Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học phân môn lịch sử ở trường tiểu học luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.01 MB, 138 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
------

NGÔ THỊ MỸ HUẾ

SỬ DỤNG “BẢN ĐỒ TƯ DUY” TRONG DẠY HỌC
PHÂN MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC HỌC (BẬC TIỂU HỌC)
MÃ SỐ: 60.14.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN THỊ HƯỜNG

NGHỆ AN – 2012


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bản đồ tư duy

:

BĐTD

Cơ sở vật chất

:

CSVC


Công nghệ thông tin

:

CNTT

Đối chứng

:

ĐC

Giáo viên

:

GV

Học sinh

:

HS

Phương pháp dạy học

:

PPDH


Sách giáo khoa

:

SGK

Thực nghiệm

:

TN


LI CM N
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
nhất đến PGS - TS. Nguyễn Thị H-ờng - ng-ời
đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, h-ớng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo
trong Khoa Giáo dục tiểu học, tr-ờng Đại học
Vinh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc
đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên, khích
lệ, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn
thành luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2012
Tác giả

Ngô Thị Mỹ Huế



1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm trở lại đây, vấn đề “đổi mới phương pháp dạy học”
thực sự trở thành một vấn đề nóng bỏng, tạo được sự quan tâm đặc biệt toàn
ngành Giáo dục. Mục đích đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học là
thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy
học tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo, rèn luyện khả năng và thói quen tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Có rất nhiều phương pháp dạy học mới đang được triển khai để hưởng
ứng “cuộc cách mạng đổi mới phương pháp dạy học” nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục. Trong đó có dạy học bằng Bản đồ tư duy – một phương pháp
mới cũng đang thu hút sự quan tâm chú ý của giáo viên, cán bộ quản lí và các
nhà nghiên cứu.
Cho đến nay, Bản đồ tư duy đã được ứng dụng rất nhiều và thành công
trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Đặc biệt, trong học tập, Bản đồ tư
duy là công cụ hữu ích, có tính khả thi cao để ghi nhớ và học tốt các môn học.
Một thực trạng đáng báo động, tại các kì thi đại học gần đây cho kết
quả về môn thi Lịch sử của học sinh quá yếu kém. Có hàng ngàn bài thi môn
Lịch sử bị điểm không. Đây là một kết quả mà không ai mong muốn, nhưng
vẫn phải chấp nhận. Điều đó đã gây thất vọng cho toàn xã hội nói chung, cho
ngành giáo dục nói riêng. Nhìn lại việc dạy học ở nhà trường phổ thông nói
chung, nhà trường tiểu học nói riêng, hầu hết học sinh đều thờ ơ, nói là không
thích học bộ môn Lịch sử, học sinh thường chỉ học Lịch sử một cách đối phó,
học thuộc theo kiểu“học vẹt”. Chính việc dạy học Lịch sử không thu hút,
không kích thích được sự hứng thú của học sinh là một trong những nguyên

nhân dẫn đến kết quả đó.


2

Giáo sư sử học Dương Trung Quốc đã nhận định rằng: “Lịch sử dân
tộc Việt Nam thật bi hùng, nhiều hạnh phúc, nhưng cũng không ít đớn đau, đa
chiều cảm xúc, đủ lay động tâm can mọi con người và giúp họ sống đẹp hơn,
tốt hơn. Nhưng cái được thể hiện trên mặt sách giáo khoa thì vẫn còn khô
khan, đơn điệu, thiếu cảm xúc. Đã như thế thì đánh thức tình yêu lịch sử sao
được?”. “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” –
Câu thơ đầu trong diễn ca “Lịch sử nước ta” của Bác Hồ là lời kêu gọi, lời
răn dạy cho muôn thế hệ con cháu Việt Nam. Thế nhưng như nhận định của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một diễn đàn về Sử học: “… Lớp trẻ của
chúng ta đã không còn quan tâm tới lịch sử dân tộc…”.
Lịch sử là môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra
trong quá khứ, chính vì thế nhiệm vụ dạy học của Lịch sử không phải để nhồi
nhét vào trí nhớ một cách vô cảm những sự kiện, con số, ngày tháng, mà học
Sử là để rung động với sự kiện lịch sử. Học Sử để rút ra những bài học về
nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và hành. Nếu một
dân tộc không có sự hiểu biết, lòng tự tôn, tự hào dân tộc, giữ gìn đúng đắn
lịch sử của mình thì cũng giống như con người không có cội nguồn.
Tiểu học chính là cấp học đầu tiên cung cấp cho các em những kiến
thức lịch sử, làm nền tảng để phát triển lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân
tộc trong mỗi học sinh. Để có thể giúp học sinh nhớ lâu các sự kiện, kích
thích sự hứng thú học tập của các em trong môn Lịch sử, Bản đồ tư duy chính
là một trong những phương pháp học tập đạt hiệu quả cao. Bản đồ tư duy
hoàn toàn có thể giúp học sinh sắp xếp các sự kiện, diễn biến, nhân vật… một
cách hệ thống, dễ nhớ, hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn
đề một cách sâu sắc, “định vị trong đầu” được các kiến thức, có cách nhìn

vấn đề một cách hệ thống khoa học, học tốt không chỉ kiến thức trong sách vở
mà còn cả từ thực tiễn cuộc sống.


