Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Sử dụng trò chơi học tập trong dạy học vần ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.32 KB, 112 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

KIỀU QUÝ HỢP

SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC
VẦN Ở TIỂU HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

VINH – 2009


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

KIỀU QUÝ HỢP

SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP TRONG
DẠY HỌC VẦN Ở TIỂU HỌC
Chuyên ngành: GIÁO DỤC HỌC (bậc tiểu học)
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS CHI THỊ HÀ THANH VINH – 2009




3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam ta nói riêng và tất cả các nước khác trên thế giới nói chung đang bước
vào một thời đại mới. Đó là thời đại của công nghệ, của khoa học, kĩ thuật, của trí tuệ.
Thời đại đòi hỏi đất nước phải có những người lao động với trình độ học vấn cao, có
tri thức, có bản lĩnh, có bản ngã, có năng lực thực tiễn đáp ứng mọi đời sống xã hội.
Thực tiễn nói trên đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải không ngừng đổi mới nhằm
góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam với tư cách là mục
tiêu và động lực của sự phát triển của kinh tế xã hội. Đổi mới trong giáo dục, phải
được hiểu là sự đổi mới toàn diện, đổi mới từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp
dạy học đang được coi là vấn đề nóng bỏng, vấn đề có tính chất thời đại thu hút sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục cũng như các giáo viên
trực tiếp đứng lớp…Đổi mới phương pháp dạy học là phải khắc phục cách thức
truyền thụ “thầy giảng – trò ghi”, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học.
Luật phổ cập giáo dục tiểu học (1991) xác định bậc tiểu học là bậc học đầu
tiên, hoàn chỉnh tương đối để chuẩn bị cho một bộ phận trẻ em bước vào cuộc sống,
làm nền tảng cho toàn bộ nền giáo dục quốc dân. Cũng chính bởi lớp 1, cấp I là bậc
học đầu tiên, cấp học đầu tiên nên nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, đặt viên gạch
đầu tiên cho hệ thống giáo dục phổ thông và quan trọng hơn nữa là sự hình thành và
phát triển nhân cách con người sau này.
Lớp 1 đã đánh dấu trong đời sống trẻ em một bước ngoặt quan trọng, mở ra
cánh cửa diệu kì đầy bí ẩn, đưa các em đến thăm một thế giới mới lạ với biết bao tri
thức mới. Có rất nhiều môn học mà trẻ phải làm quen trong đó môn Tiếng Việt với
các phân môn như Học vần, Tập viết, Kể chuyện… với nhiệm vụ giúp học sinh chiếm



4

lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và giao tiếp là chữ viết, phân môn Học
vần có một vị trí vô cùng quan trọng. Từ mẫu giáo lên lớp 1, trẻ em bắt đầu thực hiện
“bước quá độ vĩ đại nhất” trong đời: Từ hoạt động chủ đạo là “vui chơi” ở mẫu giáo
chuyển sang hoạt động chủ đạo là “học tập”. Sự khác biệt của hai loại hoạt động này
tạo ra một số khó khăn không nhỏ cho trẻ em, một cửa ải đòi hỏi sự thích nghi về
nhiều mặt mà các em không dễ gì vượt qua. Lớp 1 chứa đựng những thử thách quan
trọng đầu tiên của cuộc đời. Từ đây các em phải đối mặt với hàng loạt những khó
khăn trong học tập nói chung và phân môn Học vần nói riêng. Người giáo viên tiểu
học cần giúp trẻ thích nghi dần với cuộc sống mới bằng sự nhạy cảm, nghệ thuật sư
phạm và những phương pháp dạy học thích hợp để “mỗi ngày đến trường là một ngày
vui”, trao cho trẻ sự hứng thú với mỗi bài học, mỗi hoạt động học tập và cảm giác
mong đợi từng tiết học.
Khổng Tử đã từng dạy học trò của mình rằng “biết mà học không bằng thích
mà học, thích mà học không bằng vui say mà học”. Vì vậy một trong những giải pháp
đảm bảo sự thành công trong dạy học cho học sinh lớp 1 nói chung và phân môn Học
vần nói riêng là tạo được sự hứng thú nhận thức cho các em. Trò chơi với tính hấp
dẫn tự thân của mình có một tiềm năng lớn để trở thành một phương tiện dạy học hiệu
quả kích thích sự hứng thú nhận thức, niềm say mê học tập và tính tích cực sáng tạo ở
học sinh.
Trong thực tế, phân môn Học vần lớp 1 ngày càng được quan tâm chú ý. Nhiều
chương trình mới được xây dựng, nhiều phương pháp và hình thức dạy học mới được
nghiên cứu và ứng dụng đã mang lại những hiệu quả giáo dục đáng trân trọng. Tuy
nhiên, người giáo viên tiểu học phần lớn mới chỉ chú ý đến việc bằng mọi cách cung
cấp hết kiến thức trong sách giáo khoa, mà ít quan tâm đến thái độ, cảm xúc của trẻ.
Chính vì vậy nhiều tiết Học vần trở thành tiết học nặng nề, mệt mỏi đối với học sinh.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà áp lực do đòi hỏi từ phía xã hội, gia đình,
nhà trường lên đứa trẻ ngày càng lớn, thì ngày càng xuất hiện những học sinh sợ mà



5

học chứ không phải thích mà học. Để khắc phục nhược điểm này, cũng có một số
giáo viên đã đưa trò chơi vào trong dạy học và giáo dục, tuy nhiên do chưa có biện
pháp tổ chức thích hợp nên đã không có được hiệu quả dạy học như mong muốn.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Sử dụng trò chơi học tập
trong dạy Học vần ở tiểu học”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sử dụng trò chơi học tập
trong dạy Học vần nói riêng, trong dạy học Tiếng Việt nói chung.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học phân môn Học vần ở tiểu học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Sử dụng trò chơi học tập trong dạy Học vần ở tiểu học.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xác định đúng cơ sở lí luận, làm rõ thực trạng sử dụng trò chơi trong dạy
Học vần ở tiểu học thì sẽ đề xuất được một số biện pháp hợp lý nhằm nâng cao chất
lượng dạy học phân môn này.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy Học
vần tiểu học.
5.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng trò chơi học tập trong dạy Học vần ở tiểu
học.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sử dụng trò chơi học
tập vào dạy Học vần.
5.4. Thử nghiệm sư phạm.
6. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU



