hồng Thái trong cuốn giáo trình “Phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non” cũng đã khẳng định rằng: “Các giờ cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học là những loại giờ chiếm ưu thế phát triển lời nói
hội thoại cho trẻ ” (tr 30).
Và một số luận văn đại học, cao đẳng cũng có đề cập đến đặc điểm ngôn
ngữ mạch lạc nói chung, ngôn ngữ hội thoại nói riêng của trẻ mẫu giáo và các
biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Trong luận văn: Một số biện
pháp dạy kể chuyện theo tranh có chủ đề nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc
cho trẻ mẫu giáo - 2001 của Nguyễn Thuỳ Linh do Tiến sĩ Đinh Hồng Thái
hướng dẫn có viết: “Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc (hội thoại) cho trẻ
phải được tiến hành trên các môn học khác nhau, trong đó môn cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học là môn học có nhiều thuận lợi nhất” . Theo tác giả:
“Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học với các hình thức câu nói khác
nhau nhằm hình thành cho trẻ thói quen sử dụng ngôn ngữ mạch lạc trong
giao tiếp”.
Như vậy việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học sẽ là điều kiện
thuận lợi nhất để phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mẫu giáo.
Khẳng định lại vấn đề này tác giả A.M.Leusina viết: “Kể chuyện có ý
nghĩa to lớn trong việc phát triển lời nói có cấu trúc chặt chẽ cho trẻ mẫu
giáo”. Vậy cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là tiền đề, nền tảng phát
triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ. Nhìn chung, vấn đề hội thoại trong giao tiếp
của con người đặc biêt của trẻ em nói riêng được giới khoa học quan tâm. Tuy
nhiên thực tế vấn đề này chưa thực sự là vấn đề cấp thiết trong giáo dục mầm
non. Các công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở những lí thuyết chung, nhận
định chung mà chưa đưa ra các biện pháp tác động sư phạm cụ thể để tăng
cường phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ, nhất là trong quá trình cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học, nhằm tìm kiếm cách thức tốt nhất để trẻ giao tiếp
tốt hơn trong xã hội
11
1.2.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ hội thoại.
Theo Đỗ Hữu Châu “Ngôn ngữ hội thoại là một trong những hoạt động
ngôn ngữ thành lời giữa hai hay nhiều nhân vật trực tiếp tham gia hoạt động
giao tiếp, trong ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có sự tương tác qua lại về
hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định”;
“Ngôn ngữ hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn
ngữ, nó cũng là hình thức, cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”.
Như vậy ngôn ngữ hội thoại là ngôn ngữ giữa hai hay một số người với
nhau, người này nói thì người kia nghe và ngược lại. Ngôn ngữ hội thoại nhằm
trao đổi thông tin giữa các đối tượng tham gia hội thoại. Nó có tính chất tình
huống, liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh hội thoại.
Ngôn ngữ hội thoại là một trong những hình thức của ngôn ngữ mạch lạc.
Vì thế, phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ là tạo tiền đề để phát triển ngôn
ngữ mạch lạc. Hay nói cách khác là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ,
khả năng trao - đáp lời, khả năng trình bày có lôgic trình tự, chính xác và có
nội dung theo một chủ đề nhất định.
Ngôn ngữ hội thoại tồn tại dưới hai hình thức khác nhau. Đó là lời ăn
tiếng nói trong sinh hoạt hàng ngày của mọi người và lời trao - đáp của nhân
vật trong tác phẩm văn học. Như vậy, phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ
thông qua tác phẩm văn học có ý nghĩa rất lớn trong sự hình thành kỹ năng hội
thoại vừa có tính khẩu ngữ, vừa mang tính nghệ thuật.
Trong ngôn ngữ hội thoại các phương tiện phi ngôn ngữ đóng vai trò hết
sức quan trọng, như là những cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, nụ cười... Cuộc thoại sẽ
khô khan tẻ nhạt khi người tham gia hội thoại thiếu đi nụ cười, ánh mắt biểu
cảm.
Dạng hội thoại căn bản là song thoại. Ở dạng này có hai nhân vật trực
tiếp tham gia vào cuộc hội thoại. Bên cạnh đó có thể có đa thoại (nhiều nhân
vật tham gia hội thoại). Đây là hình thức hội thoại mang tính phức tạp, khó
khăn khi đứa trẻ tham gia vào hội thoại, bởi nó mang nhiều tâm tư, suy nghĩ
12
khác nhau yêu cầu người tham gia phải chuẩn bị kỹ trước khi tham gia mới
được cuộc thoại chấp nhận.
Như vậy hội thoại là hoạt động giao tiếp thường xuyên, phổ biến cần
được quan tâm, phát triển, nhất là đối với lứa tuổi mầm non - lứa tuổi nền
móng của mọi sự phát triển.
1.2.2. Ngôn ngữ hội thoại của trẻ mầm non
Ngôn ngữ hội thoại của trẻ mầm non cũng là câu chuyện giữa hai hay
nhiều chủ thể nói năng, có thể là câu chuyện giữa cô và trẻ hoặc là câu chuyện
giữa trẻ và trẻ. Ngôn ngữ hội thoại của trẻ mầm non là một trong những hình
thức của ngôn ngữ mạch lạc. Ngôn ngữ hội thoại của trẻ mầm non có những
đặc trưng riêng.
