Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Bảo đảm quyền con người khi ban hành quyết định hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.31 KB, 104 trang )

HC VIN CHNH TR QUễC GIA H CH MINH

TRIU TH T HIN

BảO ĐảM QUYềN CON NGƯờI KHI BAN HàNH
QUYếT ĐịNH HàNH CHíNH CủA ủY BAN NHÂN DÂN
TỉNH BắC KạN HIệN NAY

LUN VN THC S
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. TNG DUY KIấN

H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Triệu Thị Út Hiền


MỤC LỤC
Trang
1


MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI KHI
BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH CỦA UBND CẤP

6

TỈNH

1.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người khi ban hành
quyết định hành chính của UBND tỉnh
1.2. Phân loại quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng ban hành quyết định hành

6
25

chính và yêu cầu bảo đảm quyền con người khi ban hành quyết
định hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh

29

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI KHI BAN
HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN TỈNH BẮC KẠN

2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Kạn
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người khi ban hành quyết định
hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh
2.3. Đánh giá chung về những ưu điểm, những hạn chế và nguyên nhân


41
41
43

của những ưu điểm, hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người
khi ban hành quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc
Kạn

64

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI KHI BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH
CHÍNH CỦA UBND TỈNH

75

3.1. Quan điểm bảo đảm quyền con người khi ban hành quyết định
hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền con người khi ban hành quyết định
hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
:

79
98
100

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

HCNN

75

Hành chính nhà nước


Nxb

:

Nhà xuất bản

QĐHC

:

Quyết định hành chính

UBND

:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

Bảng 2.1:

Ý kiến của người bị thu hồi đất về giá đất tính bồi thường

Bảng 2.2:
Bảng 2.3:

tại 2 dự án
Tổng hợp đơn giá bồi thường tài sản tại 2 dự án
Ý kiến của người bị thu hồi đất trong việc bồi thường về

50
54

Bảng 2.4:

tài sản gắn liền với đất
Tổng hợp kết quả hỗ trợ

55
59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người,
Việt Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước quốc tế đã ký kết và thực hiện việc
chuyển hóa nội dung mà Việt Nam gia nhập vào quá trình xây dựng hệ thống văn
bản pháp luật trong nước. Nhờ đó, pháp luật của Việt Nam không ngừng được
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con

người. Điều này thể hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp
luật của Việt Nam nói chung và pháp luật về xây dựng, ban hành quyết định hành
chính (QĐHC) nói riêng.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quá trình cải
cách nền hành chính nước ta cũng được tiến hành song song. Trải qua 15 năm
thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước (HCNN) giai đoạn
2001 - 2015 chúng ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, bước đầu đã tạo
được một diện mạo mới cho nền hành chính Quốc gia, góp phần thực hiện tốt vai
trò quản lý xã hội của Nhà nước. Bên cạnh đó, công cuộc cải cách hành chính,
nền HCNN nói chung, của tỉnh Bắc Kạn nói riêng cũng đã bộc lộ nhiều khiếm
khuyết tồn tại. Trong đó chúng ta phải kể đến vấn đề chất lượng của công tác ban
hành và thực hiện QĐHC của cơ quan HCNN còn chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn quản lý, giải quyết các vấn đề của xã hội. Nhiều QĐHC ra đời mà thiếu
đi tính hợp pháp, hợp lý làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người dân. Mặt
khác các nghiên cứu về ban hành QĐHC nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam nói
chung, ở Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Kạn nói riêng hiện nay hầu hết chỉ
dừng lại ở các chuyên đề, bài viết ngắn, trong đó chủ yếu tập trung vào một số
nội dung pháp luật hiện hành liên quan đến cải cách hành chính, mới chú trọng
đến việc đơn giản hoá thủ tục hành chính. Đối với nghiên cứu về việc ban hành
QĐHC nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính theo hướng đảm bảo tính minh
bạch, khách quan của hoạt động hành chính và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân chưa được quan tâm đúng mức. Để nâng cao hơn nữa việc đảm bảo


quyền con người khi ban hành QĐHC của các cơ quan HCNN nói chung, của
UBND tỉnh Bắc Kạn nói riêng, từ đó đề ra các giải pháp mang tính đột phá giải
quyết triệt để vấn đề còn tồn tại, học viên đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con
người khi ban hành quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc
Kạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và

pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các vấn đề liên quan đến QĐHC nhận được rất nhiều sự quan tâm nghiên
cứu từ các nhà khoa học trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nghiên cứu dưới góc
độ bảo đảm quyền con người trong QĐHC thì chỉ có một vài công trình, bài
viết có liên quan như sau: “Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành
chính" của Bùi Thị Đào [16], đã góp phần trong việc nghiên cứu sâu hơn về
QĐHC mà đặc biệt là các tiêu chí đánh giá tính hợp pháp, tính hợp lý của
QĐHC từ đó đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng của
QĐHC. Ngoài ra, còn có:"Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải
quyết các khiếu kiện hành chính" của Nguyễn Thanh Bình [1]; "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam hiện nay" của Hoàng Quốc Hồng [19]; “Các yêu cầu đối
với quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” của Hà Thu Hiền [17]; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước” của Lê Thị Liên Chi
[3]; “Quyết định hành chính” của Bùi Thúy Chinh [4]; “Hoàn thiện pháp luật
về ban hành quyết định hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính
và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước” của Nguyễn Thị Kim
Thoa [40].
Những công trình khoa học trên mặc dù không trực tiếp tìm hiểu về bảo đảm
quyền con người trong QĐHC, tuy nhiên trong nội dung của Luận án, Luận văn
cũng có những khía cạnh nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực mà luận văn tìm hiểu.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài báo, tạp chí tìm hiểu các vấn đề liên
quan đến QĐHC như: "Về xác định các căn cứ đánh giá tính hợp pháp của


quyết định trong xét xử các vụ án hành chính" của Nguyễn Văn Quang [20];
"Về quyết định hành chính, hành vi hành chính theo quy định của pháp luật tố
tụng hành chính hiện hành" của Hoàng Quốc Hồng [18]; Tăng cường tính

minh bạch của quyết định hành chính" của Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn
Hoàng Anh [9]; "Bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong
pháp luật hành chính Việt Nam" của Phạm Hồng Thái và Nguyễn Thị Thu
Hương [39]…
Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu dưới góc độ quyền con người và xem
xét sự ảnh hưởng của ban hành QĐHC đến một số quyền cơ bản của con người
về dân sự, kinh tế, chính trị thì chưa có tác phẩm nào được công bố đề cập đến.
Như vậy, có thể khắng định luận văn nghiên cứu về “Bảo đảm quyền con người
khi ban hành quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn hiện
nay” không trùng lắp với các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu vấn đề ban hành QĐHC ở tỉnh Bắc Kạn và thực tiễn việc áp
dụng, thực hiện QĐHC trong việc bảo đảm quyền con người từ đó tìm ra vấn đề
còn tồn tại và đề xuất một số kiến nghị phục vụ cho việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật về QĐHC nhằm nâng cao chất lượng QĐHC nói riêng, chất lượng
quản lý nhà nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản của QĐHC, phân loại QĐHC, tính hợp
pháp, hợp lý của QĐHC bảo đảm quyền và lợi ích của con người; quan niệm về
quyền con người, đặc điểm bảo đảm quyền con người khi ban hành QĐHC và xác
định một số quyền con người bị ảnh hưởng khi ban hành QĐHC.
- Đánh giá thực trạng về việc bảo đảm quyền con người khi ban hành
QĐHC, tình hình thực hiện QĐHC ở tỉnh Bắc Kạn.


- Đề xuất các giải pháp nâng cao hơn nữa vai trò của các cơ quan nhà nước
trong ban hành và thực hiện các QĐHC, hoàn thiện các văn bản pháp luật về quản
lý HCNN nhằm đảm bảo quyền con người.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng về bảo đảm quyền con người
trong công tác ban hành, thực hiện QĐHC của UBND tỉnh Bắc Kạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những QĐHC trong lĩnh vực quản lý đất đai, quản lý khoáng sản do UBND
tỉnh Bắc Kạn ban hành từ năm 2009 - 2015 có ảnh hưởng đến một số quyền cơ
bản của con người như:
- Quyền sở hữu tài sản;
- Quyền được tự do ý kiến và biểu đạt;
- Quyền được đối xử công bằng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật nói chung và vấn đề áp dụng pháp luật để ban hành QĐHC.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của Luận văn đó là: phương pháp nghiên cứu của
triết học Mác - Lênin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử
và logic; phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích
tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật trong
quá trình ban hành QĐHC của UBND tỉnh hợp pháp, hợp lý góp phần bảo đảm
một số quyền cơ bản của con người.


- Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên về vấn đề bảo đảm
quyền con người khi ban hành QĐHC của UBND tỉnh Bắc Kạn.
- Luận văn phần nào cung cấp về cơ sở lý luận và thực tiễn trong quá trình
ban hành QĐHC và vấn đề bảo đảm quyền con người khi ban hành QĐHC của

UBND tỉnh Bắc Kạn, trên cơ sở đó thực hiện việc áp dụng pháp luật trong quá trình
ban hành QĐHC bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý.
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho Tòa án nhân dân khi xem xét tính
hợp pháp, hợp lý của QĐHC bị khởi kiện, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của
con người, công dân trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI KHI BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH
CHÍNH CỦA UBND CẤP TỈNH
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI KHI BAN HÀNH
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH CỦA UBND TỈNH

1.1.1. Quan niệm quyền con người, bảo đảm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con
người đã được công bố). Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định,
chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả
các thuộc tính của quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào
sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa
của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích dẫn
bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm
pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép
và tự do cơ bản của con người.

Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích
dẫn, theo đó, quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên của
cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã
hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này
mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia,
cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét
chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.


Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được
xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.
Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp
dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi
thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều
kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người.
Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền
con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội
và trong mọi giai đoạn lịch sử.
Có thể đưa ra quan niệm về quyền con người như sau: Quyền con người là
nhưnhững đặc quyền tự nhiên, cho phépkhái niệm con người được tiến hành
những xử sự theo những cách thức nhất định phù hợp với những chuẩn mực xã
hội, được thừa nhận bởi cộng đồng quốc gia, và quốc tế.
Quyền con người, quyền công dân được thừa nhận mới chỉ là sự tồn tại
quyền ở dạng tiềm năng. Thực hiện quyền và bảo vệ quyền có thể gặp cản trở
trong thực tế ở nhiều dạng; phải có sự tác động từ nhiều yếu tố, điều kiện khách
quan trong xã hội và chủ quan của chủ thế quyền thì mới có thể hình thành môi
trường để mỗi công dân có thể phát huy năng lực làm chủ và sáng tạo của mình.

Hệ thống bảo đảm quyền con người, quyền công dân bao gồm: Bảo đảm về kinh
tế, chính trị và các bảo đảm xã hội khác như lịch sử - truyền thống, văn hóa, tư
tưởng, sự phát triển khoa học kỹ thuật…
Từ góc nhìn của khoa học luật, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta, các bảo đảm pháp lý
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế
hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có tính
bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện để bảo đảm
các quyền con người, quyền công dân. Các bảo đảm pháp lý rất đa dạng, phong
phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, đến việc tạo
ra các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ máy
chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Bảo vệ quyền con


người, quyền công dân là việc xác định các biện pháp pháp lý, các biện pháp tổ
chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con người khi bị xâm phạm từ phía cơ quan
công quyền hay từ các chủ thể khác nhằm khôi phục các quyền đã bị xâm phạm.
Các quyền con người, quyền công dân rất đa dạng, được bảo đảm bằng cả hệ
thống pháp luật, từ luật công đến luật tư, từ Hiến pháp, luật Hành chính đến Hình
sự…đến Luật Dân sự, Luật Lao động. Mỗi lĩnh vực pháp luật bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân bằng những phương thức chuyên biệt, riêng có
của mình.
Như vậy, có thể nêu khái niệm về bảo đảm quyền con người đó là việc tạo ra
các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để thực hiện
các quyền tự do, lợi ích chính đáng của con người đã được pháp luật ghi nhận.
1.1.2. Khái niệm quyết định hành chính
Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt được sinh ra với mục đích duy
trì trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển. Quyền lực nhà nước được thực hiện chủ
yếu thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Một trong những biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà

nước là ra các quyết định pháp luật.
Quyết định pháp luật rất đa dạng cả về chủ thể ban hành, thủ tục ban hành,
hình thức, nội dung, tính chất, yêu cầu cụ thể đối với từng nhóm khác nhau. Một
trong những cách phân chia đó là dựa vào mục đích sử dụng quyền lực nhà nước
khi ban hành quyết định pháp luật, theo đó, quyết định pháp luật được chia thành
quyết định lập pháp, QĐHC, quyết định tư pháp. Trong đó, QĐHC chủ yếu được
ban hành bởi cơ quan có chức năng quản lý HCNN - cơ quan HCNN. Cùng với
cơ quan HCNN, cơ quan quyền lực, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát cũng có
quyền ban hành QĐHC. Tuy nhiên, vì không có chức năng quản lý hành chính
nên các cơ quan đó chỉ ban hành QĐHC với số lượng ít, phạm vi hẹp, thường là
các quyết định nhằm xây dựng, ổn định chế độ công tác nội bộ cơ quan và khả
năng tác động trực tiếp tới các lĩnh vực khác nhau trong xã hội rất hạn chế.
Ngược lại, cơ quan hành chính là cơ quan có chức năng quản lý HCNN nên các
cơ quan này ban hành rất nhiều QĐHC trong quá trình hoạt động để thực hiện


chức năng của mình. Các QĐHC của cơ quan HCNN ban hành phản ánh đầy đủ,
rõ ràng những tính chất, đặc điểm, yêu cầu của quản lý hành chính trong từng lĩnh
vực, từng thời kỳ cụ thể.
Quyết định hàanh chính không phải là đề tài mới mẻ trong khoa học và thực
tiễn pháp lý. Khái niệm này đã được nghiên cứu và sử dụng với phạm vi, mức độ,
mục đích khác nhau và vì vậy cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau về QĐHC.
Thứ nhất, có quan điểm cho rằng đó là quyết định quản lí HCNN của cơ
quan quản lí HCNN trong hệ thống cơ quan hành pháp. Trong giáo trình Luật
hành chính và tài phán hành chính của Học viện Hhành chính, quyết định này
được hiểuđịnh nghĩa:
Quyết định quản lí HCNN của các cơ quan HCNN là kết quả của sự
thể hiện ý chí đơn phương của cơ quan HCNN, người có thẩm quyền,
trên cơ sở và để thi hành luật, được ban hành theo trình tự và hình thức
do pháp luật quy định làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan

hệ pháp luật hành chính cụ thể; đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ quy phạm pháp
luật hành chính hoặc làm thay đổi hiệu lực pháp lý của chúng; đặt ra
những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ của hoạt động quản lý HCNN
[22, tr.130, 135].