3

Với tất cả những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: SỬ DỤNG “BẢN
ĐỒ TƯ DUY” TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng Bản đồ tư duy nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử
ở tiểu học.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Phương pháp dạy học phân môn Lịch sử ở trường tiểu học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thiết kế và xây dựng quy trình sử dụng “Bản đồ tư duy” trong quá
trình dạy học phân môn Lịch sử ở trường tiểu học.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu trong quá trình dạy phân môn Lịch sử giáo viên biết sử dụng Bản
đồ tư duy một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm môn học và đặc điểm nhận
thức của học sinh thì sẽ nâng cao chất lượng dạy học phân môn này ở trường
tiểu học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ
sau:
5.1. Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
5.2. Khảo sát thực trạng dạy học môn Lịch sử và việc sử dụng Bản đồ tư
duy vào dạy học môn học này ở trường tiểu học
5.3. Đề xuất và thử nghiệm cách thức sử dụng “Bản đồ tư duy” vào dạy

học môn Lịch sử ở tiểu học
6. Phạm vi nghiên cứu


4

Chương trình Lịch sử lớp 5; ở trường Tiểu học Châu Á - Thái Bình
Dương và trường Tiểu học Á Châu trên địa bàn quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh.
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các tài liệu nhằm xác lập cơ sở
lí luận của đề tài.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra, khảo sát
Tìm hiểu, khảo sát và rút ta nhận xét về thực trạng sử dụng Bản đồ tư
duy trong dạy học môn Lịch sử ở một số trường tiểu học.
- Phương pháp quan sát
Quan sát quá trình dạy học, cách thức tổ chức hoạt động dạy học môn
Lịch sử lớp 5 ở một số trường tiểu học.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành dạy một số tiết Lịch sử lớp 5 có sử dụng Bản đồ tư duy nhằm
khẳng định tính khả thi của đề tài.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lí các số liệu thu được.
8. Đóng góp của luận văn
Đề tài nhằm làm phong phú và nâng cao trình độ nhận thức của bản
thân về lí luận dạy học nói chung, dạy học Lịch sử cũng như phương pháp
vận dụng Bản đồ tư duy vào dạy học Lịch sử nói riêng. Kết quả của đề tài
không chỉ khẳng định vai trò của Bản đồ tư duy là một công cụ hữu ích để

dạy - học, mà còn phát triển tư duy người học, tạo thái độ và động cơ học tập
đúng đắn để học sinh có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến
thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết phù hợp các vấn đề nảy sinh.


5

Nghiên cứu đề tài nhằm giúp bản thân nâng cao trình độ hiểu biết thực
tiễn dạy học Lịch sử ở trường tiểu học. Qua đó có khả năng vận dụng Bản đồ
tư duy vào thực tiễn quá trình dạy học thực tập và giảng dạy sau này.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục các từ viết tắt, kết luận, kiến nghị, tài
liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được cấu trúc thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng Bản đồ tư duy vào
dạy học Lịch sử ở tiểu học.
Chương 2: Sử dụng phương pháp Bản đồ tư duy trong dạy học phân môn
Lịch sử ở trường tiểu học.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.


6

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƢ DUY VÀO DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TIỂU HỌC
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sử dụng Bản đồ tư duy vào công việc hay học tập ngày nay đã và đang
nhận được sự quan tâm đặc biệt của mọi người. Bản đồ tư duy được mệnh
danh là “công cụ vạn năng cho bộ não”, là phương pháp ghi chú đầy sáng

tạo, nó đem lại những hiệu quả thực sự đáng kinh ngạc, nhất là trong lĩnh vực
giáo dục và kinh doanh. Là cha đẻ của phương pháp tư duy này, Tony Buzan
đã đi khắp thế giới để thực hiện sứ mệnh của mình, sứ mệnh giải phóng sức
mạnh của bộ não, nhằm khám phá và sử dụng năng lực sáng tạo mạnh mẽ của
mỗi con người một cách dễ dàng nhất. Bản đồ tư duy đã được phổ biến rộng
rãi trên khắp thế giới thông qua nhiều cuốn sách của Tony Buzan, tiêu biểu
như:
- “Mind maps at work” – “Bản đồ tư duy trong công việc” là cuốn
sách đầu tiên về Bản đồ tư duy được dịch ra tiếng Việt. Với cuốn sách này
bạn không chỉ hiểu được: – Bản đồ tư duy là gì? Tại sao nên ứng dụng Bản
đồ tư duy? mà còn được trả lời câu hỏi: – Sử dụng Bản đồ tư duy như thế nào
trong việc học tập, phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và tạo ra các sản phẩm
dịch vụ?
- “Use your head” – “Hơn nhau ở cái đầu” là cuốn sách viết về hoạt
động của bộ não giúp chúng ta hiểu hơn về nguyên lý hoạt động của bộ não,
nên sử dụng nó như thế nào để có hiệu quả tối ưu hay có thể ghi nhớ lâu hơn,
đọc nhanh hơn, hiệu quả hơn. Không những thế, chúng ta còn thấy được sự