6

Luận văn tập trung nghiên cứu việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy học phân
môn Học vần ở một số trường tiểu học trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh và huyện Đức
Thọ tỉnh Hà Tĩnh.
7. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích, so sánh, hệ thống hoá, các quan điểm lí luận từ các công trình nghiên
cứu có liên quan đến đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát và ghi chép để nhận xét đánh giá về cách tổ chức trò chơi dạy Học vần
của giáo viên lớp 1.
7.2.2. Phương pháp điều tra
Điều tra bằng ankét cho giáo viên tiểu học để tìm hiểu thực trạng tổ chức trò
chơi dạy Học vần trong trường tiểu học.
7.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu sản phẩm của giáo viên, cụ thể là các giáo án sử dụng trò chơi dạy
Học vần và giáo án không sử dụng trò chơi dạy Học vần.
Nghiên cứu sản phẩm của học sinh: Bài kiểm tra, vở viết, vở bài tập…
7.2.4. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi với giáo viên tiểu học nhằm tìm hiểu về nhận thức, về thực tế tổ chức
trò chơi dạy Học vần, nguyên nhân và những giải pháp cho thực trạng ấy.
Phỏng vấn học sinh để tìm hiểu sự hứng thú của học sinh đối với trò chơi học tập nói
chung và trò chơi trong phân môn Học vần nói riêng.
7.2.5. Phương pháp thử nghiệm
Thử nghiệm một số tiết học có sử dụng trò chơi dạy Học vần theo đúng những

biện pháp, quy trình đề ra để chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết khoa học.


7

7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số công thức thống kê toán học để xử lí kết quả điều tra thực trạng
và kết quả thử nghiệm.
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Làm rõ được thực trạng tổ chức trò chơi dạy Học vần ở tiểu học.
- Đề xuất hệ thống biện pháp sử dụng trò chơi dạy Học vần ở tiểu học.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục nghiên cứu
thì luận văn được bố trí 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng sử dụng trò chơi học tËp trong d¹y Học vần ở tiểu học
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao chất lượng sử dụng trò chơi häc tËp trong
dạy Học vần ở tiểu học

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Vấn đề lí luận về trò chơi học tập và tổ chức cho trẻ chơi loại trò chơi này được
các nhà sư phạm trên thế giới cũng như ở nước ta quan tâm, bởi lẽ họ đã tìm thấy ý
nghĩa đích thực của trò chơi học tập trong việc giáo dục và dạy học cho trẻ. Tuy
nhiên, trong các hệ thống giáo dục cổ điển và hiện đại vấn đề này được xem xét
nghiên cứu theo một số khuynh hướng khác nhau.
* Khuynh hướng thứ nhất: Nghiên cứu và sử dụng trò chơi học tập vào
mục đích giáo dục – phát triển toàn diện cho trẻ em (N.K. Crupxkaia, I.A Kômenxki;
Đ. Lokk; J.J. Rutxô; Sáclơ Phuriê; Robert Owen; A.X. Macarencô; E.I. Chikhieva;…)



8

Các nhà khoa học Xô viết này đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu về trò chơi học
tập, họ chỉ ra vai trò của trò chơi học tập trong sự hình thành và phát triển nhân cách
của trẻ.
Theo nhà sư phạm nổi tiếng N.K. Crupxkaia thì “Trò chơi học tập không những
là phương thức nhận biết thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ em đi tìm chân lí mà còn
giúp trẻ xích lại gần nhau, giáo dục cho trẻ tình yêu quê hương lòng tự hào dân tộc.
Trẻ em không chỉ học trong lúc học mà còn học trong lúc chơi. Chơi với trẻ vừa là
học, vừa lao động, vừa là hình thức giáo dục nghiêm túc”. Còn nhà sư phạm E. I.
Chikhieva cho rằng “Trò chơi học tập đẩy mạnh sự phát triển chung của trẻ, nó giúp
trẻ xích lại gần nhau, phát huy tính độc lập của chúng. Nếu cô giáo biết cách tổ chức
hướng dẫn loại trò chơi này một cách khéo léo và sinh động thì trẻ sẽ rất thích thú và
tràn ngập niềm vui”.
* Khuynh hướng thứ 2: Nghiên cứu và sử dụng trò chơi học tập bó hẹp trong
mục đích dạy học, coi trò chơi học tập như một phương tiện dạy học. Có nghĩa là trò
chơi học tập được xác định không những như là một phương pháp, biện pháp dạy học
mà là một hình thức dạy học phù hợp với học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp
1 nói riêng (I. B. Bazêđora, Ph. Phroebel; X.G. Zalxmana…)
Theo nhà sư phạm người Đức Ph. Phroebel, trò chơi học tập phát triển thể chất,
làm giàu vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng của trẻ. Tuy nhiên
ông xem xét trò chơi dưới góc độ duy tâm thần bí. Ông cho rằng trò chơi để phát triển
cái vốn có sẵn của trẻ em, vì thế ông đã loại bỏ khả năng tưởng tượng, óc sáng tạo và
tính tích cực của trẻ trong hoạt động vui chơi.
Nhà sư phạm nổi tiếng A. I. Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan
trọng về tính đặc thù của dạy học kết hợp với trò chơi: “Trò chơi học tập là một quá
trình phức tạp, nó là hình thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi. Điều này được
thể hiện rõ ở tính chất đặc trưng các mối quan hệ giữa cô giáo và trẻ, giữa trẻ với
trẻ… nghệ thuật của cô giáo là ở chỗ, vẫn giữ được tính chất của trò chơi, thông qua