Ngôn ngữ hội thoại của trẻ mầm non đơn giản về cả mặt ngôn ngữ và cả
mặt tâm lí. Thật vậy, trong khi trẻ giao tiếp bằng ngôn ngữ hội thoại, trẻ có
thể sử dụng những câu nói có cấu trúc đơn giản, tỉnh lược các thành phần, có
khi chỉ còn một từ, cụm từ, một mệnh đề. Khi tham gia vào hội thoại, trẻ giao
tiếp có tâm lý thoải mái, không bị gò bó bởi việc hội thoại được hổ trợ bằng
đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, phương tiện biểu cảm.
Bất kì cuộc giao tiếp nào của trẻ cũng phải có sự trao lời, đáp lời và sự
tương tác lẫn nhau giữa các nhân vật tham gia. Trao lời là dạng vận động của
người nói, nói ra, hướng lời nói của mình về phía người nghe. Còn đáp lời là
một nhu cầu bức thiết của sự nói năng, mà như Baktino nói “không có gì đáng
sợ bằng sự thiếu vắng lời hồi đáp”. Trao lời và đáp lời là cái cốt lõi của diễn
ngôn, diễn ngôn sẽ trở thành cuộc thoại khi có sự hỏi đáp và sự luân phiên
lượt lời. Vì vậy, khi trẻ tham gia vào hội thoại phải nói rõ ràng, cụ thể phải kết
hợp ánh mắt, nụ cười để người nghe chú ý đáp lời mình, còn người nghe phải
tôn trọng, chú ý lắng nghe và đáp lại lời người khác.
Trong những cuộc hội thoại ngoài yếu tố ngôn ngữ, trẻ mầm non cần
phải sử dụng những yếu tố kèm lời và những yếu tố phi lời. Yếu tố kèm lời đó
là những ngữ điệu, trọng âm, cường độ, độ dài, đỉnh giọng. Còn yếu tố phi lời
là cử chỉ vẻ mặt, ánh mắt hay những âm thanh: tiếng kéo bàn ghế, huýt sáo...
13
Để đạt được mục đích trong hội thoại, khi tham gia hội thoại trẻ cần tôn
trọng thể diện của người khác. Ông cha ta đã nói “lời nói chẳng mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, đó là khi trẻ tham gia hội thoại phải nói
năng rõ ràng, không xúc phạm lẫn nhau, tôn trọng người khác, không nói hớt,
cướp lời giành phần nói của người khác... phải cùng nhau thương lượng để đạt
được mục đích cuối cùng trong hoạt động giao tiếp.
1.2.3.
Phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5- 6 tuổi.
Phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 – 6 tuổi là phát triển khả năng
giao tiếp cho trẻ. Đó là khả năng nghe - hiểu ngôn ngữ, khả năng trao - đáp
lời, khả năng trình bày có lôgic, trình tự chính xác và có nội dung nhất định.
Trẻ tự tin khi tham gia giao tiếp. Như vậy việc phát triển ngôn ngữ hội thoại
cho trẻ tức là phát triển các thói quen hội thoại cho trẻ. Trẻ mẫu giáo nhu cầu
giao tiếp lớn và môi trường giao tiếp của trẻ ngày càng mở rộng nên việc phát
triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ là rất quan trọng.
1.3. Quá trình tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ
5- 6 tuổi.
1.3.1. Sự hình thành và phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ lứa tuổi
mầm non
Ở lứa tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ phát triển với tốc độ nhanh và
mạnh. Sự phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ cũng phát triển theo từng độ
tuổi.
Trẻ nhỏ lọt lòng mẹ đã là một cá thể. Ngay từ những giờ phút đầu tiên
của cuộc đời đứa trẻ là một thực thể của xã hội (Vưgotxky ). Trẻ có khả năng
giao tiếp với những người xung quanh. Trẻ khát khao được giao tiếp. Tuy đó
chỉ là những phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ: trẻ thích được vuốt ve, gần
gũi, ôm ấp, bồng bế, âu yếm. Khi được người lớn gần gũi trẻ phát ra những âm
thanh nhỏ gừ gừ. Nhưng lớn hơn chút nữa trẻ biết bập bẹ những lời đầu tiên:
bà, mẹ, bố và kèm theo ánh mắt, nụ cười... Đó là những cơ sở đầu tiên hình
thành ở trẻ kỹ năng giao tiếp. Theo thời gian trẻ bắt sử dụng ngôn ngữ để giao
tiếp. Mỗi trẻ có khả năng giao tiếp khác nhau tuỳ theo vốn ngôn ngữ hội thoại
14
của mình. Song nhờ nhu cầu giao tiếp mà ngôn ngữ hội thoại ở trẻ phát triển
sớm. Những kỹ năng ngôn ngữ hội thoại đầu tiên xuất hiện ở trẻ mẫu giáo bé.