7

tương thích giữa Bản đồ tư duy với cấu tạo chức năng và hoạt động của bộ
não.
- “How to mind map” – “Lập bản đồ tư duy” giúp chúng ta tiếp cận
khái niệm Bản đồ tư duy; chỉ ra các bước để tạo ra một Bản đồ tư duy hoàn
chỉnh và đưa ra các ví dụ minh họa.
- Với “Mind maps for kids” – “Bản đồ tư duy cho trẻ em” Tony Buzan
đã khẳng định vai trò to lớn của Bản đồ tư duy trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống. Đồng thời, khẳng định Bản đồ tư duy phù hợp với đặc điểm và tâm lý
nhận thức của trẻ em từ 7 – 18 tuổi. Cuốn sách sẽ hướng dẫn cho các em cách

thức để trang bị cho mình một phương pháp học tập mới, hấp dẫn và hiệu quả.
- Cuốn “Sơ đồ tư duy” của Tony Buzan và Barry Buzan được viết dưới
dạng một cuộc phiêu lưu, tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc khám phá những
điều đáng kinh ngạc về bộ não của con người. Cuốn sách giới thiệu về Bản đồ
tư duy như một công cụ mới mang tính cách mạng, cho phép bạn tận dụng tốt
nhất tư duy rộng mở trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống.
- “10 cách đánh thức tư duy sáng tạo” giới thiệu cho người đọc cách
sử dụng Bản đồ tư duy như một phương pháp để khai thác trí tuệ sáng tạo,
phân tích một số ví dụ kinh điển có sử dụng công cụ tư duy này để tăng khả
năng tư duy sáng tạo.
Năm 2007, Tony Buzan đã đến Việt Nam. Ông đã tham dự chương
trình “Người đương thời”. Với những câu chuyện thú vị, hấp dẫn ông đã chỉ
ra sự hoạt động của bộ não, cách thức để có thể phát huy hết tiềm năng của bộ
não cũng như cách vận dụng Bản đồ tư duy có hiệu quả.
Cùng với Tony Buzan, nhiều tác giả – những người đã vận dụng thành
công Bản đồ tư duy vào trong công việc của mình, cũng đã cho xuất bản
nhiều cuốn sách viết về tác dụng của Bản đồ tư duy. Tiêu biểu như tác phẩm
“I am gifted, so are you” – “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế” của Adam Khoo.


8

Trong chương 7 của cuốn sách này, Adam Khoo đã đưa ra vai trò cũng như
cách vận dụng, thiết lập Bản đồ tư duy phục vụ hiệu quả cho công việc và học
tập.
Tác giả Joyce Wycoff trong cuốn “Ứng dụng Bản đồ tư duy để khám
phá tính sáng tạo và giải quyết vấn đề” đã trình bày một cách sơ lược về
nguyên lý và ứng dụng Bản đồ tư duy trong dạy học.
Ở Việt Nam, phương pháp Bản đồ tư duy bắt đầu thâm nhập khoảng 7
năm trước. Tuy nhiên, hiện nay nó vẫn khá mới mẻ, chưa được nhiều người

biết đến. Chủ yếu vẫn tập trung ở các thành phố lớn. Khi Bản đồ tư duy được
ứng dụng vào nước ta, nó đã mang lại rất nhiều thành tựu trong nhiều lĩnh
vực, đặc biệt trong kinh doanh và giáo dục.
Trong kinh doanh, việc ứng dụng Bản đồ tư duy đã giúp cho công ty
quảng cáo Stormn Eye có nhiều dự án, chiến lược thành công trong nhiều
năm qua, giúp Trung tâm phát triển, đào tạo quản lí và Anh ngữ ITD tại Việt
Nam mở rộng các lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp mình.
Trong giáo dục, công cụ này chưa được vận dụng nhiều. “Dạy tốt – học
tốt ở tiểu học bằng Bản đồ tư duy” và “Dạy tốt – học tốt các môn học bằng
Bản đồ tư duy” của TS. Trần Đình Châu cùng với TS. Đặng Thị Thu Thuỷ,
đây là hai tác giả đầu tiên ở Việt Nam phổ biến công cụ này tới hệ thống các
trường phổ thông. Theo tìm hiểu của chúng tôi, cũng có một số giáo viên đã
chịu khó tìm tòi và vận dụng Bản đồ tư duy trong các môn học: Văn học, Sinh
học, Toán học, … Tiêu biểu là thầy giáo Hoàng Đức Huy đã vận dụng rất
hiệu quả phương pháp này trong dạy học Ngữ Văn và được các nhà giáo dục
công nhận.
Hiện nay, Bản đồ tư duy của Tony Buzan đang được hơn 250 triệu
người trên thế giới sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực như kinh doanh và đặc
biệt là giáo dục. Tuy nhiên, nghiên cứu Bản đồ tư duy trong dạy học môn


9

Lịch sử lớp 5 với sự hỗ trợ của phần mềm dạy học thì chưa thấy tác giả nào
đề cập đến. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề này nghiên cứu nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn Lịch sử lớp 5 nói riêng và Lịch sử ở
chương trình tiểu học nói chung.
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.1.2.1. Tư duy
Để định nghĩa tư duy, chúng tôi nhận thấy các tác giả, mỗi người có

một cách hiểu riêng của mình.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tư duy là sản phẩm cao
nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt – bộ não người. Tư duy phản
ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các khái niệm, sự phán đoán, lý
luận, v.v... [39]
Như vậy, tư duy trước hết là sự phản ánh ở trình độ cao bằng con
đường khái quát hoá, hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật của đối
tượng.
Theo V.I. Lê nin, tư duy là sự phản ánh thế giới tự nhiên sâu sắc hơn,
trung thành hơn, đầy đủ hơn, đi sâu một cách vô hạn, tiến gần đến chân lý
khách quan hơn. “Tư duy của người ta – đi sâu một cách vô hạn, từ giả tưởng
tới bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể như vậy, đến bản chất cấp hai...
đến vô hạn. [40]
Tư duy là quá trình sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần. Theo
C.Mác thì cái tinh thần (ở đây, chúng ta cũng có thể hiểu đó chính là tư duy)
chẳng qua là cái vật chất được chuyển vào trong đầu và được cải tạo lại ở
trong đó. [42]
Tư duy còn là quá trình tiến tới cái mới, đề xuất những nhận thức mới,
là quá trình không ngừng bổ sung và đổi mới. Quy luật của tư duy thực chất là
quy luật của sự phát triển và tìm tòi cái mới.