9

vai chơi, hành động chơi tiến hành hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động trí tuệ của trẻ em, sử
dụng trò chơi như hình thức dạy học… Khi các mối quan hệ chơi bị xoá bỏ, ngay lập
tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học, đôi khi biến thành sự
luyện tập”.
* Khuynh hướng thứ ba: Nghiên cứu và sử dụng trò chơi học tập vào mục đích
giáo dục và phát triển một số năng lực, phẩm chất trí tuệ cho học sinh (T.M.
Babunova; A.K. Bônđarencô;…).Theo hướng nghiên cứu này, trò chơi học tập được
xác định như một phương pháp giáo dục và phát triển tính tích cực, tính độc lập nhận
thức của học sinh.
Theo một số nhà tâm lí học phương Tây, trong trò chơi học tập người lớn như
là “thang đỡ’, “người trợ giúp” trẻ trong khi chơi “mỗi giáo viên cần tự mình quyết
định xem có nên tham gia vào trò chơi của trẻ hay không? Những ai đã quyết định
can thiệp thì phải xác định xem tiếp theo sau đó họ sẽ phải làm gì? Tuy nhiên vẫn
chưa có sự nhất quán về vai trò và mức độ ảnh hưởng của người lớn đến vai trò của
trẻ.
Có thể nói rằng, phần lớn các công trình nghiên cứu về trò chơi trên thế giới tập
trung vào việc nghiên cứu về lí luận sử dụng trò chơi học tập vào mục đích dạy học
và giáo dục cho học sinh tiểu học. Trên cơ sở đó các nhà sư phạm đã cố gắng tìm
kiếm, lựa chọn nội dung và các phương pháp, biện pháp tổ chức trò chơi. Tuy nhiên
việc nghiên cứu ứng dụng trò chơi học tập vào thực tiễn giáo dục trẻ còn có phần hạn
chế.
Ở nước ta, việc tổ chức trò chơi trong dạy học ở tiểu học đã được quan tâm.
Đối với môn Toán có “112 trò chơi toán lớp 1 và 2” của nhà giáo Phạm Đình Thực
[19]. Tác giả đưa ra quan niệm giúp trẻ học toán qua các trò chơi là một trong những
hướng đổi mới phương pháp dạy học toán ở tiểu học. Bài “Sử dụng trò chơi học tập
nhằm giúp trẻ học Toán ở đầu bậc tiểu học” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Trinh [23].



10

Trong dạy học Tự nhiên và xã hội có “Trò chơi học tập môn Tự nhiên và xã
hội lớp 1,2,3” do tác giả Bùi Phương Nga chủ biên [13]. Cuốn “Học mà vui, vui mà
học” của tác giả Vũ Xuân Đĩnh [5] giới thiệu một số trò chơi dùng trong dạy học môn
Tự nhiên và xã hội.
Trong dạy học môn Đạo đức có “Trò chơi học tập môn Đạo đức ở tiểu học”
của tác giả Lưu Thu Thuỷ [18].
Các công trình khác như: “100 trò chơi vận động cho học sinh tiểu học” của
Trần Đồng Lâm [11], “Tổ chức hoạt động vui chơi cho học sinh tiểu học” của Hà
Nhật Thăng [17], “Tổ chức cho học sinh tiểu học vui chơi giữa buổi học” của Trần
Đồng Lâm (Chủ biên)
Đối với môn học Tiếng việt có “Dạy và học môn Tiếng Việt ở tiểu học theo
chương trình mới” [22], cuốn “Vui học Tiếng Việt” [10], “Trò chơi thực hành Tiếng
Việt 1” [24], … Các tài liệu này đã trình bày về vai trò của trò chơi trong việc thực
hiện mục tiêu giáo dục tiểu học, một số lí luận về trò chơi, những nguyên tắc và quy
trình lựa chọn, tổ chức trò chơi cho học sinh tiểu học. Có thể nói đây là bước khởi
đầu cho việc đẩy mạnh tổ chức trò chơi ở trường tiểu học.
Một số tài liệu tham khảo đã xây dựng, giới thiệu hệ thống trò chơi Học vần
như “Trò chơi học âm vần Tiếng Việt”[20], “Trò chơi với chữ cái và phát triển ngôn
ngữ”[16]…. Hhững tài liệu nói trên mới chỉ chú ý đến việc nghiên cứu về cơ sở lí
luận chung của trò chơi, các trò chơi dạy Học vần đã được giới thiệu chưa phong phú
mới chỉ dừng lại ở một số trò chơi quen thuộc, việc hướng dẫn chơi còn sơ sài, có
nhiều hạn chế. Vì vậy, xây dựng biện pháp tổ chức trò chơi Học vần có ý nghĩa cả về
mặt lí luận cả về mặt thực tiễn đối với việc tổ chức trò chơi dạy Học vần ở tiểu học
hiện nay. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng những thành tựu nghiên cứu đã điểm dẫn ở
trên chứa đựng những nội dung quan trọng, trực tiếp góp phần làm cơ sở lí luận cho
việc nghiên cứu đề tài.

1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN


11

1.2.1. Trò chơi
`

1.2.1.1. Khái niệm
Hiện nay có một số định nghĩa về khái niệm trò chơi như sau:
- Trò chơi là một loại hình văn hoá dân gian rất quen thuộc, gần gũi với mọi

người và mang tính chất truyền thống.
- Trò chơi là một loại hình sinh hoạt, giao lưu văn hoá của con người, thường
được tổ chức vào các dịp lễ, hội, tết....
- Trò chơi đem lại cho con người sự vui vẻ, đoàn kết, giúp con người bộc lộ
những tình cảm, thể hiện ước mơ, sự phấn đấu....
- Trò chơi là hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí thông qua đó giáo dục con
người những kinh nghiệm sản xuất, phẩm chất đạo đức, tri thức khoa học....
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ, trọn vẹn, chính xác
về trò chơi.
Vậy trò chơi là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt thì trò chơi là "Hoạt động bày ra
để vui chơi, giải trí” [25]
Chúng tôi cho rằng : Trò chơi là hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội
dung nhất định, có tổ chức của nhiều người tham gia (từ 2 người trở lên) và có
những quy định, những luật lệ buộc người tham gia phải tuân theo.
1.2.1.2. Cấu trúc của trò chơi
Trß ch¬i ®îc cÊu tróc tõ nh÷ng yÕu tè: Cốt trò, Đề trò, Luật trò, Thưởng - phạt.
Có thể minh hoạ bằng sơ đồ 1:
Cấu trúc của trò chơi.