Trẻ bắt đầu có thể hiểu được lời nói của người khác, những chỉ dẫn, khuyên
nhủ của người lớn và trẻ bắt đầu làm quen với những tác phẩm văn chương có
chủ đề không phức tạp. Từ việc nghe, hiểu lời nói của người khác trong khi
giao tiếp mà trẻ có thể trả lời các câu hỏi do cô giáo, người lớn, bạn bè đặt ra.
Tuy nhiên câu trả lời của trẻ còn lúng túng, xa rời với nội dung, chủ đề.
Trẻ có thể nhắc lại sau cô lời nói của các nhân vật trong truyện với những câu
nói dễ hiểu, đơn giản, ngắn gọn . Trẻ mới chỉ bắt đầu nắm được kỹ năng bày
tỏ một cách mạch lạc những ý nghĩ của mình nhưng mắc nhiều lỗi trong xây
dựng câu, đặc biệt là câu phức. Thời gian trẻ tham gia một cuộc thoại thường
ngắn vì trẻ chưa làm chủ được ý thức của mình.
Sang độ tuổi mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi), sự phát triển ngôn ngữ hội thoại
có phần mạnh mẽ hơn. Trẻ giao tiếp nhanh nhẹn hơn, lời nói đã được mở
rộng, trình tự hơn tuy nhiên chưa có sự thuần thục trong việc sử dụng các kiểu
câu, các hình thức khẩu ngữ đang còn hạn chế làm cho trẻ diễn đạt khó khăn
khi tham gia vào hội thoại.
Ở độ tuổi mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi), ngôn ngữ hội thoại đã đạt được trình
độ khá cao. Trẻ đã sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hằng ngày,
vốn từ được tích luỹ phong phú và đa dạng, trẻ nắm vững ngữ âm, ngữ điệu
khi sử dụng tiếng mẹ đẻ đồng thời trẻ còn nắm được các kỹ năng kết hợp các
từ trong câu theo quy tắc ngữ pháp. Ở độ tuổi này khả năng giao tiếp của trẻ
được mở rộng, ngôn ngữ giải thích phát triển nên trẻ biết trình bày ý kiến của
mình một cách chặt chẽ, mạch lạc, hợp lý để người nghe dễ hiểu, dễ bị thuyết
phục hơn. Tuy nhiên phong cách diễn đạt ở một số trẻ còn có nhiều hạn chế.
Như vậy, trẻ mẫu giáo ngôn ngữ hội thoại phát triển sớm và phát triển
dần theo độ tuổi. Song để tham gia hội thoại một cách có văn hoá trẻ cần được
giáo dục, dạy bảo. Đây là một quá trình khó khăn và phức tạp đối với những
nhà giáo dục. Vì thế việc tìm ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình
phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ là rất quan trọng.
15
1.3.2
Đặc điểm phát triển ngôn ngữ hội thoại của trẻ 5- 6 tuổi.
Ở lứa tuổi mẫu giáo ngôn ngữ hội thoại xuất hiện sớm và phát triển với
tốc độ nhanh và mạnh tuỳ theo từng độ tuổi.
Trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi sự phát triển ngôn ngữ hội thoại đã đạt tới
mức tương đối hoàn thiện. Trẻ có thể đàm thoại về những gì đã biết hoặc đã
được nghe từ trước. Trẻ có thể tranh luận đưa ra ý kiến của mình. Bằng ngôn
ngữ hội thoại trẻ có thể diễn đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩ, sự hiểu biết của
mình. Trẻ giao tiếp với mọi người một cách linh hoạt hơn. Để trả lời câu hỏi
trẻ đã sử dụng các câu tương đối chính xác, ngắn gọn. Hoặc có thể trả lời các
câu hỏi với cách diễn đạt các câu dài một cách chính xác. Hơn nữa, trẻ đã biết
sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để giao tiếp có hiệu quả hơn. Vì thế, cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học giúp trẻ biết kết hợp, vận dụng ngôn ngữ hội
thoại trong nghệ thuật và ngôn ngữ hội thoại trong cuộc sống hằng ngày.
Vốn từ của trẻ cũng phong phú dần, trẻ có thể hiểu được một số từ khái
quát và biết sử dụng một số từ ghép gợi cảm, từ đối lập để tham gia giao tiếp.
Trẻ thích sử dụng những từ trẻ mới được học hoặc những từ do trẻ tự nghĩ ra.
Trẻ đưa chúng vào giao tiếp, vào các hoạt động sáng tạo như kể chuyện, đóng
vai...
Lời nói của trẻ đã có sự biểu cảm, trẻ biết sử dụng ngữ điệu trong giao
tiếp để diễn đạt được hấp dẫn, thu hút sự chú ý của mọi người. Ngôn ngữ hội
thoại tiếp tục phát triển cuối tuổi mẫu giáo lớn. Ở trẻ xuất hiện những hình
thức mới: chỉ dẫn, đánh giá, bàn luận, thống nhất hành động, đó là mầm mống
của ngôn ngữ độc thoại. Trẻ luôn khát khao truyền đạt cho người lớn những ấn
tượng, tâm trạng, suy nghĩ của mình. Tuy nhiên khả năng ngôn ngữ hội thoại
của từng cá nhân trẻ nói riêng và ngôn ngữ nói chung còn có sự khác biệt về
vốn từ, cách diễn đạt mạch lạc, nói đúng ngữ pháp, biểu cảm... Nhìn chung thì
trẻ giao tiếp chưa có phong cách, chưa biểu cảm. Một số trẻ còn gặp nhiều vấn
đề khó khăn trong cách trình bày, diển đạt của mình trong khi tham gia giao
tiếp, đặc biệt là trẻ chưa tự tin trong khi giao tiếp. Vì thế cô giáo cần chú ý đặc
biệt quan tâm để rèn luyện các kỹ năng hội thoại cho từng trẻ.