10

Vấn đề này được Rubinstêin cho rằng: Trong quá trình tư duy, khách
thể được tất cả nội dung mới, cứ mỗi lần lật đi, lật lại, nó lại được bộc lộ một
khía cạnh mới, tất cả các tính chất mới của nó được làm rõ.
Một số tác giả khác lại cho rằng, trong quá trình lập luận, tư duy đạt
được những cứ liệu ngày càng mới, vượt ra ngoài phạm vi các điều kiện ban
đầu và khi sử dụng các điều kiện này, tư duy đi đến những kết luận ngày càng

mới, nhờ chủ thể đưa các đối tượng ở vị trí ban đầu vào trong các mối liên hệ
mới. Mỗi lần như vậy, tư duy tựa như lật ra một khía cạnh mới, phát hiện và
rút ra hết được các thuộc tính và quan hệ mới của chúng. [19]
Như chúng ta đã biết, quá trình tư duy chỉ diễn ra khi xuất hiện vấn đề,
nhưng đòi hỏi chủ thể phải ý thức rõ ràng được vấn đề và tiếp nhận nó như
một mâu thuẫn cần phải hành động để giải quyết. Theo X L. Rubinstêin, tư
duy thường bắt đầu từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ sự ngạc nhiên, sự thắc
mắc hay từ một mâu thuẫn nào đó lôi cuốn cá nhân vào hoạt động tư duy.
Những vấn đề đó được ông gọi là “tình huống có vấn đề”. Để một vấn đề trở
thành tình huống có vấn đề của tư duy, đòi hỏi chủ thể phải có nhu cầu, mong
muốn giải quyết vấn đề đó. Mặt khác, chủ thể cũng phải có tri thức cần thiết
có liên quan thì việc giải quyết vấn đề mới có thể diễn ra, quá trình tư duy
mới được diễn ra.
Từ cách tiếp cận mô hình xử lý thông tin, tác giả Đặng Phương Kiệt
quan niệm: “Tư duy là một quá trình tâm trí phức tạp, tạo ra một biểu tượng
mới bằng cách làm biến đổi thông tin có sẵn”. [24]
Với cách tiếp cận này, tác giả cho rằng, các quá trình tư duy của con
người được diễn ra ở đoạn trên cùng của trình tự xử lý thông tin và điều gì sẽ
diễn ra khi đạt tới giai đoạn này của quá trình xử lý thông tin thì được gọi là
tư duy. Dựa trên cơ sở những mối liên hệ, quan hệ vốn có của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan và lý thuyết phản ánh, tác giả Mai Hữu Khuê


11

cho rằng “Tư duy là quá trình tâm lý phản ánh những mối liên hệ và quan hệ
giữa các đối tượng hay các hiện tượng của hiện thực khách quan”. [23]
Tác giả cho rằng, tư duy khác hẳn với tri giác ở chỗ tư duy không chỉ
thực hiện được những bước như đã xảy ra ở tri giác, là tách các phần riêng lẻ
của sự vật, mà còn cố gắng hiểu các phần đó có quan hệ với nhau như thế nào.

Tư duy phản ánh bản chất của sự vật, và do đó là hình thức phản ánh hiện
thực cao nhất.
Với việc xem tư duy như là quá trình phân tích, tổng hợp... Nguyễn
Đình Trãi cho rằng: “Tư duy là quá trình phân tích, tổng hợp, khái quát
những tài liệu đã thu được qua nhận thức cảm tính, nhận thức kinh nghiệm để
rút ra cái chung, cái bản chất của sự vật”. [37]
Với tư cách là quá trình nhận thức, tập thể tác giả: Trần Minh Đức,
Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn, Hoàng Mộc Lan, coi “Tư duy là một
quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc tính của bản chất, những mối liên
hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng mà trước đó ta chưa
biết”. [15]
Phân tích một số quan niệm về tư duy như trên để có thể hiểu sâu thêm
định nghĩa của tư duy: Tư duy là quá trình tân lý phản ánh hiện thực khách
quan một cách gián tiếp là khái quát, là sự phản ánh những thuộc tính chung
và bản chất, tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật,
hiện tượng mà ta chưa từng biết.
1.1.2.2. Bản đồ tư duy
Bản đồ tư duy (BĐTD) hay còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,…
hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau. Các quan điểm này tùy thuộc vào
cách nhìn nhận của mỗi người về nó.
Tony Buzan – cha đẻ của BĐTD trong cuốn “Lập Bản đồ tư duy” do
Phạm Thế Anh biên dịch cho rằng: BĐTD là phương pháp dễ nhất để truyền