Trò chơi

Cốt trò

Đề trò

Luật trò

Thưởng, phạt


12

* Cốt trò:
Cốt trò là "bộ xơng của trò chơi, là cái tạo nên trò chơi, là mục tiêu mà trò chơi
muốn đạt đợc.
* Đề trò:
Đề trò là hình thức thể hiện trò chơi, là bớc dẫn dắt trò chơi, l tình huống nhằm
thu hút, lôi cuốn, kích thích cho ngi chi tham gia một cách tích cực.
* Luật trò:
Là những quy định, quy tắc mà bất cứ ngời chơi nào cũng phải tuân thủ.
Luật trò phải đợc phổ biến trớc khi chơi để những ngời chơi nắm đợc mà thực
hiện đúng luật, tránh vi phạm trong khi chơi.
* Thởng, phạt:
Trò chơi bao giờ cũng có kẻ thắng, ngời thua và đi kèm có thởng cho ngời (hoặc
nhóm) thắng cuộc và có phạt cho ngời (hoặc nhóm) nào thua cuộc.
Tuy
nhiên, thởng và phạt ở đây chỉ mang tính tợng trng đơn giản, vui vẻ, khích lệ.
1.2.1.3. Phõn loi trũ chi
Trò chơi có thể phân loại theo số ngời tham gia: Trò chơi tập thể, Trò chơi cá

nhân; hoc tớnh cht: Trũ chi vi vt, Trò chơi vận động, Trò chơi trí tuệ, Trũ chi
kết hợp (vận động và trí tuệ); hoặc phân loại theo các môn học: Trũ chi toỏn hc, Trũ
chi ting Vit, Trũ chi tỡm hiu lch s ... Trong các môn học lại đợc phân ra theo
các mạch kiến thức, phân loại theo chủ đề học tập.
* Trũ chi vi vt (hay trũ chi xõy dng)
Tr thng chi vi nhng vt th n gin (nh vi cỏt, vi cỏc hỡnh khi, cỏc
mnh g, mnh nha) hay vi nhng chi, k c chi chuyn ng (ụ tụ, tu
ho, mỏy bay)
* Trũ chi theo ch
Trũ chi theo ch rt a dng, phự hp vi cuc sng muụn hỡnh, muụn v
xung quanh. Trong cỏc ch ú, cỏc s kin xó hi chim mt v trớ ln. Trũ chi
theo ch bao gm: Trũ chi sm vai, trũ chi o din, trũ chi úng kch.


13

* Trò chơi vận động
Đây là loại trò chơi trong đó luôn có sự vận động cơ bắp. Trẻ em rất thích loại
trò chơi này, ngay cả lứa tuổi nhỏ nhất. Các trò chơi vận động cũng có nội dung trí
tuệ phong phú, đòi hỏi ở người chơi sự chú ý, nhanh trí, biết phản ứng linh hoạt, mau
lẹ, có ý thức. Do gắn với nhiều thao tác khác nhau dưới hình thức tự nhiên, trò chơi
vận động có ảnh hưởng tốt tới sự phát triển cả thể chất lẫn trí tuệ của trẻ.
* Trò chơi trí tuệ
Đây là trò chơi hoàn toàn dựa trên cơ sở hoạt động sáng tạo của trẻ em. Nội
dung của các trò chơi này là sự thi đấu về một hoạt động trí tuệ nào đó: Sự chú ý, sự
nhanh trí, trí nhớ, sức tưởng tượng sáng tạo, các hoạt động phát minh. Ví dụ như chơi
cờ, chơi tú, chơi cá ngựa, đóng kịch ngẫu hứng theo đề tài nào đó…Trò chơi trí tuệ sẽ
giúp trẻ hoàn thiện các năng lực trí tuệ trên, phát triển tính tự lập và năng lực hoạt
động tập thể, giáo dục tính kỉ luật, tính đồng đội.
* Trò chơi học tập

Loại trò chơi này sẽ được trình bày một cách cụ thể ở phần tiếp sau.
Trên đây là 5 loại trò chơi cơ bản. Tuy nhiên sự phân loại này chỉ có tính tương
đối. Trên thực tế có những loại trò chơi hỗn hợp, tổng hợp của hai hoặc nhiều loại trò
chơi trên.
1.2.1.4. Ý nghĩa của trò chơi
Nhân cách của mỗi con người không chỉ được hình thành trong học tập và lao
động mà còn được hình thành trong hoạt động vui chơi. Chơi là hoạt động rất tự
nhiên trong cuộc sống của mọi người, nó đặc biệt quan trọng đối với trẻ em. Đối với
trẻ thơ thì chơi chính là cuộc sống thực của chúng, không chơi trẻ em không thể phát
triển được, không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là đang sống. Đó là một
thực tế mang tính quy luật.
Có thể nói rằng, trò chơi có hiệu quả kép… chơi làm thoả mãn nhu cầu của trẻ.
Trò chơi phát triển các chức năng tâm lí và hình thành nên nhân cách.


14

Trò chơi nếu được tổ chức hợp lí thì sẽ kích thích sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Trong khi chơi, trẻ phát triển tri giác nhanh, phát triển trí nhớ, phát triển các
thao tác tư duy, phát triển tưởng tượng và phát triển ngôn ngữ. Hoạt động chơi một
mặt làm nảy sinh các yếu tố tâm lí của hoạt động học tập ở trẻ: nhu cầu, động cơ nhận
thức, chú ý, sự nổ lực ý chí… mặt khác, qua chơi vốn hiểu biết và kinh nghiệm của
trẻ được mở rộng và phát triển - một điều kiện quan trọng để trẻ học tập có kết quả.
Từ chỗ ý thức của trẻ hướng tới bản thân thao tác chơi chuyển dần sang mục
đích, nội dung và yêu cầu khách quan của trò chơi, hành động chơi được hình thành ở
trẻ. Từ đó xuất hiện hàng loạt tiền đề tâm lí để trẻ hình thành động cơ học tập như sự
phát triển các chức năng tâm lí phục vụ cho nhận thức và phát triển nhân cách.
Trước hết, tính chủ động của các quá trình tâm lí: Chú ý có chủ định, ghi nhớ có
chủ định được hình thành và phát triển trong lòng hành động chơi. Bởi lẽ chính nội
dung chơi, luật chơi đòi hỏi đứa trẻ phải tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định. Nếu