16
1.3.3. Vai trò của việc phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ lứa tuổi mẫu
giáo 5- 6 tuổi.
Nhà thơ nổi tiếng Daghetanla Gumzatôp đã nói: “ khi chết người ta để lại
cho con cái mình nhà cửa, ruộng vườn... nhưng một thế hệ mất đi thì để lại
cho thế hệ kế tiếp theo tiếng nói. Ai có tiếng nói thì người ấy xây dựng nhà
cửa ruộng vườn ”. Thật vậy ngôn ngữ là cơ sở của mọi sự phát triển. Đối với
trẻ ngôn ngữ càng quan trọng hơn. Ta thử hình dung xem trẻ sinh ra không có
ngôn ngữ, trẻ sẽ như thế nào? F.Ăngghen đã từng nói: cùng với lao động,
ngôn ngữ là một trong hai yếu tố làm cho con vật trở thành người. Trong đó
vấn đề phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mầm non là vấn đề đáng được
quan tâm. Bởi nhờ ngôn ngữ hội thoại là chìa khoá cho mọi sự phát triển, là
phương tiện giao tiếp thường xuyên, phổ biến nhất của con người. Nhờ
có
ngôn ngữ hội thoại mà con người có sự trao đổi thông tin từ cá thể này sang cá
thể khác. Bởi trong cuộc sống, con người sử dụng ngôn ngữ hội thoại để giao
tiếp, mà nhu cầu giao tiếp của trẻ rất lớn đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Vì
thông qua ngôn ngữ hội thoại trẻ mới có thể giao tiếp một cách đầy đủ, toàn
vẹn, chính xác. Ngôn ngữ hội thoại giúp trẻ giao tiếp, giao lưu, trao đổi tâm tư
tình cảm của mình với những người xung quanh. Trẻ bày tỏ được nguyện
vọng của mình.
Ngôn ngữ hội thoại là phương tiện phát triển tư duy, mở mang kiến thức
cho trẻ. Nó giúp trẻ nhận thức về thế giới xung quanh, mở rộng khả năng hiểu
biết của trẻ. Trong quá trình nhận thức về sự vật, hiên tượng muốn trẻ biết
được tên gọi, màu sắc, công dụng hay phân biệt vật này với vật khác mà chỉ
bằng cách cho trẻ tri giác không dùng từ ngữ để giải thích, hướng dẫn và
khẳng định những kết quả tri giác được của trẻ thì những gì trẻ tri giác được sẽ
hời hợt nông cạn. Sử dụng ngôn ngữ hội thoại để giao tiếp còn đòi hỏi trẻ phải
ghi nhớ, chắt lọc, phân tích, so sánh, tổng hợp để diễn đạt làm sao cho người
khác hiểu. Thế nên ngôn ngữ hội thoại giúp phát triển tư duy cho trẻ.
Ngôn ngữ hội thoại còn góp phần phát triển tình cảm, đạo đức cho trẻ.
Trong khi tham gia hội thoại trẻ mẫu giáo bắt đầu được hiểu biết và lĩnh hội
17
những khái niệm, quy tắc chuẩn mực đạo đức của xã hội. Điều đó được thể
hiện cụ thể trong các hoạt động giao tiếp. Đó là những quy tắc, chuẩn mực hội
thoại, sự tôn trọng người đối thoại, lắng nghe ý kiến trao đổi, đóng góp của
nguời khác, biết thương lượng trong cuộc thoại... để đạt được mục đích giao
tiếp. Hơn nữa, ngôn ngữ hội thoại còn góp phần tăng mối quan hệ tình cảm
giữa con người với con người với nhau.
Mặt khác, việc phát triển ngôn ngữ hội thoại còn giúp trẻ tự tin giao tiếp
với mọi người xung quanh. Một khi trẻ đã nắm được các kỹ năng giao tiếp
như: kỹ năng nghe, hiểu, kỹ năng trao – đáp, diễn đạt mạch lạc đúng nội dung,
chủ đề nhất định thì trẻ giao tiếp thuận lợi, dễ dàng hơn.
Ngôn ngữ hội thoại là một trong những hình thức của ngôn ngữ mạch
lạc, nên sự phát triển của ngôn ngữ hội thoại còn là cơ sở cho sự hình thành,
phát triển ngôn ngữ độc thoại ở trẻ. Lúc đầu hai hình thức này được trẻ sử
dụng lẫn lộn với nhau tuy nhiên khi ngôn ngữ hội thoại phát triển giúp trẻ nói
năng rõ ràng, mạch lạc, vốn từ phát triển, câu từ chính xác, trẻ có phong cách
giao tiếp tự tin hơn, dẫn đến việc trẻ có thể diễn đạt liên tục một chiều trước
một hay nhiều đối tượng giao tiếp.