Thứ hai, có quan điểm lại cho rằng đó là quyết định quản lí nhà nước, tuy
nhiên phải hiểu là quản lí nhà nước theo nghĩa hẹp. Theo Giáo trình Luật hành
chính Việt Nam của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội thì:
Quyết định quản lý nhà nước là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực đơn
phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những người có chức
vụ và các cơ quan của các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền,
được thực hiện trên cơ sở và để thi hành luật, theo trình tự và hình thức
do luật định, nhằm định ra chủ trương, đường lối, nhiệm vụ lớn có tính
chất định hướng; hoặc đặt ra, sửa đổi, áp dụng, bãi bỏ các quy phạm
pháp luật hành chính hay làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng;
hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật hành


chính cụ thể, để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lí nhà nước
[15, tr.395].
Bên cạnh đó còn có khái niệm QĐHC. Khái niệm này không những xuất
hiện trong khoa học mà còn cả trong những quy định của luật thực định… Chính
vì vậy, việc làm rõ khái niệm về loại quyết định này cũng như việc giới hạn nội
hàm của khái niệm là rất cần thiết.
Những quan điểm nêu trên không chỉ khác nhau về tên gọi của QĐHC mà
chính quan niệm về quyết định này cũng được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau trong khoa học và cả thực tiễn pháp lý.
Dưới góc độ hình thức, QĐHC thường được tiếp cận ở hai khía cạnh: một là,
QĐHC gồm quyết định bằng văn bản, quyết định bằng lời nói, dấu hiệu; hai là,
QĐHC chỉ là các quyết định bằng văn bản.

Quyết định hành chính có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như
văn bản, lời nói, dấu hiệu, ký hiệu. Thực tế quản lí hành chính cho thấy, các
QĐHC không thể hiện dưới dạng văn bản được sử dụng thường xuyên hơn các
QĐHC thể hiện dưới dạng văn bản. Nếu tất cả các QĐHC đều được văn bản
hóa thì hoạt động quản lí sẽ cứng nhắc, phức tạp và nhiều trường hợp sẽ rất
chậm trễ. Các QĐHC không thể hiện dưới dạng văn bản đã tạo nên sự sống
động, linh hoạt cần thiết của quản lý HCNN. Văn bản được sử dụng để ghi nhận
những vấn đề quan trọng vì tính rõ ràng, xác định về nội dung là cơ sở chắc chắn
cho các hoạt động phục tùng, thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước, nhất là khi quyết định có phạm vi đối tượng tác động rộng và sự tác động
cần được duy trì trong thời gian dài. Đồng thời, thủ tục ban hành các văn bản
trong quản lí nhà nước chặt chẽ có khả năng đảm bảo độ đúng đắn cần thiết cho
các quyết định được ban hành.
Dưới góc độ tính chất cũng có những cách nhìn nhận khác nhau về QĐHC:
QĐHC chỉ là quyết định cá biệt và QĐHC bao gồm quyết định cá biệt, quyết định
quy phạm, quyết định chủ đạo.
Quan điểm cho rằng QĐHC không chỉ là quyết định cá biệt không dựa trên
cơ sở pháp luật thực định mà dựa vào bản chất của hành pháp. Để thực thi quyền


hành pháp, cơ quan HCNN không chỉ thi hành các quy định của cơ quan lập pháp
mà phải có sự sáng tạo rõ rệt trong việc quy định những biện pháp cần thiết để tổ
chức thực hiện các quyết định của cơ quan lập pháp cũng như có quyền chủ động
đưa ra các tác động đáp ứng nhu cầu đa dạng của quản lý đời sống xã hội ngày
nay. Để thực hiện được hoạt động chấp hành, điều hành đó, một mặt, chủ thể
quản lý HCNN phải định ra những chủ trương, đường lối, biện pháp quản lý lớn
có giá trị định hướng cho hoạt động quản lý HCNN trong từng thời kỳ hay trong
từng lĩnh vực xã hội. Mặt khác, chủ thể quản lý đặt ra các quy định pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phổ biến, điển hình trong quản lý cũng như áp dụng
pháp luật để giải quyết các công việc cụ thể phát sinh trong quá trình các chủ thể

đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Các quyết định chứa đựng những nội dung trên đều có giá trị trực tiếp hoặc
gián tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quản lý HCNN, nhằm đạt
được những nhiệm vụ, mục tiêu quản lý. Do tính tổng quát của các chủ trương,
biện pháp lớn hay tính bắt buộc chung của các quy phạm nên QĐHC chủ đạo,
quyết định quy phạm mang tính định hướng hay điều chỉnh những quan hệ phát
sinh giữa những chủ thể, trong những điều kiện được dự liệu có tính lặp lại trên
thực tế. Phạm vi điều chỉnh rộng và khả năng điều chỉnh lâu dài làm cho các
quyết định đó có khả năng tạo ra trật tự chung thống nhất trong quản lý, nhưng
tính phổ biến, được điển hình hóa của các tình huống được mô tả trong quy phạm
không cho phép thấy hết những phức tạp đa dạng của các tình huống riêng biệt
trong cuộc sống. Sự điều chỉnh riêng biệt được thể hiện bởi các QĐHC cá biệt.
Hai khả năng điều chỉnh đó không loại trừ mà bổ sung cho nhau. Chính tính
thống nhất về nhiều mặt của các nhóm quyết định và của hoạt động ban hành các
nhóm quyết định đó là cơ sở cho quan niệm cho rằng không nên coi QĐHC chỉ là
quyết định cá biệt. Quan điểm này cũng được ghi nhận trong Từ điển Luật học, ở
đó QĐHC gồm quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt và
được định nghĩa như sau:
Quyết định trong lĩnh vực quản lý HCNN. QĐHC thể hiện ý chí quyền
lực đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của người có


chức vụ, tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền, được thực hiện
trên sơ sở và để thi hành pháp luật, theo trình tự và hình thức do pháp
luật quy định hướng tới việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính [2,
tr.658].
Trong số những chủ thể có thẩm quyền ban hành QĐHC thì các chủ thể
trong hệ thống cơ quan HCNN có vị trí đặc biệt quan trọng, bởi lẽ, đây là những
chủ thể cơ bản, chủ yếu thực hiện hoạt động quản lý HCNN trên các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Vì vậy, QĐHC được nghiên cứu trong luận văn là

những quyết định của các chủ thể trong hệ thống cơ quan HCNN nói chung,
UBND tỉnh Bắc Kạn nói riêng khi thực hiện quyền lực nhà nước để quản lý các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, những QĐHC được đề cập ở đây chỉ giới
hạn những quyết định được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Từ những cơ sở nêu trên, có thể đưa ra quan niệm về QĐHC của cơ quan
HCNN như sau: Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật, nó
là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực của nhà nước thông qua những hành vi của
các chủ thể được thực hiện quyền hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước tiến hành theo một trình tự dưới những hình thức nhất định theo
quy định của pháp luật, nhằm đưa ra những chủ trương, biện pháp, đặt ra các
quy tắc xử sự hoặc áp dụng những quy tắc đó giải quyết một công việc cụ thể
trong đời sống xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Từ những vấn đề lý luận nói trên về QĐHC có thể quan niệm: Quyết định
hành chính của UBND tỉnh là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực đơn phương
của UBND cấp tỉnh và của Chủ tịch UBND tỉnh- người có thẩm quyền- để thực
hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn của
mình, được thực hiện trên cơ sở và để thi hành luật và các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên, theo trình tự và hình thức do luật định, nhằm đề ra chủ
trương, đường lối, nhiệm vụ lớn có tính chất định hướng; hoặc đặt ra, đình chỉ,
sửa đổi, áp dụng, bãi bỏ các quy phạm pháp luật hành chính hiện hành hay làm
thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng; hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể trên địa bàn của một tỉnh.


1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền con người khi ban hành quyết định
hành chính
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ
dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn
được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả

tước đoạt, nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực
hành chính.
Hoạt động ban hành quyết định hành chính là một trong những phương thức
quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước, là hoạt động cơ bản của nền hành
chính, biểu hiện của thực thi quyền hành pháp trong nhà nước pháp quyền, do đó,
đòi hỏi phải tuân thủ đúng pháp luật, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân
và thực tiễn quản lý nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể. Nhất là trong giai đoạn
hiện nay, chủ trương về một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại,
một nền hành chính chuyển đổi từ nền hành chính can thiệp sang nền hành chính
phục vụ thì hoạt động ban hành quyết định hành chính cần phải đặc biệt chú
trọng. Một QĐHC, nếu được ban hành đúng thẩm quyền, theo một trình tự rõ
ràng, minh bạch và nội dung của nó phù hợp với sự thật khách quan sẽ là minh
chứng sống động cho sự hợp lý, tính hợp pháp, tính khả thi trong chính sách của
Nhà nước và vì vậy sẽ được thực hiện một cách đồng thuận. Ngược lại, một
QĐHC “bị” ban hành sai thẩm quyền, với một trình tự không được kiểm soát về
tính minh bạch và nội dung của nó không phản ánh sự thật khách quan, không
tính đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, sẽ là một rào cản trong quá
trình đưa chính sách của Nhà nước vào thực tiễn, gây bức xúc cho cá nhân, doanh
nghiệp, làm giảm lòng tin của công chúng vào hiệu quả quản lý của cơ quan nhà
nước.
Cũng như việc ban hành các văn bản pháp luật khác, hoạt động ban hành
quyết định hành chính cũng phải trải qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn với thủ tục
luật định. Thủ tục ban hành quyết định hành chính gồm các bước sau: sáng kiến
ban hành quyết định hành chính, dự thảo quyết định hành chính, trình dự thảo,


thông qua dự thảo, truyền đạt quyết định... Nhưng khác với việc ban hành các văn
bản pháp luật khác, hoạt động ban hành quyết định hành chính được thực hiện
chủ yếu bởi chủ thể quản lí hành chính nhà nước, tức cơ quan hành chính nhà
nước. Con người - công dân từ khi sinh ra cho đến khi mất đi có thể không biết