đứa trẻ không chú ý và nhớ những điều kiện của trò chơi thì đứa trẻ không thực hiện
được các hành động chơi, thao tác theo luật chơi. Tức là đứa trẻ đã “phạm luật” trong
khi chơi. Khi thực hiện nội dung, hành động chơi và luật chơi nhu cầu nhận thức của
trẻ được nảy sinh (trẻ tự đặt ra câu hỏi: Đó là cái gì? Như thế nào?… và mong muốn
được khám phá nó). Nhu cầu nhận thức đối tượng. Đồng thời với sự hình thành tính
chủ định của các quá trình tâm lí, những phẩm chất ý chí của trẻ cũng được hình
thành và phát triển. Khi tham gia chơi, trẻ phải điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với nội dung chơi, luật chơi. Và do vậy, tính mục đích, tính kĩ luật cũng
được hình thành.
Qua chơi, một mặt giúp trẻ tích luỹ được những biểu tượng làm cơ sở cho hoạt
động tư duy. Trò chơi còn ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngôn ngữ, tình cảm của
trẻ.
Khi chơi cũng là dịp tốt nhất để trẻ phát hiện thăm dò thế giới xung quanh, qua
đó mà kích thích tính tò mò, óc quan sát, năng lực phán đoán, trí tưởng tượng…


15

Chớnh vỡ vy m nhiu nh giỏo dc ó gi trũ chi l trng hc ca cuc sng tr
em. Tr cn chi nh cn n no, mc m. Trũ chi nuụi dng tõm hn tr m khụng
cú gỡ thay th c. Khụng to iu kin cho tr chi cng ó ngn chn con ng
phỏt trin t nhiờn ca chỳng. Chi l phng tin giỏo dc ton din cho tr.
Chớnh vỡ th cn giỏo dc tr trong trũ chi vi phng thc l Hc m chi, chi
m hc.
1.2.2. Trũ chi hc tp
1.2.2.1. Khỏi nim
Trò chơi học tập là loại trò chơi có chứa nội dung dạy học, đợc bày ra để thông
qua việc chơi mà học.
A.I Xụrụkina ó a ra mt lun im vụ cựng quan trng v c thự ca trũ
chi hc tp: Trũ chi hc tp l mt quỏ trỡnh phc tp, nú l hỡnh thc dy hc v

ng thi nú vn l trũ chiKhi cỏc mi quan h chi b xúa b, ngay lp tc trũ
chi bin mt v khi y, trũ chi bin thnh tit hc, ụi khi bin thnh s luyn tp.
Đối với học sinh tiểu học, trò chơi học tập thờng có nội dung đơn giản, có yêu
cầu thấp, vừa sức.
Tác giả Đỗ Tiến Đạt cho rng : Trò chơi học tập là hoạt động đợc tổ chức có tính
chất vui chơi, giải trí, thông qua đó học sinh có điều kiện "Học mà vui, vui mà học".
Nh vy, các nội dung học tập của trẻ (Tiếng Việt; Toán; Khoa hc; Lịch sử; a
lớ; Tự nhiên và xã hội; Đạo đức.....) đợc thể hiện vào trong trò chơi và thông qua trò
chơi học sinh nắm đợc nội dung mà giáo viên cần truyền đạt.
Tỏc gi Trần Thị Ngọc Trâm [21] cho rằng: " Trò chơi học tập là một trong
những phơng tiện có hiệu quả để phát triển các năng lực trí tuệ, trong đó có khả năng
khái quát hoá là một năng lực đặc thù của khả năng con ngời.
Trò chơi, khi đa vào giờ học thì nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài
học, phải góp phần vào việc hình thành các kiến thức cơ bản hoặc rèn luyện kỹ năng
cơ bản của tiết học. Việc thiết kế các trò chơi trong quá trình dạy học là một nghệ
thuật s phạm trong dạy học và việc tổ chức trò chơi lúc này đợc xem nh là một phơng
pháp dạy học thực sự một phơng pháp s phạm tích cực.


16

1.2.2.2. Đặc điểm trò chơi học tập
Những thành tựu nghiên cứu về trò chơi đặc biệt về sự phân loại trò chơi cho
phép khẳng định:
Trò chơi học tập thuộc nhóm trò chơi có luật thường được dùng vào mục đích
giáo dục và dạy học hướng tới việc phát triển hoạt động trí tuệ cho trẻ.
Trò chơi học tập khác với các loại trò chơi khác là ở chỗ, nhiệm vụ nhận thức và
luật chơi trong trò chơi đòi hỏi trẻ phải huy động trí óc làm việc thực sự nhưng chúng
lại được thực hiện dưới hình thức chơi vui vẻ, thú vị. Khác với nhóm trò chơi luật ẩn
(luật chơi được ẩn sau chủ đề, hành động và vai chơi). Trò chơi học tập thuộc nhóm

trò chơi có luật cố định (các trò chơi với những nội dung, nhiệm vụ và luật chơi có
sẵn).
Trên thực tế hiện nay nhiều giáo viên không nắm rõ được bản chất, đặc trưng
của trò chơi học tập và thường nhầm lẫn với bài tập. Họ cho rằng cứ lấy một bài tập
rồi tổ chức cho trẻ thi đua giải bài tập đó xem ai nhanh nhất, ai đúng nhất thì đó là
chơi. Đây là một quan niệm sai lầm.
Chúng tôi khái quát điểm khác biệt giữa trò chơi học tập và bài tập thông qua
bảng sau:
Điểm so sánh
- Động cơ

Bài tập
Trò chơi học tập
- Động cơ của hoạt - Động cơ của hoạt
động giải bài tập nằm ở động chơi không chỉ
kết quả của hoạt động nằm ở kết quả mà cơ
đó là nhận thức đúng. bản nằm trong quá trình
Động cơ này xuất phát thực hiện hành động
từ nhu cầu nhận thức.

- Nhiệm vụ nhận
thức

chơi

- Nhiệm vụ nhận

- Nhiệm vụ nhận

thức được đặt ra một


thức không đặt ra một

cách trực tiếp, rõ ràng, cách trực tiếp và công


17

công khai thông qua khai trước trẻ mà nằm
lệnh bài tập.

trong nhiệm vụ chơi,

Việc giải quyết

trong luật chơi và trong

nhiệm vụ nhận thức hành động chơi. Việc
chính là mục tiêu của giải quyết nhiệm vụ
hoạt động.

nhận thức chỉ là con
đường, cách thức để đi
đến đích cuối cùng là
“thắng” chứ không phải
là mục tiêu của hoạt
động.