Như vậy ngôn ngữ hội thoại đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành
và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
1.3.4. Mục tiêu, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại cho
trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi
* Mục tiêu phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Đối với trẻ mẫu giáo lớn mục tiêu ngôn ngữ hội thoại cần đạt đó là:
- Trẻ biết nghe, hiểu lời nói đối thoại
- Trẻ biết trả lời câu hỏi, đặt câu hỏi trong quá trình hội thoại
- Trẻ giao tiếp mạch lạc, đúng nội dung, chủ đề
- Trẻ biết điều khiển hành vi có văn hoá trong hội thoại để đạt được mục đích
giao tiếp
* Nội dung phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi
- Luyện cho trẻ phát âm đúng, rõ ràng, biểu cảm âm thanh tiếng mẹ đẻ
18
Nghĩa là dạy trẻ biết phát âm chính xác rõ ràng các thành phần của âm tiết
như thanh điệu, phụ âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối. Trẻ biết thể hiện
đúng sắc thái, ngữ điệu, âm lượng, có tác phong văn hoá trong quá trình giao
tiếp.
- Làm giàu, củng cố, tích cực hoá vốn từ cho trẻ.
Lời nói của trẻ được phát triển qua quá trình giao tiếp với mọi người và qua
quá trình tiếp xúc với thơ truyện. Muốn mở rộng vốn từ cho trẻ phải tổ chức
cho trẻ làm quen với thơ, truyện nhằm nâng cao hiểu biết ở trẻ. Sau đó giúp trẻ
hiểu được nghĩa của từ, tích cực hoá vốn từ cho trẻ.
- Dạy trẻ nói đúng cấu trúc ngữ pháp tiếng việt.
Tức là dạy trẻ nói đúng quy luật ngữ pháp mẹ đẻ: câu đơn, câu ghép trong
các tình huống giao tiếp khác nhau. Bên cạnh đó sửa các câu sai, câu què, câu
cụt, câu sai logic ngữ nghĩa... Đồng thời dạy trẻ nói đúng kết hợp hành vi biểu
cảm của mình.
- Dạy trẻ nói đúng mạch lạc.
Việc dạy trẻ diển đạt mạch lạc trong giao tiếp là vô cùng quan trọng. Nhưng
đây là một khâu phức tạp và khó khăn đối với trẻ vì thế giáo viên cần phải nỗ
lực tìm kiếm những hình thức, phương pháp tốt nhất để giáo dục trẻ.
* Phương pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
Để thực hiện nội dung phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ trong trường
mầm non, các nhà giáo dục đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau.
* Nhóm phưong pháp trực quan.
Bao gồm các phương pháp sau: trực quan bằng vật thật, quan sát, tham quan,
xem phim. Đối với nhóm phương pháp này ta có thể cho trẻ quan sát trực tiếp
nếu đối tượng quan sát có thể trực tiếp quan sát được: đồ dùng, đồ chơi, hoa
quả thật... Còn đối với những đối tượng không thể quan sát trực tiếp chúng ta
có thể cho trẻ xem qua tranh ảnh, máy chiếu... Phương pháp quan sát không
những củng cố kiến thức về đối tượng cho trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
* Nhóm phương pháp dùng lời.
19
Bao gồm các phương pháp sau: đọc thơ, truyện cho trẻ nghe, đàm thoại, đặt
câu hỏi để hỏi trẻ, giảng giải. Đât là phương pháp đặc thù trong nội dung phát
triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ, giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo cho các
nội dung phát triển ngôn ngữ hội thoại trên.
* Nhóm phương pháp thực hành.
Phương pháp thực hành là những phương pháp tổ chức cho trẻ trải nghiệm,
vui chơi. Mục đích của phương pháp này là dạy trẻ áp dụng những kiến thức
thu được vào thực tế, giúp trẻ nắm được, hoàn thiện những hiểu biết và thói
quen ngôn ngữ. Trò chơi là hình thức tác động có hiệu quả đến ngôn ngữ của
trẻ khi chơi trẻ nói lên được tiếng nói của minh, tích cực hoá vốn từ của trẻ,
ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc.
1.4. Làm quen với thơ, truyện và việc phát triển ngôn ngữ hội thoại
thông qua hoạt động làm quen với thơ, truyện.
1.4.1. Hoạt động làm quen với thơ, truyện của trẻ 5- 6 tuổi
Trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) rất thích được giải bày suy nghĩ của mình
bằng lời nói (ngôn ngữ hội thoại). Thông qua ngôn ngữ nói trẻ tiếp nhận được
tác phẩm văn học. Hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học (thơ,
truyện) là một khái niệm đã dùng từ trước tới nay ở các trường mẫu giáo.
“Làm quen” ở đây là chỉ mức độ tiếp xúc ban đầu của trẻ với thơ, truyện.