đến Tòa án, Kiểm sát nhưng đều có quan hệ chặt chẽ với chính quyền hành chính,
mọi quyết sách, quyết định của chính quyền hành chính đều trực tiếp hay gián
tiếp có ảnh hưởng tới đời sống vật chất hay tinh thần của công dân. Con người từ
khi sinh ra đã bắt đầu có những quan hệ với chính quyền hành chính (quyền được
khai sinh, quyền mang quốc tịch), đến khi đi học tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông, chuyên nghiệp; đi làm; xây dựng gia đình, sinh sống ở nơi dân cư…
các quan hệ với hành chính công quyền cứ theo năm tháng mà phát sinh nhiều thêm.
Trong quan hệ hành chính, một bên trong quan hệ luôn là cơ quan hành chính nhà
nước, nhân danh nhà nước với một bên là cá nhân, công dân. Theo nguyên lý, cơ
quan hành chính nhà nước, mang quyền lực công, do nhân dân ủy thác, có trách
nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ, bảo đảm các quyền chủ thể của công dân hoặc bảo vệ các
quyền đó khi bị xâm phạm.
Tuy nhiên cần nhận thức rõ ràng rằng bảo đảm quyền con người khi ban
hành QĐHC và bảo đảm quyền con người trong QĐHC là khác nhau. Ban hành
QĐHC là quá trình thực hiện qua nhiều trình tự, thủ tục. Vì vậy, bảo đảm quyền
con người khi ban hành QĐHC đòi hỏi chủ thể ban hành phải cẩn trọng xem xét
các yếu tố của quyền con người trong từng giai đoạn của quy trình ban hành, đặc
biệt là đối với QĐHC bất lợi.
Hiện nay, chưa có khái niệm về bảo đảm quyền con người trong ban hành
QĐHC nhưng qua thực tiễn và các nguyên tắc bảo đảm khi ban hành QĐHC, có
thể đưa ra khái niệm về bảo đảm quyền con người khi ban hành QĐHC như sau:
Bảo đảm quyền con người khi ban hành QĐHC là các biện pháp bảo đảm thực
hiện các biện pháp pháp lý, nhằm bảo đảm QĐHC được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định, phòng ngừa các hành


vi lạm dụng quyền lực, vi phạm các quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân,
công dân, tổ chức trong quản lý nhà nước.
cơ chế để bảo vệ các quyền con người trong quá trình ban hành, thực
hiện các QĐHC mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp,

pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế. 1.1.4. Các quyền cơ bản của
con người cần được bảo đảm trong quyết định hành chính
a. Quyền sở hữu tài sản
Quyền sở hữu tài sản là một quyền cơ bản của con người. Đặc điểm của
quyền này đôi khi không phân biệt được rõ ràng nó thuộc nhóm quyền dân sự,
chính trị hay nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Xét về mặt lịch sử, quyền sở
hữu tài sản gắn liền với các quyền tự do dân sự, nhưng đồng thời nó lại có nội
hàm kinh tế mạnh mẽ và do đó, nó cũng thường được đề cập như một quyền kinh
tế, xã hội.
Hiến pháp và luật cơ bản của hầu hết các nền dân chủ trên thế giới đều đảm
bảo lâu dài quyền đối với tài sản, thừa nhận quyền sở hữu tài sản là quyền con
người, quyền công dân. Nội hàm của nó bao gồm cả việc tự do định đoạt tài sản
của một cá nhân với tư cách là ý chí của chủ sở hữu, không ai bị tước đoạt tài sản
một cách tùy tiện. Nhà nước, với vai trò là chủ thể gánh vác nghĩa vụ, phải tôn
trọng quyền sở hữu của cá nhân bằng cách kiềm chế không thực hiện những hành
vi xâm hại quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu.
Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản. Điều 164 quy định quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật. Mặc dù pháp luật Việt Nam không công nhận tư hữu đất
đai, nhưng khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, người dân hoặc tổ chức được xác lập quyền sử dụng đất
và định đoạt tài sản - quyền sử dụng đất theo Điều 163 Bộ luật Dân sự. Như
vậy, pháp luật đã công nhận quyền sử dụng đất là quyền tài sản thì không thể
thu hồi bằng một QĐHC có tính cưỡng chế khi người dân đang sử dụng hợp
pháp. Nhưng với QĐHC áp đặt, nhất là những QĐHC thu hồi, bồi thường, hỗ