- Đặc điểm, tính
chất của hoạt động


- Là hoạt động bắt

- Là hoạt động tự

buộc, học sinh không

nguyện của trẻ. Trẻ

muốn cũng phải thực hành động theo luật
hiện.

chơi, biết tính đến mong

Hành động giải bài

muốn của người khác.

tập diễn ra độc lập ở
mỗi học sinh, không bị
chi

phối

bởi

mong

muốn của người khác.
- Kết quả


- So sánh kết quả

- So sánh kết quả
với nhau để xác định

với đáp án để xác định “thắng thua” (có yếu tố
“đúng sai” (trong hoạt “thi đua” ngay trong
động không có yếu tố bản thân hoạt động
“thi đua”)


18

1.2.2.3. Cấu trúc của trò chơi học tập
- Nhiệm vụ nhận thức
Đây chính là nội dung chơi có tính chất như một bài toán mà học sinh phải giải
dựa trên các điều kiện đã cho. Nhiệm vụ nhận thức là thành phần cơ bản của trò chơi
học tập, nó khêu gợi hứng thú sinh động của học sinh, kích thích tính tích cực và
nguyện vọng chơi của các em. Mỗi một trò chơi học tập có nhiệm vụ nhận thức của
mình, chính điều đó làm cho trò chơi này khác với trò chơi kia.
- Hành động chơi
Là những tác động trẻ phải làm trong lúc chơi và nó cũng là thành phần quan
trọng của trò chơi học tập “Các hành động chơi là thành phần chính của trò chơi học
tập, thiếu chúng thì không còn là trò chơi nữa. Các hành động chơi như là những hoạ
tiết của chủ đề chơi”. Những hành động ấy càng nhiều bao nhiêu thì bản thân trò chơi
càng lí thú bấy nhiêu. “Hành động chơi càng đa dạng và phong phú bao nhiêu thì trẻ
càng tích cực bấy nhiêu. Điều đó đã tạo cho cô giáo cơ hội hình thành mối quan hệ
qua lại giữa học sinh với nhau: các em biết hành động theo thứ tự, theo lượt phù hợp
với luật chơi, biết tính đến mong muốn của người khác và biết giúp đỡ bạn bè trong

những lúc khó khăn”
- Luật chơi
Trò chơi học tập bao giờ cũng có luật chơi và luật chơi giữ vai trò quyết định.
Đó là những quy định có sẵn mà nhất thiết trẻ phải tuân thủ trong khi chơi. Luật chơi
quyết định trò chơi và nếu phá vỡ chúng thì trò chơi học tập cũng bị phá vỡ theo. Mỗi
trò chơi học tập đều có luật chơi do nội dung chơi quy định. Có thể nói, các luật chơi
đã tạo nên có thể tự điều khiển hành vi của học sinh và nhờ luật chơi, nhà giáo dục có
thể điều khiển được hành vi của các em khi chơi. “Luật chơi càng chính xác bao
nhiêu thì trò chơi càng căng thẳng và quyết liệt bấy nhiêu…”
Trong trò chơi học tập, luật chơi rất đa dạng nhằm:


19

+ Quy định hành động chơi và trình tự các hành động chơi (thường gồm các
hành động khác nhau tạo nên một chuỗi, thường đi kèm với lời nói)
+ Điều khiển quan hệ giữa các bạn chơi.
+ Giới hạn hoặc cấm một số biểu hiện hành động, hoặc nêu các hình thức phạt
khi vi phạm luật chơi.
- Kết quả
Trò chơi học tập bao giờ cũng có một kết quả nhất định. Đó là lúc kết thúc trò
chơi, học sinh giải quyết thành công một nhiệm vụ nhận thức nào đó mà trò chơi yêu
cầu. Kết quả của trò chơi học tập thường làm thoả mãn nhu cầu nhận thức cũng như
nhu cầu chơi ở các em.
1.2.2.4. Phân loại trò chơi học tập
Về phương diện phát triển các chức năng tâm lí của học sinh, trò chơi học tập
cũng có nhiều loại khác nhau:
Trò chơi học tập nhằm phát triển các giác quan: Rèn luyện sự tinh nhạy của đôi
mắt, sự tinh nhạy của đôi tai… Tức là rèn luyện và phát triển hành động nhạy cảm ở
các em.

Trò chơi học tập nhằm phát triển các thao tác tư duy: Những trò chơi này giúp
học sinh nhìn nhận, phân tích, so sánh, khái quát về sự vật hiện tượng theo một dấu
hiệu bề ngoài. Trong quá trình phân loại, trẻ phát hiện những dấu hiệu giống nhau,
những dấu hiệu khác nhau giữa các đối tượng, để đi đến sự sắp xếp của sự vật hiện
tượng theo những dấu hiệu chung. Như vậy khả năng khái quát của trẻ được hình
thành và phát triển.
Trò chơi học tập nhằm phát triển óc tưởng tượng: Đây là loại trò chơi mà học
sinh sử dụng vốn sống, những biểu tượng đã có trong đầu để thực hiện các thao tác
chơi, nội dung chơi. Nhờ óc tưởng tượng các em thực hiện được các thao tác chơi, nội
dung chơi và nhập vai thực sự vào cuộc chơi.