Thực chất của việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đó chính là giáo
viên sử dụng nghệ thuật đọc, kể, diễn cảm, để đọc thơ, kể chuyện cho trẻ
nghe, giảng giải bằng mọi cách để giúp các em hiểu được nội dung và hình
thức của tác phẩm. Trên cơ sở đó dạy các em biết đọc diễn cảm bài thơ, kể
diễn cảm các câu chuyện hoặc đóng kịch các tác phẩm văn học. Việc cho trẻ
tiếp xúc với tác phẩm văn học tức là tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa trẻ - tác
phẩm và tác phẩm - trẻ. Sự tác động này nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về ngôn ngữ nghệ thuật. Cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học là hình thức giáo dục quan trọng trong trường mầm non và
chiếm ưu thế cao. Vì vậy đây là một hoạt động cần phải khai thác hết ưu điểm
của nó. Trong đó vấn đề phát triển ngôn ngữ hội thoại cần được quan tâm.
20
1.4.2. Vai trò của hoạt động cho trẻ làm quen với thơ, truyện đối với việc
phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Thơ, truyện là một loại hình nghệ thuật mà trẻ được tiếp xúc từ rất sớm.
Ngay từ khi còn bé, các em đã được làm quen với các lời ru, lời kể nhẹ nhàng,
tha thiết của bà, của mẹ qua bài thơ hay một câu chuyện cổ tích. Lớn lên trẻ
được đến trường, tuy trẻ không trực tiếp đọc các bài thơ, câu chuyện song trẻ
lại được nghe và rất thích nghe qua giọng đọc, lời kể của cô giáo. Thơ, truyện
đi vào lòng trẻ như một điều hiển nhiên, không thể thiếu. Đối với các em thơ,
truyện vừa là phương tiện giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ vừa có ảnh
hưởng to lớn tới sự phát triển và làm phong phú lời nói của trẻ
Bằng các hình tượng văn học trong tác phẩm thơ, truyện đã mở ra và giải
thích cho trẻ về cuộc sống xã hội, thiên nhiên, con người với những cung bậc
tình cảm, đưa trẻ đến với những bức tranh tuyệt diệu của ngôn ngữ văn học.
Đến với truyện trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ. Trong
những câu chuyện dân gian mở ra trước mắt trẻ sự biểu cảm của ngôn ngữ, chỉ
ra trong tiếng mẹ đẻ sự phong phú, đầy chất hài hước, lối diễn đạt so sánh sinh
động và giàu hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật.
Những câu truyện cổ tích cũng đưa ra những mẫu mực lời nói có nhịp
điệu, giới thiệu cho trẻ vẻ đẹp và tính hình tượng của ngôn ngữ dân tộc, điều
đó giúp cho trẻ dễ dàng ghi nhớ được các hình ảnh như: gà trống mào đỏ
tươi... trẻ sẽ vận dụng lối dùng từ ấy trong giao tiếp. Việc cho trẻ nhắc lại lời
đối thoại của các nhân vật trong truyện sẽ góp phần củng cố những từ ngữ có
hình ảnh trong nhận thức của trẻ.
Đặc biệt các bài thơ lôi cuốn trẻ ở vần điệu rõ ràng, tính nhịp điệu và
tính nhạc. Cho trẻ làm quen những bài thơ, giúp trẻ nắm được ý nghĩa của bài
thơ. Khi đọc lại bài thơ giúp trẻ nhấn mạnh, ghi nhớ được từng từ ngữ, câu từ,
điều này góp phần cho lời nói của trẻ phong phú hơn. Mặt khác, trẻ đọc lại bài
thơ sẽ cảm nhận được sự hài hoà âm thanh của các câu thơ, tính nhạc của thơ
làm cho sự diễn đạt của trẻ trôi chảy hơn, mạch lạc, rõ ràng hơn.
21
Làm quen với thơ, truyện trẻ sẽ được cô giáo cung cấp, giải thích
những từ mới, điều đó ảnh hưởng tới sự phát triển vốn từ mới của trẻ. Trẻ
được cô giáo dạy trẻ hiểu những từ trẻ nói ra và có thể sử dụng nó trong
trường hợp nào.
Đến với thơ, truyện trẻ được hoà mình vào thế giới nhân vật, trẻ được
nghe, nói những lời đối thoại của các nhân vật đó, điều đó giúp trẻ nắm được
giọng điệu, cử chỉ, điệu bộ từng nhân vật trong từng hoàn cảnh giao tiếp khác
nhau, điều đó giúp trẻ có kỷ năng giao tiếp tốt khi tham gia vào hội thoại. Trẻ
biết vận dụng phương tiện biểu cảm của mình nhờ đóng vai các nhân vật trong
tác phẩm thơ, truyện.
Như vậy cho trẻ làm quen với thơ, truyện sẽ góp phần phát triển lời nói
mạch lạc cho trẻ, hướng tới việc phát triển toàn diện ngôn ngữ hội thoại.
1.4.3. Các hình thức tổ chức hoạt động làm quen với thơ, truyện trong
chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ hội thoại
cho trẻ.
Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng. Điều đó luôn
đặt ra câu hỏi đối với các nhà giáo: phải dùng hình thức giáo dục nào để đạt
hiệu quả giáo dục cao nhất? Bàn về vấn đề đó các nhà giáo dục mầm non đã
đưa ra ba hình thức giáo dục như sau: cho trẻ làm quen với thơ, truyện trong
tiết học, hoạt động góc và hoạt động ngoài tiết học. Theo các nhà giáo dục mỗi
hình thức có ưu và nhược điểm riêng, nhưng đều nhằm hướng tới sự phát triển
toàn diện cho trẻ, trong đó có sự phát triển ngôn ngữ hội thoại.
+ Cho trẻ làm quen với thơ, truyện trong tiết học
Đây là một hình thức giáo dục bắt buộc, đuợc quy định trong chương
trình chăm sóc giáo dục trẻ. Với hình thức giáo dục cơ bản này, đòi hỏi giáo
viên phải chuẩn bị đầy đủ, cẩn thận trước khi tổ chức hoạt động. Và việc thực
hiện phải có không gian, thời gian cụ thể, cơ sở vật chất, các phương tiện dạy
học đầy đủ nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục. Cho trẻ 5 – 6 tuổi làm
quen với thơ, truyện được thực hiện bằng nhiều loại tiết khác nhau. Mỗi loại
tiết giải quyết những nhiệm vụ giáo dục trọng tâm.
22
Hoạt động 1: Đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe
Đây là tiết học cung cấp kiến thức mới cho trẻ, giúp trẻ nắm được tên tác
phẩm, nhân vật, nội dung cốt truyện. Trong đó giáo viên cần giới thiệu các từ
mới, từ khó hiểu cho trẻ. Trong tiết học này giáo viên phải đọc và kể lưu loát,
phát âm rõ ràng, sử dụng các phương tiện biểu cảm qua ngữ điệu, giọng đọc
kể (tốc độ, nhịp điệu, ngừng nghỉ, điều chỉnh độ nhanh chậm, cường độ
giọng...); truyền đạt một phong cách biểu cảm tạo điều kiện cho trẻ tri giác tốt
các tác phẩm thông qua đó trẻ bắt chước phong cách sư phạm của giáo viên
vào hoạt động giao tiếp của mình. Giáo viên có thể kết hợp tranh, mô hình để
làm cho tiết học của mình thêm hấp dẫn, cuốn hút trẻ. Việc cho trẻ tìm hiểu
tác phẩm còn tuỳ thuộc vào hệ thống câu hỏi đàm thoại của cô. Câu hỏi mà
giáo viên đặt ra cho trẻ luôn rõ ràng, dễ hiểu và bám sát nội dung tác phẩm.
Cô giúp trẻ nghe, hiểu được câu hỏi và dạy trẻ trả lời đúng câu hỏi của cô,
diễn đạt mạch lạc, tự tin khi trả lời. Như vậy đọc, kể, thơ, truyện cho trẻ nghe
không những cung cấp cho trẻ vốn từ nghệ thuật mà còn phát triển khả năng
nghe, hiểu và trả lời đúng, mạch lạc câu hỏi được đặt ra.
Hoạt động 2: Dạy trẻ đọc, kể lại thơ, truyện
Theo tác giả Nguyễn Xuân Khoa: kể chuyện là thuật lại một sự kiện,
miêu tả một đối tượng hoặc sáng tạo ra một câu chuyện nào đó. Dạy trẻ kể lại
chuyện yêu cầu trẻ phải thuộc chuyện, ghi nhớ câu văn trong tác phẩm để diễn
đạt một cách biểu cảm.
Trước khi cho trẻ kể lại chuyện, đọc diễn cảm bài thơ giáo viên phải đọc,
kể trước. Đàm thoại với trẻ nhằm củng cố lại nội dung câu chuyện, bài thơ mà
trẻ sẽ tự kể hoặc đọc lại. Việc đàm thoại phải kết hợp với trích dẫn và tập cho
trẻ đọc, kể. Có thể hỏi trẻ: “Với câu này chúng mình sẽ kể như thế nào?”,
“Giọng của nhân vật lúc này nên nhỏ hay to?” để trẻ nắm được cách đọc, kể.
Cần khuyến khích trẻ dùng vốn từ của mình trong khi kể. Cô giáo cần
giúp đỡ trẻ kịp thời khi trẻ đọc, kể mà trẻ quên lời.
23
Nhìn chung, với loại tiết này nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ hội thoại cho
trẻ rất cao, trẻ không chỉ được phát triển vốn từ mà còn học tập cách diễn đạt
ngôn ngữ khi tham gia đọc, kể. Trẻ sẽ nói được những câu dài hơn, trẻ biết
truyền đạt một cách biểu cảm hơn theo từng hoàn cảnh trong nội dung cốt
truyện. Tập cho trẻ tính tự tin khi giao tiếp giữa nhiều người. Như
A.M.Leusina đã nói: “Dạy trẻ kể lại chuyện có ý nghĩa to lớn trong việc phát
triển lời nói có cấu trúc chặt chẽ cho trẻ”.