12

tải thông tin vào bộ não của bạn rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một
phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó.
[35]
Trong cuốn “Sử dụng trí tuệ của bạn” biên dịch Lê Huy Lâm đã định

nghĩa: BĐTD là phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh
của bộ não. Đây là cách ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp hay để phân tích vấn đề
thành một dạng của lược đồ phân nhánh. [36]
Biên dịch Thanh Huyền trong cuốn “Bản đồ tư duy cho trẻ em” đã
quan niện Bản đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là một phương tiện
ghi chép hiệu quả thể hiện sự “sắp xếp” ý nghĩ của bạn. [32]
Bên cạnh đó, một số trang web trên mạng cũng đưa ra một số quan
niệm về Bản đồ tư duy: Theo nguồn tin từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia,
Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra như là một phương
tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để
ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng
của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu
tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định chẳng hạn như trình tự biến cố
xuất hiện của một câu truyện) thì não bộ còn có khả năng liên lạc, liên hệ các
dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ não.
[43]


13

Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ
ý, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình, trong đó các đối tượng
liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi
nhớ, nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn. Thay vì dùng chữ viết để miêu
tả một chiều biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh
hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan hệ hỗ tương giữa các
khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong
của một vấn đề lớn. [43]
BĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và
đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu

tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét,
màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con
người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
BĐTD được hiểu là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi
người bằng việc kết hợp nét vẽ, màu sắc và chữ viết. Đặc biệt đây là một sơ
đồ mở, việc thiết kế BĐTD theo mạch tư duy của mỗi người.


14

BĐTD chính là sự biểu thị cho cách tư duy của bộ não. BĐTD hoạt
động dựa trên các quy luật tư duy. Nó không ngừng giúp bạn lưu ý tới trung
tâm của vấn đề, bằng liên kết và tưởng tượng, sẽ hướng bạn tới những kết
luận quan trọng. [18]
BĐTD là kết quả của việc bắt đầu từ một ý tưởng trung tâm và viết ra
những ý khác liên quan tỏa ra từ trung tâm rồi kết nối chúng lại với nhau.
Thạc sĩ Trương Tinh Hà (Khoa Vật lý Trường Đại học Sư phạm
TP.HCM), trong bài viết “Giảng dạy và học tập với công cụ bản đồ tư duy”
cũng đưa ra quan niệm về Bản đồ tư duy – BĐTD là công cụ xây dựng được
một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi
ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng
tượng và khả năng sáng tạo… [17]
Đây là một hình thức ghi chép sử dụng nhiều màu sắc và hình ảnh để
lập kế hoạch hay giải quyết một vấn đề nào đấy. Với BĐTD thì chúng ta có
thể có một cái nhìn tổng quan và đầy đủ về các kế hoạch, dự án, đồng thời
phát huy tối đa sức mạnh trí tuệ để giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. [21]
Có quan niệm khác thì đơn giản hóa BĐTD bằng công thức:
Ghi nhớ tốt + Từ khoá + Não trái phải = BẢN ĐỒ TƢ DUY
Ghi nhớ tốt
+

Từ khóa

=

+

BẢN ĐỒ TƯ DUY

Não trái phải

Theo điều khảo sát thì phần đông những người biết đến BĐTD đều
đồng ý với quan niệm của nhóm Tư duy mới – New Thinking Group trong
cuốn “Sử dụng Bản đồ tư duy trong công việc”: BĐTD là một hình thức ghi


15

chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng, đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản
đồ là một ý tưởng hay hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm
này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho những ý chính và đều
được nối với ý trung tâm. Các nhánh chính lại được phân thành những nhánh
nhỏ nhằm nghiên cứu chủ đề ở mức độ sâu hơn nữa. Nhờ sự kết nối giữa các
nhánh mà các ý tưởng cũng có sự liên kết dựa vào mối liên hệ của bản thân
các ý. Điều này khiến BĐTD có thể bao quát được các ý tưởng trên một phạm
vi sâu rộng mà một bản liệt kê các ý tưởng thông thường không thể làm được.

Mặc dù diễn đạt khác nhau nhưng tất cả các quan niệm trên đều hướng
đến một kết luận chung: BĐTD là công cụ tổ chức tư duy, giúp con người làm
việc khoa học, sáng tạo.
1.1.2.3. Phương pháp dạy học

Khái niệm “phương pháp” xuất phát từ thuật ngữ Hi Lạp “Methodos”,
có nghĩa là “con đường nghiên cứu”, “cách thức nhận thức”.
Lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định “phương
pháp” là hình thức tìm hiểu thấu đáo về mặt lý luận và thực tiễn hiện thực