trợ, tái định cư cho người dân thì nhà nước khiến cho những người bị thu hồi
đất, di dời khỏi nơi ở khi thực hiện các dự án không chỉ mất nhà cửa và môi

trường sinh sống mà ở đó họ đã đầu tư một phần thu nhập đáng kể trong rất
nhiều năm, thậm chí nhiều thế hệ, mà còn bị buộc từ bỏ những tài sản trên đất
mà họ sở hữu trước khi cơ quan nhà nước tháo dỡ, phá hủy nơi định cư của họ
để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án. Rõ ràng người bị thu hồi đất và phải
di chuyển để thực hiện các dự án của Nhà nước không được tự do định đoạt tài
sản theo ý chí và nguyện vọng của họ.
b. Quyền được thông tin, tự do phát biểu ý kiến và biểu đạt
trong các QĐHC
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tư do
báo chí; tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật quy định” [36].
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt Hiến pháp năm 2013
với nhiều quy định mới ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền cơ
bản của công dân, đòi hỏi các yêu cầu ngày càng cao đối với hoạt động của cơ
quan hành chính trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức trong xã
hội. Theo đó, đòi hỏi quy trình ban hành QĐHC phải minh bạch, công khai, thủ
tục rõ ràng, tránh gây tùy tiện.
Quyền được thông tin, tự do phát biểu ý kiến và biểu đạt trong các QĐHC
được thể hiện thông qua các quy định về lấy ý kiến tham vấn của người dân đối
với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến người dân.
Điều 4 - Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 quy định về tham gia góp ý kiến về dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật như sau:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận,
cơ quan, tổ chức khác và cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân.


2. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng

nhân dân, Uỷ ban nhân dân, cơ quan hữu quan có trách nhiệm tạo điều
kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này
tham gia góp ý kiến vào dự thảo văn bản.
3. Căn cứ vào tính chất và nội dung của dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, cơ quan hữu quan phải tổ
chức lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản
trong phạm vi và với hình thức thích hợp.
4. Cơ quan lấy ý kiến có trách nhiệm nghiên cứu tiếp thu ý kiến để
chỉnh lý dự thảo văn bản [30].
Điều 6 - Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức
khác, cá nhân có quyền và được tạo điều kiện góp ý kiến về đề nghị xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật.
2. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ
chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm
tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến về đề
nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp
của văn bản quy phạm pháp luật.
3. Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu, tiếp thu trong
quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản [37].
Trong việc thi hành pháp luật, do thiếu minh bạch trong hoạt động quản lý
đã làm hạn chế về mặt nhận thức, tư duy của những người thi hành pháp luật, dẫn
đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, thiếu bình đẳng, đặc biệt là
trong quá trình ban hành QĐHC. Thiếu công khai, minh bạch cũng dẫn đến sự



tuỳ tiện của các cơ quan công quyền, làm gia tăng tình trạng tham nhũng, vi phạm
pháp luật khiến cho các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân không
được bảo đảm. Đối với người dân, do không biết rõ những thông tin về qui
hoạch, về giải tỏa, đền bù, về những dự án ưu đãi, hay khoản tiền tài trợ, tiền
cứu trợ thiên tai...., nên nhiều khi phải chịu thiệt thòi, không được hưởng đầy đủ
các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trên thực tế, nếu việc tham vấn chỉ là hình thức và việc công khai, minh
bạch hóa không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, không xuất phát từ quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân (cụ thể ở đây là đối tượng chịu sự tác động của quyết
định hành chính) thì những quy định về tham vấn sẽ lại là câu chuyện xa rời thực
tế, thể hiện tình trạng “chiếu lệ” đang tồn tại trong nhiều quy định pháp lý của
Nhà nước ta hiện nay. Vì vậy để bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động của các cơ
quan Nhà nước thì mọi người dân đều có quyền được biết về các chủ trương,
chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời chính sách và pháp luật của
Nhà nước cần phải xuất phát từ thực tiễn và sự tham gia sớm của người dân vào
việc ban hành chính sách pháp luật là một yêu cầu được đặt lên hàng đầu.
c. Quyền được bảo đảm sự công bằng
- Công bằng trong ban hành QĐHC
Trong quản lý hành chính, công dân là một bên trong quan hệ có tính chất
bất bình đẳng với cơ quan hành chính nhà nước, hơn nữa, thường là cơ quan hành
chính có thẩm quyền định đoạt khá lớn, điều đó cũng có nghĩa là công chức hành
chính rất dễ lạm dụng quyền và như vậy, quyền lợi công dân khó được bảo vệ.
Pháp luật hành chính đã ngày càng phát triển theo xu hướng tính đến yếu tố này.
Bảo đảm công bằng thể hiện không chỉ ở giai đoạn phán xét của toà án mà
có thể bắt đầu từ chính quy trình ban hành QĐHC để có thể ra đời các QĐHC
công bằng, hợp lý. Trong quá trình ban hành QĐHC cũng thể hiện mối quan hệ
bất bình đẳng giữa cơ quan hành chính và đối tượng thực thi QĐHC đó. Bảo đảm
công bằng ngay từ giai đoạn ban hành QĐHC sẽ làm giảm đáng kể số lượng các
vụ khiếu nại hành chính; các vụ khiếu nại hành chính nếu được giải quyết công
bằng cũng sẽ làm giảm đáng kể số lượng các vụ khiếu kiện hành chính trước tòa