20

Trò chơi học tập phát triển trí nhớ. Là loại trò chơi rèn luyện và phát triển trí
nhớ của học sinh về những tri thức, khái niệm, biểu tượng mà các em đã lĩnh hội
được trước đó. Khả năng ghi nhớ, tái hiện của các em phụ thuộc vào những ấn tượng
mạnh - yếu của thế giới xung quanh tác động vào giác quan của các em.
Trò chơi học tập giúp cho sự phát triển, chú ý, ngôn ngữ… của học sinh.
Sự phân loại trên chỉ có tính tương đối, giúp chúng ta dễ nhận ra ý nghĩa vai trò của
trò chơi học tập đối với sự phát triển tâm lí và trí tuệ của các em. Trong thực tế nhiều
trò chơi học tập có ý nghĩa tổng hợp. Nó vừa có ý nghĩa đối với sự phát triển của các
giác quan, vừa có ý nghĩa đối với sự phát triển các thao tác trí tuệ, óc tưởng tượng, sự
chú ý….
1.2.2.5. Vai trò của trò chơi học tập đối với sự phát triển trí tuệ của học
sinh.
Học trong quá trình vui chơi, là quá trình lĩnh hội tri thức, vốn sống kinh nghiệm
xã hội nhẹ nhàng, tự nhiên không gò bó, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí ở học sinh.
Học bằng chơi sẽ khơi dậy hứng thú tự nguyện, làm giảm thiểu sự căng thẳng thần
kinh ở các em, giữ được sự hồn nhiên ở trẻ thơ.

Trong quá trình chơi, để thực hiện chức năng của hoạt động chơi, giải quyết
nhiệm vụ chơi học sinh phải thực hiện các giác quan để tiếp nhận thông tin ngôn ngữ,
phải tự phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại và khái quát hoá. Tuỳ theo nhiệm vụ
nhận thức của mỗi trò chơi, làm cho các giác quan của trẻ tinh nhạy hơn, ngôn ngữ
mạch lạc hơn, tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh các thao tác trí tuệ được
hình thành. Qua trò chơi học tập học sinh tiếp thu, lĩnh hội và khắc sâu được nhiều tri
thức, nhiều khái niệm và hình thành được những biểu tượng rõ rệt về các sự vật, hiện
tượng xung quanh. Trên cơ sở đó những phẩm chất trí tuệ của các em được hình
thành như: sự nhanh trí, tính linh hoạt, sáng tạo, tính kiên trì…
Trò chơi học tập còn là phương tiện rất tốt để khắc phục những mặt khó khăn
trong hoạt động tư duy của học sinh vì cũng có lúc trong trò chơi các em bộc lộ


21

những sai lầm trong những tình huống mới. Giáo viên hoặc bạn bè trong nhòm giúp
đỡ các em giải quyết tình huống đó, các em tích luỹ được kinh nghiệm, sữa chữa
những sai sót trong tư duy.
Trò chơi học tập có ảnh hưởng giáo dục sâu sắc tới học sinh. Nó được coi là
một trong những phương tiện có hiệu quả để đạt được mục tiêu dạy học, góp phần
phát triển năng lực trí tuệ đồng thời góp phần giáo dục thẩm mỹ học, đạo đức cho các
em như: tính thật thà, tính tổ chức, tự lực, đoàn kết.
Các nhà tâm lí học lớp 1 coi trò chơi học tập là một phương tiện quan trọng
trong quá trình dạy học tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng, bởi vì:
- Thứ nhất: trò chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội tri thức và kĩ năng khác
nhau mà không có chủ định từ trước. Trong trò chơi này, yếu tố chủ yếu của bản thân
các em là những hành động chơi và đạt tới mục đích chơi. Đồng thời, các em cũng
thực hiện được nhiệm vụ nhận thức, nắm vững được những tri thức, kĩ năng mới mà
bản thân các em không biết.
- Thứ hai: ở trò chơi học tập có sự tự nguyện và bình đẳng giữa các học sinh.

Mọi học sinh đều có vị trí, nhiệm vụ như nhau khi tham gia vào trò chơi.
- Thứ ba: ở trò chơi học tập học sinh cảm nhận được một cách trực tiếp kết quả
hành động của mình: Đúng hay sai, phát hiện ra cái mới…Kết quả này có ý nghĩa to
lớn đối với các em, nó mang lại niềm vui vô hạn, thúc đẩy tính tích cực, mở rộng
củng cố và phát triển vốn hiểu biết ở các em.
1.2.2.6. Trò chơi học tập trong môn Học vần ở tiểu học
Theo chúng tôi: Trò chơi học tập trong môn Học vần là các trò chơi trong đó
có chứa các nội dung kiến thức của phân môn Học vần. Nó được thể hiện ở một khâu
nào đó trong việc dạy học (đầu tiết, giữa tiết, cuối tiết hoặc trong giờ luyện tập, ngoại
khoá...) nhằm mục đích: dẫn dắt, hình thành kiến thức mới, hay củng cố, ôn luyện nội
dung kiến thức đã học cho học sinh.


22

Nói cách khác tức là chuyển nội dung kiến thức của bài học Học vần thành các
nhiệm vụ học tập thông qua trò chơi và cách thức chơi để lĩnh hội tri thức của bài
học.
1.3. SỬ DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC VẦN Ở TIỂU
HỌC
1.3.1. Mục tiêu của dạy Học vần
Trước đây vấn đề xác định mục tiêu cụ thể của môn học này chưa có những ý
kiến hoàn toàn thống nhất. Về cơ bản có hai quan niệm:
+ Chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục xác định mục tiêu của dạy
Học vần là dạy học chữ, dạy các em biết nhận mặt các con chữ rồi ghép vần ghép
tiếng để biết đọc biết viết.
+ Chương trình sách giáo khoa công nghệ giáo dục là dạy âm (dạy âm vị). Dạy
cấu tạo ngữ âm Tiếng Việt để thông qua đó trẻ biết đọc, biết viết một cách khoa học.
Để xác định mục tiêu của dạy học Học vần cần làm rõ một số vấn đề sau:
- Thứ nhất là: Học vần là môn học khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một

công cụ mới để sử dụng trong học tập và giao tiếp, đó là chữ viết. Tầm quan trọng
của Học vần chịu quy định của chữ viết trong hệ thống ngôn ngữ. Nếu chữ viết được
coi là phương tiện ưu thế nhất trong giao tiếp thì Học vần có một vị trí quan trọng
không thể thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.
- Thứ hai là: Cùng với tập viết, Học vần có nhiệm vụ lớn lao và trao cho các em
chìa khoá để vận dụng chữ viết khi học tập. Khi biết đọc, biết viết, các em có điều
kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo… từ đó có
điều kiện học tốt các môn học khác có trong chương trình.
Với trẻ em Việt Nam học Tiếng Việt thì vấn đề cơ bản đầu tiên là biết dùng kí
hiệu văn tự để kí mã hệ thống âm tiết mà các em đã được biết từ khi lọt lòng mẹ đến
khi 6, 7 tuổi, biết nhận đủ và nhớ được hệ thống kí hiệu đó. Bởi vậy phương pháp dạy
học Học vần phải thoả mãn yêu cầu bằng cách nhanh nhất giúp trẻ làm quen với hệ