16

khách quan, xuất phát từ quy luật vận động của khách thể nghiên cứu. Do đó,
phương pháp là một hệ thống các nguyên tắc điều khiển hoạt động cải tạo
hiện thực hay hoạt động nhận thức lý luận của con người.
Phương pháp dạy học (PPDH) là con đường, cách thức hoạt động thống
nhất của thầy và trò, trong đó thầy tổ chức, hướng dẫn học sinh (HS) học tập
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
1.1.3. Một số vấn đề về sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học
1.1.3.1. Ưu, nhược điểm của Bản đồ tư duy trong dạy học
Ƣu điểm:
Thạc sĩ Gabriela Melano, Chuyên gia dịch vụ tư vấn giải quyết mâu
thuẫn sau khi sử dụng BĐTD đã đưa ra nhận định rằng: “BĐTD là một công
cụ vô giá… Đó là một công cụ có giá trị đặc biệt đối với những nhóm đến từ
những nền văn hóa, ngôn ngữ và trình độ học vấn khác nhau. Bằng cách kết
hợp từ khóa với hình ảnh, nó đề cập đến sự đa trí tuệ, làm cho những cuộc
đối thoại giao thoa văn hóa trở nên dễ dàng hơn”. [22]
Qua lời nhận định đó, chúng ta đã thấy BĐTD có công dụng rất to lớn.
Thứ nhất: Bản đồ tư duy kích hoạt trí sáng tạo
Bất cứ khi nào chúng ta muốn khuyến khích sự sáng tạo, Bản đồ tư duy
sẽ giúp giải phóng cách suy diễn cổ điển theo phương thức ghi chép sự kiện
theo dòng, cho phép các ý tưởng mới được hình thành nhanh chóng theo
luồng tư duy xuất hiện. Phương pháp ghi lại những ý tưởng theo cách truyền
thống cho phép chúng ta chuyển từ ý tưởng này sang ý tưởng theo hàng, theo

dãy. Kiểu ghi này sẽ hạn chế khả năng của chúng ta trong việc nhận ra được
bức tranh, mô hình và mối tương quan giữa những ý tưởng mà chúng ta đang
ghi chép. Khi vẽ bản đồ chúng ta không những có thể ghi ý tưởng bằng từ ngữ
mà còn có thể ghi lại bằng kí hiệu, biểu tượng. Như thế có nghĩa là cả hai kiểu
xử lí đều đã được đem ra ứng dụng.


17

BĐTD không những sử dụng chữ và số mà nó còn sử dụng cả màu sắc
và hình ảnh; nhờ vậy nó kết hợp hoạt động của cả hai bán cầu não trái và
phải. Sự kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên kết giữa hai bán cầu não, và
kết quả là tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não. Điều này
giải thích vì sao bạn có thể phát huy toàn bộ khả năng tư duy của mình khi sử
dụng BĐTD. Mỗi bán cầu não đều đồng thời nhận sự hỗ trợ và củng cố của
nửa kia nhằm đem đến một khả năng sáng tạo vô biên. Nếu chúng ta kích
thích nó bằng những công cụ tư duy và học tập phù hợp chắc chắn sẽ đem lại
những giải pháp tuyệt vời cho bất kì vấn đề nào, đó là chìa khóa dẫn tới thành
công.
Thứ hai: Nhìn thấy bức tranh tổng thể
Ưu điểm của BĐTD là giúp người ta nhìn vấn đề toàn thể hơn, theo
một cách nói khác thì BĐTD là tư duy hệ thống nhìn thấy cả rừng, tức là
không chỉ nhìn thấy cây mà còn thấy cả rừng. Mỗi BĐTD đều bắt đầu từ hình
ảnh hay từ khóa nằm ở vị trí trung tâm và bao quanh là các nhánh rẽ thể hiện
mối quan hệ với vấn đề chính. Vì thế khi nhìn vào BĐTD chúng ta nhanh
chóng biết đâu là trọng tâm, những ý nào giải thích cho ý trọng tâm đó. Từ
đó, cho phép người học có được cái nhìn tổng quan về vấn đề đang nghiên
cứu. Ý trọng tâm nằm ở vị trí này sẽ tạo thuận lợi trong việc liên kết với
những ý phân cấp khác giúp ta dễ dàng triển khai một hệ thống hài hòa, đồng
thời nó giữ vai trò định hướng để phát triển các ý sau. Hình ảnh trung tâm là

một công cụ hiệu quả để tạo hình dáng, cấu trúc giúp tư duy hoạt động theo
cơ chế tự nhiên.
Xuất phát từ vấn đề trung tâm đó, người xem sẽ biết được mức độ quan
trọng của những nhánh rẽ xung quanh. Các nhánh rẽ này lại được phân thành
các nhánh nhỏ hơn nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Cứ như thế sự
phân nhánh được tiếp tục, các kiến thức hay hình ảnh luôn được nối kết với


18

nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra “bức tranh tổng thể” mô tả ý tưởng một
cách đầy đủ và rõ ràng. Với một BĐTD, chúng ta luôn nhìn thấy bao quát các
vấn đề, định hướng được các mục đích, yêu cầu cần làm rõ, tìm hiều vấn đề
một cách kĩ càng ở mọi khía cạnh, giúp trí não nhanh chóng huy động nguồn
kiến thức liên quan. Nó giúp ta làm việc một cách có hệ thống và khoa học,
có cái nhìn tổng thể về chương trình, nắm rõ từng chi tiết công việc, quản lí
tiến độ thực hiện và kiểm tra kết quả đã đạt được.
BĐTD với việc sử dụng thích hợp các hình ảnh và màu sắc nên rất trực
quan, không chỉ cho thấy thông tin mà còn nhìn thấy bức tranh tổng thể của
vấn đề. Nhìn vào BĐTD các khái niệm được lập tức tiếp nhận bằng thị giác,
giúp người xem, người học có cái nhìn tổng quát về vấn đề đang được nói
đến. Từ đó, người học có thể tiếp tục suy nghĩ để tìm ra cách giải quyết vấn
đề đó như thế nào.
BĐTD còn giúp ta dự đoán được các tình huống có thể xảy ra và dự
kiến những phương án giải quyết tối ưu cho nên kết quả có được sẽ tốt hơn rất
nhiều.
Thứ ba: Bản đồ tư duy hỗ trợ trí nhớ
Trong cuộc sống có biết bao nhiêu điều cần phải ghi nhớ. Bởi vậy, bộ
não của con người như một nhà kho khổng lồ chứa đựng tất cả các thông tin
ấy. Hãy so sánh bộ não và kiến thức chứa trong nó với một thư viện. Những