án.
Tiêu chí tiếp cận công bằng trong quy trình ban hành QĐHC có thể khái quát
ở các nội dung sau:
- Đúng đắn, phù hợp về thẩm quyền của cơ quan, cá nhân ban hành QĐHC;
- Rõ ràng, minh bạch về mặt thủ tục, quy trình ban hành QĐHC;
- Có sự tham gia của các đối tượng liên quan (ví dụ như lấy ý kiến đối với
một số văn bản có tác động tới nhiều đối tượng như quy hoạch đô thị, đất đai, xây
dựng, ...);
- Rõ ràng, minh bạch về nội dung QĐHC.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, việc quy định rõ về trình tự, thủ tục, quy
trình ban hành QĐHC còn có ý nghĩa quan trọng là hạn chế sự tuỳ tiện trong qu y
trình ra QĐHC của các cơ quan công quyền, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế và toàn cầu hoá; là cơ sở pháp lý góp phần bảo đảm tính khách quan, dân
chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, tạo thuận lợi cho việc bảo vệ
các quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, công dân.
Việc ban hành QĐHC đúng trình tự, thủ tục không chỉ có ý nghĩa dưới góc
độ quản lý nhà nước mà còn có ý nghĩa dưới góc độ dân chủ, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Thực vậy, một số QĐHC được ban hành
trái pháp luật đã làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và công dân, nếu không được đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ hoặc huỷ bỏ kịp
thời sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan nhà nước và đối với tính
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Công bằng trong khiếu nại, xét xử vụ án hành chính: Quá trình ban hành
QĐHC có tác động trực tiếp đến việc thi hành QĐHC đó. Các quyết định này,
không phải tất cả đều nhận được sự đồng thuận của đối tượng thi hành mà thay
vào đó là những khiếu nại, thậm chí là khởi kiện vụ án hành chính liên quan đến
Quyết định hành chính đó.
Có thể nói pháp luật về tố tụng hành chính ở nước ta hiện nay đã khá hoàn thiện

và đồng bộ, bao gồm: Luật Tố tụng Hành chính số 64/2010/QH12 ngày 24/11/2010;
Nghị quyết số 01/2011/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao


hướng dẫn một số quy định của Luật Tố tụng Hành chính; Thông tư liên tịch số
02/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn quy định về thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao của Luật Tố tụng Hành chính.
Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 đã quy định cụ thể về các điều kiện khởi
kiện vụ án hành chính, đó là: điều kiện về thời hiệu để khởi kiện vụ án hành
chính; các điều kiện về chủ thể trong vụ án hành chính; điều kiện về đối tượng
khởi kiện vụ án hành chính. Trong đó, điều kiện về đối tượng khởi kiện vụ án
hành chính cho đến thời điểm hiện tại vẫn là vấn đề gây tranh cãi trong việc áp
dụng, quyết định một vụ việc có đủ điều kiện để trở thành một vụ án hành chính
hay không.
Để làm rõ đối tượng khởi kiện vụ án hành chính bao gồm những đối tượng
nào, khoản 1, Điều 1 Nghị quyết 02/2011/HĐTP ngày 29/7/2011; Nghị quyết số
01/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định
QĐHC, hành vi hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh là các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Tuy nhiên, theo
các quy định trên thì hiện nay đang có nhiều cách hiểu khác nhau giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết
các vụ án hành chính, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, thậm chí
gây nên không ít hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực trong việc hiểu hoặc “cố tình
hiểu” sai nội dung hướng dẫn của điều luật, từ đó ra các quyết định không chính
xác, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người khởi kiện.
Ngoài các bất cập nêu trên, việc Luật “vênh” cũng khiến người dân khó khởi
kiện. Mặc dù, Luật khiếu nại, Luật Tố cáo và Luật Tố tụng Hành chính…ra đời
tháo gỡ nhiều vấn đề trong đó có việc giải quyết khiếu nại cũng như quyền khởi
kiện của người dân nhưng việc quy định khác nhau giữa Luật Khiếu nại, tố cáo và

Luật Tố tụng hành chính lại cho thấy sự thiếu thống nhất trong cách quy định về
khái niệm “QĐHC”. Bên cạnh đó, pháp luật cũng chưa có một giải thích rõ ràng,
thống nhất về khái niệm “QĐHC”, đặc biệt là chưa chỉ rõ ngoại diên của khái
niệm này có bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật hay không. Luật khiếu nại,


×