23

thống tín hiệu âm thanh, tiếng nói đã có trong giao tiếp. Với yêu cầu này thì mục tiêu
dạy chữ phải được đặt lên hàng đầu, mục tiêu dạy âm xếp hàng thứ hai.
Không chỉ có vậy, chữ viết Tiếng Việt là chữ ghi âm, muốn nắm được kĩ năng
đọc, viết học sinh đồng thời phải nắm được cả hai. Bởi vậy về nguyên tắc không thể
nói ở lớp 1 là dạy âm hay dạy chữ mà phải kết hợp dạy chữ trên cơ sở dạy âm, dạy
âm để dạy chữ. Xác định mục tiêu dạy Học vần lớp 1 như vậy về cơ bản là hợp lí.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 theo chương trình 2000 đã có những thay đổi nhất
định trong đó nổi bật là việc xác định đúng đắn mục tiêu của dạy học:
Coi trọng sự hình thành rèn luyện cả 4 kĩ năng: nghe, đọc, nói, viết trong đó kĩ
năng đọc và kĩ năng viết vẫn được đặt ở vị trí hàng đầu tuy nhiên chú ý nhiều hơn đến
kĩ năng viết.
Ngoài ra, thông qua việc dạy chữ, dạy âm, Học vần còn phải phát triển vốn từ
của các em (làm giàu vốn từ, biết nói đúng các mẫu câu ngắn) và tạo cho các em sự
ham thích thơ văn. Đây là điều kiện chuẩn bị để các em học tốt hơn môn Tiếng Việt ở

các lớp trên.
1.3.2. Chương trình, nội dung Học vần
1.3.2.1. Chương trình
Môn Tiếng Việt 1 chương trình tiểu học mới được tiến hành trong 35 tuần.
Trong đó phần Học vần được dạy trong 21 tuần đầu. Mỗi tuần dạy 5 bài trong 10 tiết.
Mỗi bài dạy trong hai tiết, thời gian cho mỗi tiết là 35 phút (có quy định nghỉ giải lao
giữa tiết là 5 phút)
Tri thức cụ thể được giới thiệu trong phần Học vần gồm có: hệ thống âm, chữ
ghi âm, thanh điệu được giới thiệu trong 28 bài đầu, hệ thống vần được giới thiệu
trong 75 bài tiết theo.
1.3.2.2. Nội dung
Nội dung dạy học được thể hiện trong sách giáo khoa Tiếng Việt và sách tập
viết.


24

Phần Học vần gồm 103 bài, trong đó có 83 bài thuộc tập 1, 20 bài thuộc tập 2.
Mỗi bài của phần Học vần được trình bày trên hai trang sách (trang thứ nhất là trang
chẵn và trang thứ hai là trang lẻ)
Phần Học vần gồm hai dạng:
* Các bài học giới thiệu âm, chữ ghi âm và thanh điệu gồm:
Bài 1: e

Bài 8: l, h

Bài 15: t, th

Bài 22: p – ph, nh


Bài 2: b

Bài 9: o, c

Bài 16: Ôn tập

Bài 23: g, gh

Bài 3: /

Bài 10: ô, ơ

Bài 17: u, ư

Bài 24: q, - qu, gi

Bài 4: ?, .

Bài 11: Ôn tập

Bài 18: x, ch

Bài 25: ng, ngh

Bài 5: \ , ~

Bài 12: i, a

Bài 19: s, r


Bài 26: y, tr

Bài 6: be, bè, bẻ, bẽ bẹ

Bài 13: n, m

Bài 20: k, kh

Bài 27: Ôn tập

Bài 7: ê, v

Bài 14: d, đ

Bài 21: Ôn tập

Bài 28: Chữ thường, chữ hoa

* Các bài học giới thiệu vần
Bài 29: ia

Bài 69: ăt, ât

Bài 66: uôm, ươm

Bài 33: ôi, ơi

Bài 30: ua, ưa

Bài 70: ôt, ơt


Bài 67: Ôn tập

Bài 34: ui, ưi

Bài 31: Ôn tập

Bài 71: et, êt

Bài 68: ot, át

Bài 35: uôi, ươi

Bài 32: oi, ai

Bài 72: ut, ưt


25

Bài 36: ay, â - ây

Bài 86: ôp, ơp

Bài 73: it, iết

Bài 50: uôn, ươn

Bài 37: Ôn tập


Bài 87: ep, êp

Bài 74: uôt, ươt

Bài 51: Ôn tập

Bài 38:

Bài 88: ip, up

eo, ao

Bài 75: Ôn tập

Bài 52: ong, ông

Bài 39: au, âu

Bài 89: iêp, ươp

Bài 76:

Bài 53: ăng, âng

oc, ac

Bài 40: iu, êu

Bài 90: Ôn tập


Bài 77:

Bài 54: ung, ưng

ăc, âc

Bài 41: iêu, yêu

Bài 91: oa, oe

Bài 78:

Bài 55

uc, ưc

eng, iêng

Bài 42: ưu, ươu

Bài 92: oai, oay

Bài 79: ôc, uôc

Bài 56: uông, ương

Bài 43: Ôn tập

Bài 93: oan, oăn


Bài 80: iêc, ươc

Bài 57:

Bài 44: on, an

Bài 94: oang, oăng

Bài 81: ach

Bài 58:

Bài 45: ân, ă - ăn

Bài 95: oanh, oach

Bài 82:

Bài 59:

Ôn tập

Bài 46: ôn, ơn

Bài 96:

oat, oăt

Bài 83: Ôn tập


Bài 60:

om,am

Bài 47:

Bài 97: Ôn tập

ich, êch

en, ên

ang, anh
inh, ênh

Bài 84: op, ap

Bài 61:

Bài 48:

Bài 98: uê, uy

in, un

ăm, âm

Bài 85: ăp, âp

Bài 62:


ôm, ơm

Bài 49: iên, yên

Bài 99:

uơ, uya


×