thông tin, kiến thức chứa trong não nhiều như một kho sách vở, báo chí, băng
đĩa đồ sộ trong thư viện ấy. Nếu thư viện ấy không tổ chức sắp xếp, phân loại
các tài liệu thì khi chúng ta đi tìm một cuốn sách hay một cái đĩa CD trong đó,
chúng ta sẽ phải đánh vật với một đống tài liệu mà cũng chưa chắc đã tìm ra.
Khi thư viện đó được sắp xếp một cách gọn gàng, khoa học theo từng thể loại,
chuyên đề, xuất xứ, năm xuất bản, tác giả… với mã số riêng được ghi trên
từng cuốn sách… thì việc tìm kiếm sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tương tự như


19

vậy, nếu bộ não được tổ chức tốt thì việc ghi nhớ thông tin và sự tư duy sẽ
hiệu quả hơn rất nhiều.
Trí nhớ được tạo thành bằng cách liên kết từng mảng thông tin với
nhau. Hay nói một cách cụ thể hơn, việc ghi nhớ một thông tin mới chỉ đơn
giản là liên kết thông tin đó với một thông tin khác chúng ta đã biết. BĐTD đã
thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động. Đó là liên kết,
liên kết và liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não bộ của con người đều cần
có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và sử dụng. Khi có một thông
tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại, chúng cần kết nối với các
thông tin cũ đã tồn tại trước đó. Vì vậy, BĐTD hỗ trợ đắc lực cho việc ghi
nhớ các kiến thức, đồng thời nhớ lại và vận dụng các kiến thức đã học.
Bất cứ khi nào thông tin được xuất hiện từ trong bộ não, thì BĐTD cho
phép các ý tưởng được ghi lại rất nhanh ngay khi nó được sinh ra vào một hệ
thống có tổ chức. Vì thế chẳng cần phải viết cả một câu. Nó như một phương
tiện nhanh và hiệu quả trong việc tổng quát và vì thế có thể giữ lại các hồi
tưởng rất nhanh gọn.
Cách tốt nhất là sử dụng các hình ảnh, bức tranh, kí hiệu, mã số, màu
sắc, sự liên tưởng bởi trí nhớ được tạo thành, bằng cách liên kết từng mảng
thông tin với nhau. BĐTD đã kết hợp tất cả những kĩ năng của bộ não để tạo

ra một công cụ trí nhớ đa chiều tiên tiến. Sử dụng BĐTD sẽ tăng khả năng ghi
nhớ lên bội phần, nhớ chi tiết cụ thể trong từng sự kiện, nhớ rõ thông tin, sắp
xếp theo từng nhóm có hệ thống. Cùng với những hình ảnh nổi bật, bạn có thể
ghi nhớ tất cả các ý rất chính xác. BĐTD chuyển kiến thức vào hình ảnh để
lưu vào bộ não một cách dễ dàng nên việc ghi nhớ bài học sẽ đơn giản hơn.
Thông qua việc tạo lập BĐTD sẽ hỗ trợ trí nhớ đồng thời giúp rèn
luyện các năng lực tư duy sáng tạo lại nâng cao khả năng nhớ tạo thành một
đường xoắn ốc cùng tương trợ nhau đi lên.


20

Thứ tư: Tiết kiệm thời gian
Từ trước tới nay với cách ghi chép thông tin bằng các kí tự, đường
thẳng, con số thì chúng ta mới chỉ sử dụng nửa bộ não – não trái, mà chưa hề
sử dụng kĩ năng nào bên não phải – nơi giúp chúng ta xử lí các thông tin về
nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Cách ghi chép này khiến
chúng ta phải đọc từng từ trong bài như vậy sẽ chiếm một lượng thời gian rất
lớn. Cách ghi chép của BĐTD không chỉ sử dụng kí tự, con số mà còn sử
dụng cả màu sắc, hình ảnh nên đã huy động tối đa khả năng của bộ não. Lập
BĐTD bằng việc lựa chọn hình ảnh biểu trưng và những từ ngữ quan trọng
thể hiện nội dung chính của vấn đề rồi liên kết chúng lại với nhau một cách rõ
ràng, hợp lí sẽ giảm lượng thời gian đáng kể. Nhờ vào việc tận dụng những từ
khóa và hình ảnh sáng tạo, một khối lượng lớn kiến thức có thể được ghi chú
hết sức cô đọng trong một trang giấy, mà không bỏ sót bất kì một thông tin
quan trọng nào. Như vậy, chúng ta đã có thể tiết kiệm được 60 – 80% thời
gian học một cách hiệu quả.
Thứ năm: Tạo hứng thú học tập
Trong học tập, sự hứng thú có một vai trò quan trọng. Nếu không có
hứng thú thì cũng chẳng có sự tích cực trí tuệ. Hình thành hứng thú học tập rất

quan trọng, đó là cơ sở để phát huy tính tích cực của người học. Để tạo được
hứng thú học tập điều cốt yếu là làm cho nhu cầu nảy sinh, hình thành và phát
triển.
Một lí do khiến vẽ BĐTD trở thành một phương pháp học dành cho
mọi lứa tuổi là vì nó đã làm cho việc học trở nên thú vị hơn và bổ ích hơn.
Quá trình vẽ, sử dụng hình ảnh, kí hiệu, màu sắc và việc khuyến khích ghi lại
những ý tưởng theo cách đặc biệt là một cơ hội để nghỉ ngơi, thư giãn trước
việc quá tải thông tin trên giấy hoặc trên màn hình máy tính. Hơn nữa, BĐTD
còn giúp giáo viên (GV) nhìn thấu được suy nghĩ của HS và có thể biết chúng