Hoạt động 3: Hướng dẫn trẻ đóng kịch theo tác phẩm
Hướng dẫn trẻ đóng kịch theo tác phẩm là một tiết học hấp dẫn đối với
trẻ. Thông qua đóng kịch, trẻ kể lại được nội dung truyện và làm sống lại tâm
trạng hành động, ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện. Ngoài ra trẻ còn thể
hiện tình cảm và sự đánh giá của trẻ đối với các nhân vật. Vì thế đóng kịch là
một hình thức để phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ. Không phải tác phẩm
nào cũng có thể cho trẻ đóng kịch mà chỉ có những tác phẩm có nhiều lời đối
thoại của các nhân vật mới hướng dẫn trẻ đóng kịch.
Trước hết, để đóng được kịch cô phải giúp trẻ hiểu nội dung câu
chuyện, nhớ tên nhân vật, nhớ hành động của nhân vật, hình dung được hình
dáng, điệu bộ của từng nhân vật.
Việc chuyển thể truyện thành kịch cũng hết sức quan trọng. Nó đòi hỏi
giáo viên phải có sự chuẩn bị trước. Cô đọc kịch bản đã viết cho trẻ nghe để
giúp trẻ hình dung về tác phẩm, về các lời thoại của các nhân vật.
Sau đó, giáo viên tiến hành tập luyện cho trẻ. Công việc chính của cô là
giúp trẻ nhận và nhập vai nhân vật. Hướng dẫn trẻ ghi nhớ ngôn ngữ của nhân
vật. Việc tập luyện được tiến hành theo từng nhóm trẻ. Sau khi tập luyện cô
phân công cho từng nhóm lên biểu diễn trước tập thể lớp.
Như vậy, khi đóng kịch, trẻ phải ghi nhớ truyện, đặc biệt là phải thuộc
lời đối thoại của các nhân vật, biết hoá thân mình vào các vai để vui, buồn,
hờn giận giống các nhân vật mà trẻ đóng, biết thể hiện cử chỉ, nét mặt, điệu bộ
phù hợp với tâm trạng nhân vật. Nên cho trẻ đóng kịch là hình thức phát triển
ngôn ngữ hội thoại tốt nhất. Đây là một môi trường hoạt động ngôn ngữ nói
24
cho trẻ. Trẻ biết nhiệm vụ tham gia vào cuộc thoại của mình như thế nào khi
nhập vai. Từ đó trẻ sẽ có sự liên tưởng với cuộc sống của mình.
+ Cho trẻ làm quen với thơ, truyện thông qua hoạt động góc.
Thông qua việc làm quen với tác phẩm văn học ở hoạt động góc sẽ chính là
môi trường hoạt động ngôn ngữ cho trẻ. Thường thì giáo viên tổ chức cho trẻ
làm quen với thơ, truyện ở góc nghệ thuật hoặc góc học tập như cho trẻ làm
quen với những bài thơ, câu chuyện mới. Hoặc cho trẻ đọc, kể lại những bài
thơ, câu chuyện theo chủ đề, nội dung nào đó. Cũng có thể giáo viên tổ chức
cho trẻ đóng kịch, kể lại chuyện, có thể cô gợi ý trẻ xem tranh theo chủ đề, trẻ
tự kể, đọc cho nhau nghe, tranh luận với nhau. Trong hình thức này cô giáo
thường trò chuyện với trẻ nhiều hơn là đàm thoại. Vì thế việc giao tiếp diễn ra
thoải mái hơn, không nhiều áp lực đối với trẻ nên mục đích giao tiếp cao hơn.
Giáo viên lại có điều kiện sửa cho từng trẻ về câu, từ, cách diễn đạt. Đặc biệt
là những trẻ yếu nhút nhát. Tuy nhiên hình thức này thuờng diễn ra mờ nhạt ở
các trường mầm non vì hầu như giáo viên không có điều kiện tổ chức cho trẻ
trong khi đang còn nhiều góc hoạt động khác mà trẻ lại quá đông.
+ Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua hoạt động ngoài giờ.
Đối với trẻ mầm non, hoạt động trong tiết học chiếm một khoảng thời
gian rất ngắn ( 30-35 phút ) so với các hoạt động khác. Do đó việc tổ chức cho
trẻ làm quen với thơ truyện ngoài giờ là việc hết sức quan trọng. Cho trẻ làm
quen với thơ, truyện ngoài giờ giáo viên phải tận dụng mọi lúc mọi nơi khi
dạo chơi, tham quan... để trẻ tiếp xúc với văn học. Giáo viên đọc, kể tác phẩm
mới cho trẻ nghe sau đó trẻ đọc, kể cùng cô và dạy trẻ đọc, kể lại tác phẩm.
Việc ôn luyện các tác phẩm đã học cũng được thực hiện ở thời điểm này.
Muốn ôn luyện tốt giáo viên nên tổ chức các trò chơi. Lúc này giáo viên có
nhiều thời gian để theo dõi, sửa các lỗi sai cho trẻ như đọc đúng từ, dùng đúng
câu, diễn đạt mạch lạc, hấp dẫn, đúng ngữ điệu...
Ngoài ra có thể cho trẻ làm quen với thơ, truyện thông qua các ngày lễ
hội. Đây là một hình thức hấp dẫn, cuốn hút trẻ. Cho trẻ làm quen với văn học
theo các chủ đề như kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20 – 11 thì có chủ đề cô
25