21

hiểu như thế nào về bài học. BĐTD có tính độc nhất. Mỗi một BĐTD là một
cách nhìn riêng của mỗi một bộ não – thế giới nội tâm đa dạng của mỗi người.
Vẽ BĐTD là cách tốt nhất để phân loại cảm xúc, suy nghĩ, giảm bớt sự
căng thẳng. Trong giờ học, nếu GV cứ nói liên tục với giọng đều đều, tẻ nhạt
chắc chắn sẽ tạo không khí nặng nề, kết quả là HS cảm thấy chán, không thích
học, không tập trung chú ý nên hiệu quả đạt được cũng không cao. Thay vào
đó nếu sử dụng BĐTD thì kiến thức được truyền tải bằng hình ảnh, từ khóa,
sự liên kết và cả những yếu tố khác như màu sắc, hình dạng, kích thước làm
cho những điều quan trọng được nổi bật lên chắc chắn rằng sẽ thu hút sự tập
trung của HS. Một khi đã tạo được hứng thú học tập thì bộ não cảm thấy hưng
phấn, lĩnh hội kiến thức được tốt hơn, phát huy được tính độc lập, sáng tạo và
khả năng tư duy.
Thứ sáu: Truyền đạt thông tin
BĐTD có chức năng truyền đạt thông tin rất tốt. Nó có thể chuyển tải
một lượng thông tin khổng lồ từ một văn bản viết tay hay một lát cắt của văn
bản thành một sơ đồ rất đơn giản nhưng ý nghĩa quan trọng. Thông tin trên
Bản đồ đòi hỏi phải chính xác, ngắn gọn, súc tích nhưng phải bao hàm nội

dung vấn đề, chúng có mối liên kết chặt chẽ, không thể tách rời nhau. BĐTD
có tác dụng tạo hứng thú cho người đọc không chỉ bởi màu sắc, hình ảnh mà
còn giúp phát triển trí sáng tạo. Thông tin được thể hiện theo từng cấp độ thứ
bậc và có tính minh họa rất tốt. Để hiểu dụng ý trong BĐTD đòi hỏi người
đọc phải có tư duy và phải suy nghĩ vấn đề một cách rõ ràng.
Thông tin trong BĐTD được trình bày ở dạng thức cô đọng nhất với sự
hỗ trợ của hình ảnh, màu sắc. Điều này góp phần tạo hứng thú tiếp nhận kích
thích trí tưởng tượng và sáng tạo.


22

BĐTD mặc dù rất ngắn gọn nhưng nó chứa đựng một lượng thông tin
lớn hơn nhiều so với hình thức của nó. Đó là những kiến thức trọng tâm mà
thông qua đó người học có thể tưởng tượng, phát triển thêm rất nhiều.
Những tác dụng của BĐTD trong truyền đạt thông tin giúp người học
tiếp cận tri thức một cách hứng khởi từ đó hướng tới một phương pháp làm
việc khoa học, hiệu quả.
Nhƣợc điểm:
Bên cạnh những ưu điểm thì BĐTD cũng có một số hạn chế sau:
- Người sử dụng cần một chút ít khả năng hội họa, tốn nhiều bút màu, giấy vẽ.
- Khả năng tư duy của mỗi người một khác, do đó muốn hiểu BĐTD đôi lúc
sẽ khó khăn nếu không có những lưu ý, ghi chú kèm theo.
- Làm suy giảm khả năng ngôn ngữ viết và diễn đạt bằng ngôn từ của người
thực hiện.
- Với các nhánh bên trái của BĐTD, khác với trình tự thông thường, chúng ta
phải đọc từ phải sang trái nên sẽ khó tiếp nhận thông tin một cách nhanh
chóng, linh hoạt, dễ dàng.
- Đối với vẽ thủ công, việc bổ sung một số lượng lớn thông tin một phần làm
mất thẩm mĩ, một phần tốn thời gian, công sức chỉnh sửa. Vẽ tay thường khó

lưu trữ.
- Vẽ BĐTD bằng máy đòi hỏi người thực hiện cần có vốn hiểu biết cơ bản về
các phần mềm vẽ BĐTD.Vẽ máy phần nào hạn chế sự sáng tạo.
- Trong giáo dục, BĐTD thường chỉ áp dụng với các môn học thuộc khoa học
xã hội và một số ít môn thuộc khoa học tự nhiên, nói chung là các môn học có
nhiều phần lý thuyết. GV cũng cần có những thủ pháp sư phạm khéo léo,
hướng HS tập trung phát biểu, xây dựng theo chủ ý của mình.
1.1.3.2. Một số cách tạo lập Bản đồ tư duy
Tạo lập Bản đồ tƣ duy bằng thủ công


×